KẾT LUẬN
Tình hình hạn hán trên địa bàn Tây Nguyên
ngày càng khốc liệt và gây ra những hậu quả to
lớn cho sản xuất nông nghiệp trong những năm
vừa qua. Tình trạng khai thác nguồn nước chưa
hợp lý và điều tiết nước trên các lưu vực chưa
triệt để dẫn đến thiếu nước trầm trọng vào mùa
khô ở Tây Nguyên. Bên cạnh đó do địa hình bị
chia cắt, các khu vực sản xuất nông nghiệp bị
phân tán nên việc đầu tư xây dựng các hệ thống
thuỷ lợi truyền thống gặp nhiều khó khăn và tốn
kém.
Phát triển công nghệ thủy lợi nhỏ bằng việc ứng
dụng các công nghệ thu trữ nước mặt sẽ là một
hướng nghiên cứu ứng dụng cần được nhân
rộng trên địa bàn Tây Nguyên vì nó mang lại
những hiệu ích như sau:
- Điều kiện tự nhiên phù hợp để ứng dụng các
công nghệ.
- Đáp ứng nhu cầu dùng nước phục vụ sản xuất
nông nghiệp cho những vùng ngoài khu tưới
của công trình thủy lợi và thường xuyên bị thiếu
nước là rất lớn.
- Giá thành rẻ, thi công nhanh và đơn giản, sử
dụng các vật liệu địa phương nhiều.
- Phù hợp chính sách xã hội hoá đang được phổ
biến và nhân rộng trong việc đầu tư xây dựng
các công trình.
Với đặc điểm điều kiện tự nhiên tương đối phù
hợp, việc ứng dụng các công nghệ này để tạo
nguồn cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp,
ứng phó hạn hạn là một giải pháp đúng đắn, cần
thiết cần được ứng dụng và nhân rộng vào thực
tế cho khu vực Tây Nguyên.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp công trình thủy lợi nhỏ về thu trữ nước nhằm ứng phó hạn hạn cho nông nghiệp khu vực Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018 1
GIẢI PHÁP CÔNG TRÌNH THỦY LỢI NHỎ
VỀ THU TRỮ NƯỚC NHẰM ỨNG PHÓ HẠN HẠN
CHO NÔNG NGHIỆP KHU VỰC TÂY NGUYÊN
Trần Minh Thái, Lê Hồng Lưu, Dương Ngọc Hùng
Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên
Tóm tắt: Trong những năm gần đây tình trạng hạn hán và thiếu nước về mùa khô ở Tây Nguyên ngày
càng trầm trọng. Bài báo nêu lên thực trạng sử dụng nước và đưa ra các giải pháp phát triển công
nghệ thủy lợi nhỏ về thu, trữ nước mặt nhằm tạo nguồn cấp nước tưới cho những vùng thường xuyên
bị thiếu nước, hạn hán phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội khu vực Tây Nguyên.
Từ khóa: Công trình thuỷ lợi nhỏ, thu trữ nước mặt, hạn hán, Tây Nguyên.
Summary: In recent years, drought and water shortage in the dry season in the Central Highlands
has been getting worse. This article discusses the current state of water use and proposes solutions to
develop small hydraulic work as collection, archive of surface water to create sources of surface water
reserves for irrigation of the region where often face water shortages and droughts consistent with
natural conditions and social in the Central Highlands of Vietnam.
Keywords: Small hydraulic works, surface water storage, droughts consistent, the Central
Highlands of Vietnam.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ*
Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh, (Kon Tum, Gia Lai,
Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng) với diện tích
vào khoảng 54.641 km2 là vùng có vị trí chiến
lược quan trọng về chính trị, quốc phòng và an
ninh. Giá trị kinh tế trong lĩnh vực Nông nghiệp
chiếm 55,9%. Về dân số theo số liệu thống kê,
năm 2016 có 5.693.200 người.
Không có nơi nào ở Việt Nam như Tây Nguyên,
nơi bắt nguồn của nhiều hệ thống sông, thu
nước từ Tây Nguyên đổ các vùng xung quanh.
Hệ thống sông Sê San, Srêpok, Đồng Nai thu
nước từ Tây Nguyên đổ vào sông Mê Kông ở
phía Tây. Hệ thống sông Ba, sông Thu Bồn,
sông Trà Khúc lấy nước ở Tây Nguyên đổ ra
biển Đông.
Về tiềm năng nước mặt, lượng dòng chảy năm
trên lãnh thổ miền Trung và Tây Nguyên phân
phối rất không đều trong năm, dòng chảy mùa
lũ (chiếm 70-77% lượng dòng chảy năm), dòng
Ngày nhận bài: 08/10/2018
Ngày thông qua phản biện: 20/11/2018
chảy mùa kiệt (chiếm 23-30% lượng dòng chảy
năm). Vào mùa khô, trong nhiều năm có tới 60-
90 ngày liên tục không có mưa, nhiều sông suối
nhỏ hoàn toàn khô hạn.
Với trữ lượng nước mặt lớn với lưu lượng dòng
chảy năm có khoảng 51,05 tỷ m3/năm với 4 hệ
sông lớn như: Sông Sêsan (13,8 tỷ m3/năm);
Sông Sêrêpôk (15,7 tỷ m3/năm); Sông Ba (8,25
tỷ m3/năm); Sông Đồng Nai (13,3 tỷ m3/năm),
nhu cầu sử dụng nước ở Tây Nguyên năm 2015
không xét đến đảm bảo dòng chảy tối thiểu vào
khoảng 6,67 tỷ m3. So với tiềm năng nguồn
nước có được chỉ chiếm khoảng (13 14)%. [6]
Theo thống kê [5], Tây Nguyên hiện có khoảng
hơn 1.200 hồ chứa Thủy Lợi, tuy nhiên hiện tại
năng lực của các hồ chứa trên địa bàn không
còn đảm bảo được nhiệm vụ chống hạn; theo
đánh giá của các cơ quan chức năng thì:
Các công trình thủy lợi hiện tại khu vực Tây
Nguyên mới chỉ đảm bảo cấp nước tưới cho
Ngày duyệt đăng: 06/12/2018
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018 2
khoảng 20% diện tích canh tác (trong đó, chủ
yếu là lúa, còn phần lớn cây trồng cạn vẫn do
người dân tự tưới sử dụng bơm nước ngầm,
bơm nước trực tiếp từ sông, suối và từ các ao hồ
trong khu vực);
Hình 1.1. Hình ảnh khô hạn các hồ chứa nhỏ ở Tây nguyên tháng 3/2016
Trong những năm gần đây (từ năm 2012 đến
trước tháng 7/2016), vào mùa khô do khí hậu
ENSO hoạt động mạnh đã tác động xấu đến
nguồn nước các tỉnh Tây Nguyên ảnh hưởng rất
lớn đến sản xuất cuối vụ Đông Xuân, đầu vụ Hè
Thu và nước sinh hoạt của nhân dân. Theo Cục
Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn) tính đến đầu tháng 6/2016, tổng diện tích
cây công nghiệp, cây ăn quả bị ảnh hưởng do hạn
hán là 110.766ha, trong đó diện tích mất trắng là
7.586ha (trong đó có 496ha hồ tiêu bị chết cháy
tập trung chủ yếu tại Gia Lai 218ha, Đắk Lắk
277ha còn lại là cây cà phê bị mất 100% năng
suất cho niên vụ 2016/2017).
Hình 1.2. Hồ tiêu khô héo, cà phê phải chặt bỏ vì hạn hán
Trước tình hình cấp bách trên, nếu chúng ta có
một giải pháp để thu, trữ nước mặt đáp ứng cho
các vùng khan hiếm nước mà CTTL hiện tại
chưa thể vươn thì sẽ có thể giảm thiểu các thiệt
hại do hạn hán xảy ra ở Tây Nguyên.
2. GIẢI PHÁP THU, TRỮ NƯỚC MẶT
2.1. Cơ sở khoa học chính để đề xuất giải pháp
Lãnh thổ Tây Nguyên nằm trong phạm vi của
nam dãy Trường Sơn gồm hệ thống núi, cao
nguyên với những thung lũng và đồng bằng
giữa núi. Nét nổi bật của địa hình Tây Nguyên
là tính phân bậc rõ ràng, các bậc cao nằm về
phía Đông, bậc thấp nằm về phía Tây, mạng
sông suối tương đối phát triển. Quá trình xâm
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018 3
thực tại đây diễn ra mạnh mẽ tạo ra mạng lưới
đường chia nước (phân thủy) dày đặc tùy theo
hướng mà các đường chia nước này tạo nên
những lưu vực nhỏ, quá trình vận chuyển vật
liệu của các dòng chảy này tạo ra các các dạng
địa hình bồi tụ dọc theo các sông suối nhỏ có
chiều rộng khoảng 15m đến 30.0m với cấu trúc
địa chất (phần bồi tích) đặc trưng như sau [4]:
Lớp 1: Thành phần chủ yếu là cát, cuội sỏi, cát
pha, phân bố trong lòng và hai bên bờ suối.
Chiều dày của lớp từ 1.0 đến 3.0m. hệ số thấm
của lớp từ 10 -3cm/s đến 10-2 cm/s.
Lớp 2: Sét pha nhẹ -cát pha. Chiều dày từ 1.0
đến 4.0m hệ số thấm khoảng 10-4cm/s
Lớp 3: Set pha, sét (edQ) là sản phẩm phong hóa
từ đá gốc ( Bazan, Granit.....) Chiều dày của lớp
này tương đối lớn có đôi chỗ đến 40.0m. Hệ số
thấm của lớp từ 10-5 cm/s đến 10-6 cm/s
Hình 2.1: Mặt cắt địa chất đặc trưng của các
thung lũng sông suối khu vực Tây Nguyên
Các đặc trưng địa chất địa hình nêu trên rất
thuận lợi cho việc bố trí xây dựng các hệ thống
đập ngầm. Chân khay của đập ngầm được đặt
vào lớp 3, các lớp 1, 2 trở thành các đới chứa
nước.
Sườn đồi khu vực Tây Nguyên thường được cấu
tạo nên bởi sản phẩm phong hóa các thành tạo
Mác Ma (Bazan, granit....) và có cấu trúc đặc
trưng như sau [5]:
- Lớp 1: Sét pha lẫn dăm mảnh màu nâu đỏ, nâu
vàng kết cấu rời rạc, đất thường có độ lỗ rỗng
n=60-70%, Hệ số thấm k = 10-4 m/s
- Lớp 2: Sét màu nâu đỏ đốm xám xanh trạng
thái dẻo cứng, nửa cứng đất thường có độ lỗ
rỗng n=40-50%, Hệ số thấm k = 10-6 m/s,
Với cấu trúc đặc trưng như trên thì nước mưa
thẩm thấu vào lớp 1 đến bề mặt lớp do không
thấm được nên chảy theo theo bề mặt không
thấm (bề mặt của lớp 2) và xuất lộ ra ở bề mặt
của sườn đồi và ta thương gọi là mạch lộ.
Hình 2.2: Cấu trúc địa chất đặc trưng của các
sườn đồi khu vực Tây Nguyên
Để lưu trữ nước lại trong lớp 1 chúng ta chỉ cần
dùng hào thu nước cắt ngang theo đường đồng
mức với chân khay của tường hào đặt vào lớp
2. Sau đó tùy theo mục đích cụ thể (giữ nước để
dùng mùa kiệt, hoặt thoát nước để chống trượt
cho các mái ta luy) để thiết kế hệ thống thu nước
cho hợp lý.
Các hệ thống sông lớn Sêsan, Srêpôk (đổ về
sông Mê Kông), sông Ba (đổ về Tuy Hoà, Phú
Yên) và sông Đồng Nai (đổ về Đồng Nai),
ngoài ra còn có một hệ thống sông suối nhỏ đổ
xuống vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đã cung
cấp cho Tây Nguyên một lượng nước là 53,7
km3/năm. Trung bình hàng năm là 972.000
m3/km2. Mạng lưới sông suối dày đặc với mật
độ sông suối trung bình vào khoảng 0,6 km đến
1,2 km/km2. Với mô đun dòng ngầm về mùa
kiệt được phân vùng như sau [4]:
- Vùng I. Có nguồn nước ngầm khá dồi dào, có
môđun kiệt tuyệt đối từ 4 đến 10 l/s.km2. Sự dồi
dào của dòng chảy kiệt ở vùng này được tạo nên
do đặc điểm ưu việt của đất đai. Toàn vùng đều
có đồng nhất một loại đất feralit phát triển trên
đá bazan có tầng phong hóa dày, khả năng thấm
nước lớn. Đất có dộ dốc nhỏ, đại bộ phận là đồi.
Toàn bộ vùng này nằm trùng với khối bazan
Buôn Ma Thuột và Pleiku có thể là những vùng
núi cao có rừng, thảm phủ dày cũng thuộc loại
này. Trên vùng đất bazan này các nhân tố khác
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018 4
cùng phối hợp tác động, trong đó độ sâu chia
cắt của lòng sông là yếu tố quan trọng.
- Vùng II có dòng kiệt trung bình M=1 -
4l/s.km2. Đất đai gồm nhiều loại tổng hợp và có
chiều dày trung bình, không thấy có sự khác
nhau nhiều về độ chia cắt của lòng sông. Vai trò
của địa hình ở đây có vẻ tích cực hơn. Ở vùng
núi lòng sông đào sâu vào lòng đất, đầu nguồn
che phủ tốt. Môđun kiệt là 2,5 đến 4,0l/s.km2.
- Vùng III là vùng kiệt nhất có mô đun kiệt nhỏ
hơn hoặc bằng 1 l/s.km2. Ở đây đất đai hầu như
đã thoái hóa bị bóc mòn đến đá gốc hoặc tầng
đất mặt mỏng, trên mặt có đá lộ đầu, khả năng
giữ nước không có mấy. Cây cối cằn cỗi, lượng
mưa dưới 1600m. Nhân tố độc nhất có khả năng
gây nên sự phân hóa trong vùng là thảm phủ. Ở
những vùng có thảm phủ khá môđun kiệt có
nhiều hơn chút ít.
2.2. Giải pháp thu nước
2.2.1. Đập ngầm
Là một dạng đầu mối của công trình thu nước
bề mặt tầng nông với một số nguyên lý về kết
cấu và giải pháp xây dựng như sau [1], [2]:
- Tạo ra một tường chắn cắt qua tầng bồi tích
bở rời chứa nước (cuội sỏi, cát, cát pha sét pha
nhẹ), nước dưới đất sẽ bị chặn và giữ lại trong
tầng bồi tích vào mùa khô kiệt nước và từ đó
cấp ngược lại cho các tầng nước dưới đất ở các
vùng ven sông suối. Khai thác nước ở trong các
tầng chứa nước đó với các giải pháp như giếng
đào, giếng khoan, ống thu dẫn để phục vụ
cho sản xuất, sinh hoạt.
- Đập ngầm nằm thấp, sát mặt đáy sông suối
nên sẽ không làm biến đổi hiện trạng tự nhiên
của dòng chảy, cũng như không chịu ảnh hưởng
của các hoạt động địa chất động lực như lũ, bùn,
đá, lũ quét, sạt trượt.. và chất lượng nước ổn
định không chịu ảnh hưởng của phù sa, bùn đất
vào mùa lũ do có tầng lọc tự nhiên là cát cuội
sỏi.
- Nước tồn tại trong đất ngoài mục đích sử
dụng làm sinh hoạt có chất lượng ổn định còn
giữ được độ ẩm cho đất tránh làm khô cằn hóa
diện tích canh tác cũng như hạn chế bốc hơi mặt
thoáng.
Hình 2.3: Mô phỏng hệ thống các đập ngầm
trên suối
Hình 2.4: Sơ đồ bố trí công trình Đập ngầm
trên suối
2.2.2. Hào thu nước mái đồi
Nước ngầm tầng nông tồn tại trong các đới đá
phong hóa mãnh liệt, nõn phóng vật hoặc trong
đới tiếp giáp giữa tầng phong hóa và tầng phủ
phía trên. Lưu lượng của tầng này thường nhỏ
và phân bố rộng trên các sườn đồi và chỉ xuất lộ
ra ngoài tại các vị trí thuận lợi, chất lượng nước
tương đối ổn định, ít chịu ảnh hưởng của nước
mặt, nước mưa. Để tận dụng triệt để nguồn nước
này phải xây dựng một hệ thống hào cắt ngang
tầng chứa nước này nhằm gom nước về một vị
trí tập trung để tăng lưu lượng cấp, phục vụ khai
thác sử dụng. Ngoài ra, các hào thu nước bố trí
trên sườn đồi còn có tác dụng tăng thêm lưu
lượng của dòng ngầm thông qua quá trình thẩm
thấu nước dòng mặt vào lớp đất tầng phủ, đảm
bảo duy trì nguồn nước cấp vào mùa khô hạn [1],
[2], [3].
Hào thu nước bao gồm các hệ thống hào gom
nước từ mạch lộ và các tường chắn nước tại các
khe tụ thủy. Hệ thống này ngoài việc tích trữ
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018 5
nước lại trong các bể ngầm còn làm chậm chảy
dòng mặt, làm giảm được hiện tượng xói lở dọc
các khe tụ thủy.....
Hình 2.5: Sơ họa mô hình hệ thống Hào thu
nước mái đồi
2.2.3. Một số ưu điểm của đập ngầm và hào
thu nước mái đồi [1]:
Cho phép đảm bảo tính ổn định và bền vững của
công trình trước các tác động tự nhiên: do chôn
ngầm nên công trình không bị dòng chảy lũ phá
hoại, hoặc xuống cấp do bị bồi lấp; cửa lấy nước
cũng như hệ thống lọc không bị ảnh hưởng bởi
cây rác và bùn cát, cuội sỏi vào mùa lũ nên
không bị lấp tắc như các công trình hiện có.
Đảm bảo nguồn cấp nước ổn định trong các
mùa: hiện nay do tình hình biến đổi khí hậu
cùng với tác động xã hội đã làm chế độ dòng
chảy thay đổi, vào mùa khô dòng chảy mặt bị
cạn kiệt dẫn đến cửa lấy nước bị tê liệt; giải
pháp đã tận thu dòng chảy ngầm của lưu vực
làm nguồn nước cấp cho công trình hoạt động.
Ngoài ra, với hệ thống thu gom, chặn giữ nước
trên các sườn dốc, khe tụ thủy nên đã cho phép
xây dựng công trình cấp nước ngay cả ở những
nơi không có dòng chảy mặt quanh năm.
Đảm bảo ổn định về chất chất lượng nước: do
nước lấy từ tầng nước chảy ngầm nên nước luôn
trong vắt ngay cả trong mùa lũ, nước cấp luôn
đạt tiêu chuẩn nước hợp vệ sinh theo QCVN 02-
BYT.
Thi công đơn giản, vật liệu dễ cung cấp, người
dân địa phương có thể tự thi công được
Áp dụng phù hợp với điều kiện địa phương và
tập quán sinh sống của dân cư khu vực miền
núi, vùng sâu vùng xa. Đặc biệt là hạn chế công
duy tu bảo dưỡng. (Hệ thống cửa lấy nước và
lọc nước của các công trình xây dựng trước đây
được xây dựng theo nguyên lý động lực nên
nước thường bị đục vào mùa mưa, cửa lấy nước,
hệ thống bể lọc phải định kỳ thường xuyên bảo
dưỡng - việc này khó thực hiện ở vùng miền
núi).
2.2.4. Khả năng ứng dụng công nghệ thu, trữ
nước mặt trên địa bàn Tây Nguyên
Như vậy với mạng lưới sông suối tương đối
dày, Môđun kiệt nhỏ nhất vào khoảng 1l/s.km2
thì việc áp dụng công nghệ đập ngầm và hào
thu nước mái đồi vào địa bàn Tây Nguyên để
thu nước là rất khả thi. Đập ngầm và hào thu
nước mái đồi là các giải pháp khoa học công
nghệ có tính năng lưu giữ nước lại trong đất
làm chậm chảy dòng mặt, giảm thiểu lượng
bốc hơi phù hợp với điều kiện tự nhiên của Tây
Nguyên, bởi các yếu tố như: địa chất, địa chất
thủy văn và thủy văn,... Vì vậy đây chính là
giải pháp thu nước phù hợp để giải quyết tình
trạng thiếu nước vào mùa khô, phục vụ sản
xuất nông nghiệp cho khu vực Tây Nguyên.
2.3. Giải pháp lưu trữ nước
Lưu trữ nước trên vùng đồi có nhiều giải pháp,
hiện nay ở Việt Nam đang nghiên cứu và áp
dụng những giải pháp sau [1]:
2.3.1. Công trình trữ nước mặt quy mô nhỏ
Bể chứa gạch xây: bể được thiết kế thành đứng,
giữa bể có vách ngăn, đáy bể hình lòng thuyền
với độ sâu của tim đáy so với mép đáy bể 30-50
cm. Phía dưới vách ngăn có để lỗ thông nước
kích thước 40 x 60 cm. Ống lấy nước ra được
đặt cách đáy bể 20 cm. Toàn bộ phần thành và
phần đáy bể được thiết kế vật liệu là gạch xây
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018 6
M100, trát dày 2 cm M75 có đánh bóng chống
thấm bằng hồ xi măng.
Bể xi măng vỏ mỏng: vật liệu xi măng vỏ mỏng
đã được nghiên cứu áp dụng ở rất nhiều lĩnh vực
xây dựng trên thế giới. Bể được thiết kế hình
lòng thuyền hai thành là mái nghiêng (phần mái
nghiêng 500). Toàn bộ bể được trát lớp vữa xi
măng cát vàng M100 trong đặt một lớp lưới
thép chịu lực, phía ngoài đánh bóng chống thấm
bằng hồ xi măng PC 40. Bốn mép bể được đắp
một lớp vữa dày 10 cm, rộng 15 cm và đặt một
thanh sắt 6. Trên mặt bể có đặt ống xả nước
thừa và ống lấy nước tưới được đặt sát đáy bể.
Bể bằng bê tông cốt thép: có dạng hình trụ, hình
hộp hoặc các dạng khác bằng bê tông cốt thép
đặt ngầm, đặt trên mặt đất hoặc đặt nửa nổi nửa
chìm. Toàn bộ bể được làm bằng bê tông cốt
thép, trong lòng bể được đánh bóng chống thấm
bằng hồ xi măng PC40. Trên mặt bể có đặt ống
xả nước thừa và ống lấy nước tưới được đặt sát
đáy bể.
Hình 2.6: Bể chứa bê tông cốt thép
2.3.2. Công trình trữ nước mặt quy mô quy mô
vừa
Hồ chứa vải địa kỹ thuật: là loại hình mới được
đưa vào đầu tư xây dựng trong những năm gần
đây. Thường một công trình hồ chứa vải địa kỹ
thuật gồm 3 hạng mục sau:
- Bể chứa: lợi dụng các chỗ trũng (có thể là bể
hốc đá lớn) tạo bể sau đó trải lót vải chống thấm
tạo thành bể chứa nước.
- Hệ thống thu nước từ mái sườn dốc: mái tự
nhiên được làm sạch sẽ bảo đảm vệ sinh cho
nước khi tràn mái xuống đến bể. Trước khi vào
bể nước được qua hệ thống lọc cấp phối thô
dạng rãnh hay tường.
- Hệ thống phục vụ cấp nước từ bể: tại bể có
bố trí các bậc thang xuống bể để người dân
lên xuống lấy nước và thau rửa bể. Để tạo
điều kiện thuận lợi cho lấy nước và giữ vệ
sinh, có thể bố trí hệ thống bơm tay hút nước
trực tiếp từ bể hay giếng thông với bể. Nếu
có điều kiện có thể làm đường ống dẫn cấp
nước đến hộ dùng nước. Phương pháp này
cần bố trí thêm một bể lọc tinh sau bể trữ.
Loại hồ chứa vải địa kỹ thuật này có ưu điểm là
diện tích thu hứng nước rộng, đơn giản, dễ thi
công, tận dụng được nhiều vật liệu địa phương
nên giá thành rẻ. Nhược điểm của loại hồ chứa
này là bề mặt rộng dẫn đến bốc hơi lớn, nước
trong bể mới được lọc thô, đòi hỏi am hiểu về
vải địa kỹ thuật. Theo đánh giá thì hiệu quả sử
dụng hồ chứa vải địa kỹ thuật thấp do một số
nguyên nhân sau:
- Hồ được xây dựng ở vị trí thấp nên mùa mưa
là nơi tập trung bùn cát, rác chảy vào do vậy
phải thường xuyên nạo vét.
- Ý thức quản lý, bảo quản, duy tu hàng năm
của chính quyền và người dân địa phương còn
kém nên sau một số năm, một số hạng mục
công trình bị hư hỏng như hàng rào bảo vệ, rọ
đá xung quanh hồ, lớp vải lọc Hàng năm
lòng hồ không được nạo vét, vệ sinh nên nước
trong hồ rất bẩn, không đảm bảo dùng cho sinh
hoạt.
- Do điều kiện địa hình, địa chất, một số hồ
được xây dựng xa khu dân cư tập trung, lượng
dân cư được phục vụ ít nên hiệu quả khai thác
sử dụng thấp. Mặt khác tuy dung tích lớn song
không đủ trữ lượng để lắp hệ thống ống và bơm
dẫn nước tới từng hộ gia đình.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018 7
Hình 2.7 Hồ chứa nước bằng HDPE
Công nghệ túi nhựa dẻo: là bể kín nên lượng
nước trong bể không bị mất đi do bốc hơi,
không bị ô nhiễm do phơi nhiễm. Vận hành đơn
giản, thau rửa dễ dàng, nếu cần dễ dàng di
chuyển sang vị trí khác (Bồn có thể gập đi gập
lại 70 lần), khối lượng nhẹ (bồn 10m3 có khối
lượng 70 kg), vận chuyển rất dễ dàng, phù hợp
với vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa có địa
hình hiểm trở. Công tác thi công, lắp đặt đơn
giản, tốn ít thời gian. Túi nhựa dẻo có rất nhiều
kích cỡ, dung tích có thể từ 5-2.000 m3, đáp ứng
với từng loại hình, quy mô cấp nước khác nhau.
Có thể tận dụng các vùng đất trống, mái nhà mái
bằng để lắp đặt bể. Độ bền cao và chịu áp lực
45 kg/1 cm2, có thể chịu được nhiệt độ từ -30
đến 700C. Tuổi thọ của bể được 40 năm và nhà
sản xuất bảo hành 10 năm.
Hình 2.8 Túi nhựa dẻo
Với tính chất linh hoạt, gọn nhẹ, công nghệ này
có khả năng áp dụng thay thế bể chứa nước sạch
bằng bê tông trong hệ thống cấp nước cho
những vùng địa hình khó khăn, địa chất nền
không ổn định; thay thế cho công nghệ cấp
nước bằng hồ treo vách núi (bằng cách lắp đặt
nhiều túi có thể tích lớn); khắc phục cho những
bể trong công trình cấp nước tập trung bị nứt,
rò rỉ nước.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, công nghệ
này còn một số nhược điểm như: chiều cao bể
thấp, hạn chế áp lực trong cấp nước tự chảy
(khắc phục bằng cách bố trí bể ở vị trí cao); cần
diện tích mặt bằng lớn để xây dựng.
3. KẾT LUẬN
Tình hình hạn hán trên địa bàn Tây Nguyên
ngày càng khốc liệt và gây ra những hậu quả to
lớn cho sản xuất nông nghiệp trong những năm
vừa qua. Tình trạng khai thác nguồn nước chưa
hợp lý và điều tiết nước trên các lưu vực chưa
triệt để dẫn đến thiếu nước trầm trọng vào mùa
khô ở Tây Nguyên. Bên cạnh đó do địa hình bị
chia cắt, các khu vực sản xuất nông nghiệp bị
phân tán nên việc đầu tư xây dựng các hệ thống
thuỷ lợi truyền thống gặp nhiều khó khăn và tốn
kém.
Phát triển công nghệ thủy lợi nhỏ bằng việc ứng
dụng các công nghệ thu trữ nước mặt sẽ là một
hướng nghiên cứu ứng dụng cần được nhân
rộng trên địa bàn Tây Nguyên vì nó mang lại
những hiệu ích như sau:
- Điều kiện tự nhiên phù hợp để ứng dụng các
công nghệ.
- Đáp ứng nhu cầu dùng nước phục vụ sản xuất
nông nghiệp cho những vùng ngoài khu tưới
của công trình thủy lợi và thường xuyên bị thiếu
nước là rất lớn.
- Giá thành rẻ, thi công nhanh và đơn giản, sử
dụng các vật liệu địa phương nhiều.
- Phù hợp chính sách xã hội hoá đang được phổ
biến và nhân rộng trong việc đầu tư xây dựng
các công trình.
Với đặc điểm điều kiện tự nhiên tương đối phù
hợp, việc ứng dụng các công nghệ này để tạo
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018 8
nguồn cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp,
ứng phó hạn hạn là một giải pháp đúng đắn, cần
thiết cần được ứng dụng và nhân rộng vào thực
tế cho khu vực Tây Nguyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam (2012), Đề tài nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao
năng lực hồ chứa vừa và nhỏ đáp ứng nhu cầu cấp nước cho sản xuất, sinh hoạt và phát triển
bền vững tài nguyên nước vùng Tây Nguyên.
[2] Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam (2012), Đề tài nghiên cứu ứng dụng giải pháp cấp nước
hữu hiệu phục vụ sinh hoạt kết hợp sản xuất vùng di dân tái định cư hai huyện Phong Thổ
và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
[3] Trường Đại học thủy lợi (2012), Đề tài nghiên cứu xây dựng đập dưới đất để trữ nước ngầm
nhằm phát triển bền vững tài nguyên nước ở các khu vực thường xuyên bị hạn, các vùng ven
biển và hải đảo.
[4] Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung (2014), Chuyên khảo nước
dưới đất Tây Nguyên.
[5] Viện Quy hoạch Thủy lợi (2014), Quy hoạch tổng thể thủy lợi vùng Tây Nguyên
[6] Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể Thủy lợi Tây Nguyên 2015.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
giai_phap_cong_trinh_thuy_loi_nho_ve_thu_tru_nuoc_nham_ung_p.pdf