Thứ năm, về quy định đối tượng chịu phí là
hệ thống xử lí nước thải tập trung khu đô thị.
Việc không quy định cụ thể hệ thống xử lý
nước thải tập trung khu đô thị thuộc đối tượng
chịu phí nước thải công nghiệp hay nước thải
sinh hoạt là khiếm khuyết lớn của pháp luật về
phí BVMT đối với nước thải. Hệ thống xử lý
nước thải tập trung khu đô thị và hệ thống xử lý
nước thải tập trung khu công nghiệp có cùng
chức năng là thu gom và xử lý nước thải của các
chủ thể xả thải, chỉ khác nhau ở đối tượng thu
gom nước thải. Đối với hệ thống xử lý nước thải
tập trung khu công nghiệp, đối tượng mà hệ
thống này thu gom để xử lý nước thải là các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong khu công
nghiệp. Đối tượng thu gom để xử lý nước thải
của hệ thống xử lý nước thải tập trung khu đô
thị là các cơ sở sản xuất ngoài khu công nghiệp.
Theo quy định hiện hành, hệ thống xử lý nước
thải tập trung khu công nghiệp là đối tượng chịu
phí nước thải công nghiệp. Do vậy, tác giả đề
xuất quy định “hệ thống xử lý nước thải tập
trung khu đô thị là đối tượng chịu phí nước thải
công nghiệp”. Quy định này sẽ tạo sự công bằng
trong việc thu phí giữa hệ thống xử lý nước thải
tập trung khu công nghiệp và hệ thống xử lý
nước thải tập trung khu đô thị.
Thứ sáu, quy định về giá dịch vụ và phí
BVMT đối với nước thải.
Không có sự đồng bộ giữa các quy định giá
dịch vụ và phí BVMT đối với nước thải đã và
đang làm ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả
của pháp luật về giá dịch vụ và phí BVMT đối
với nước thải.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 181 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải nhằm nâng cao hiệu quả giảm thiểu ô nhiễm môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
11
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐỐI TƯỢNG
CHỊU PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢM THIỂU Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Lê Thị Thu Hằng1
Tóm tắt: Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là một trong những công cụ kinh tế quan
trọng được áp dụng ở Việt Nam nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường. Xác định đúng đắn đối
tượng chịu phí nước thải sẽ góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả giảm thiểu ô nhiễm môi
trường của pháp luật về phí bảo vệ môi trường. Bài viết tập trung phân tích và đánh giá quy định
về đối tượng chịu phí nước thải theo pháp luật hiện hành từ thực tiễn áp dụng của địa phương
để thấy rõ những vướng mắc, bất cập của pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định về đối tượng chịu phí nước thải để phí bảo vệ môi trường thực sự là
công cụ kinh tế hỗ trợ đắc lực cho việc đạt được mục tiêu cải thiện chất lượng môi trường, bảo
đảm phát triển kinh tế theo hướng bền vững.
Từ khóa: Phí bảo vệ môi trường, nước thải, đối tượng chịu phí nước thải
Nhận bài: 05/10/2017; Hoàn thành biên tập: 15/11/201; Duyệt đăng: 28/11/2017.
Abstract: The environmental protection charge for waste water is one of the important
economic tools applied in Vietnam to limit environmental pollution. Determining the correct
subject of waste water fees will contribute to improving the efficiency and effectiveness of
reducing environmental pollution of the environmental protection law. The article will focus on
analyzing and evaluating the regulations on the subject of waste water charge of the current
law from the practical application of the locality to clearly see the problems and inadequacies
of the laws. Based on that, the paper proposes some recommendations to finalize the regulation
on the subject of waste water charges so that environmental protection fees are actually an
effective economic tool for achieving the objectives of environmental quality improvement and
for ensuring the sustainable development of the economy.
Key words:the environmental protection charge, waste water, subject of waste water fees
Date of receipt: 05/10/2017; Date of revision: 15/11/2017; Date of approval: 28/11/2017.
1. Khái quát về pháp luật phí bảo vệ môi
trường tại Việt Nam
Phí bảo vệ môi trường (BVMT) đối với nước
thải là một trong những công cụ quản lý quan
trọng được áp dụng khá phổ biến ở nhiều nước
trên thế giới nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường.
Phí BVMT đối với nước thải được xây dựng trên
nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả-Polluter
Pays Principle” nhằm tạo động lực để các doanh
nghiệp giảm thiểu ô nhiễm, đồng thời tạo nguồn
thu để chi trả cho các hoạt động BVMT.
Nhận thức được vai trò của công tác BVMT
đối với sự phát triển bền vững, ngày 13/06/2003,
Chính phủ ban hành Nghị định số 67/2003/NĐ-
CP điều chỉnh về phí BVMT đối với nước thải,
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2004. Nghị
định số 67/2003/NĐ-CP đã mang lại những hiệu
quả nhất định trong công tác quản lí và BVMT, đó
là: i) hạn chế ô nhiễm môi trường từ nước thải;
ii) tạo nguồn thu cho hoạt động BVMT. Bên cạnh
những mặt tích cực đạt được, Nghị định số
67/2003/NĐ-CP đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất
cập. Vì vậy, Chính phủ đã lần lượt ban hành Nghị
định số 04/2007/NĐ-CP ngày 08/01/2007, Nghị
định số 26/2010/NĐ-CP ngày 22/03/2010 sửa
đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị định số
67/2003/NĐ-CP. Một số nội dung sửa đổi cơ bản
như: giảm từ 7 chất gây ô nhiễm xuống còn 6
chất; sửa đổi và bổ sung việc quản lý, sử dụng số
phí thu được cho cơ quan đơn vị trực tiếp thực
1 Thạc sỹ, Khoa luật- Đại học Kinh tế Đà Nẵng
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
12
hiện công tác thu phí; quy định về công bố định
mức phát thải của chất gây ô nhiễm làm căn cứ
tính khối lượng chất gây ô nhiễm trong nước
thải công nghiệp để xác định số phí phải nộp;
định kỳ khảo sát, xác định chất gây ô nhiễm có
trong nước thải công nghiệp để điều chỉnh cho
phù hợp.
Sau nhiều lần sửa đổi nhưng kết quả đạt
được vẫn chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu
đặt ra, pháp luật về phí BVMT đối với nước thải
vẫn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế. Ngày
29/03/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 25/NĐ-CP thay thế Nghị định số 67/2003/NĐ-
CP, có hiệu lực từ ngày 01/07/2013. Quy định về
phí BVMT đối với nước thải tại Nghị định số
25/2013/NĐ-CP đã có những tiến bộ vượt bậc
so với các quy định trước đây do đơn giản, thuận
tiện, dễ thực hiện đối với cả người nộp phí khi
kê khai và với cơ quan thu phí khi thẩm định.
Bên cạnh mục tiêu bổ sung nguồn thu vào ngân
sách nhà nước, tăng nguồn lực thực hiện công
tác BVMT, phí BVMT đối với nước thải được
các địa phương ghi nhận là công cụ hỗ trợ hiệu
quả trong việc quản lý, giám sát, theo dõi các
đối tượng xả nước thải trên địa bàn. Tuy nhiên,
Nghị định số 25/NĐ-CP cũng tồn tại một số
vướng mắc, hạn chế nhất định liên quan đến quy
định về đối tượng chịu phí, mức phí cố định, lưu
lượng nước thải tính phí cố định, hệ số tính phí
đối với nước thải có chứa kim loại nặngĐể
khắc phục những hạn chế của Nghị định số
25/NĐ-CP, ngày 16/11/2016, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 154/2016/NĐ-CP, có hiệu lực
từ ngày 01/01/2017 thay thế Nghị định số
25/NĐ-CP. Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn
áp dụng trong thực tiễn, theo phản ánh của các
địa phương, Nghị định 154 đã bộc lộ nhiều bất
cập, vướng mắc, nhiều quy định chưa phù hợp
với điều kiện thu phí của Việt Nam hiện nay, đặc
biệt là quy định về đối tượng chịu phí. Nhiều
trường hợp không xác rõ đối tượng chịu phí
hoặc bỏ ngõ đối tượng chịu phí làm cho các địa
phương rất túng túng và gặp rất nhiều khó khăn
trong việc thu phí. Những vướng mắc, bất cập
về đối tượng chịu phí sẽ được phân tích thông
qua thực tiễn thực hiện của địa phương.
2. Những bất cập, vướng mắc về đối tượng
chịu phí
Thứ nhất, bất cập quy định nước thải chịu
phí từ các cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia
cầm tập trung.
Điểm c khoản 2 Điều 2 Nghị định 154 đã bổ
sung thêm đối tượng chịu phí nước thải công
nghiệp gồm nước thải từ các cơ sở chăn nuôi,
giết mổ gia súc, gia cầm tập trung. Việc bổ sung
các đối tượng chịu phí này khiến cơ quan thu phí
của nhiều địa phương gặp khó khăn trong việc
triển khai thực hiện vì thực tế rất khó có thể xác
định được quy mô tập trung như thế nào thì phải
nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp.
Đặc thù tại các vùng nông thôn Việt Nam thì hầu
hết các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm hay nuôi
trồng thủy sản chủ yếu chỉ ở quy mô nhỏ lẻ,
manh mún.
Theo phản ánh của Sở Tài Nguyên và Môi
trường (TN&MT) Đà Nẵng, Sở rất lúng túng
trong việc thu phí đối với trường hợp các hộ gia
đình chăn nuôi nhỏ lẻ dưới 10 con gia súc, gia
cầm. Hiện nay tại một số quận, huyện của Đà
Nẵng, số hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm nhỏ lẻ rất
phổ biến, đặc biệt là ở huyện Hòa Vang. Sở TN
& MT Đà Nẵng rất lúng túng trong việc xác định
hộ chăn nuôi nhỏ lẻ thuộc đối tượng chịu phí
nào. Tuy nhiên, để tránh thất thu cho ngân sách
địa phương, Sở TN&MT Đà Nẵng đã tiến hành
thu phí BVMT nước thải công nghiệp đối với
các hộ này và đã gặp sự phản đối quyết liệt của
các hộ chăn nuôi vì họ cho rằng cơ sở chăn nuôi
nhỏ lẻ, lượng nước thải phát sinh không lớn nên
không thể đồng nhất việc thu phí 1,5 triệu
đồng/năm như các cơ sở chăn nuôi tập trung
hàng trăm hoặc hàng ngàn gia súc, gia cầm; hơn
nữa họ là những hộ có thu nhập thấp, chăn nuôi
để cải thiện thu nhập, số phí phải nộp 1,5 triệu
đồng/năm là quá cao so với thu nhập của họ.
Quy định về đối tượng chịu phí không rõ ràng đã
làm giảm hiệu lực và hiệu quả của phí BVMT
đối với nước thải.
Thứ hai, bất cập quy định thu phí đối với
nước xả ra từ các nhà máy thủy điện, nước tuần
hoàn trong các cơ sở sản xuất, chế biến và nước
mưa tự nhiên chảy tràn.
Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
13
Khoản 1 Điều 5 quy định “nước xả ra từ các
nhà máy thủy điện, nước tuần hoàn trong các cơ
sở sản xuất, chế biến mà không thải ra môi
trường dưới bất kỳ hình thức nào (chất rắn, chất
lỏng, chất khí)” và khoản 6 Điều 5 quy định
“nước mưa tự nhiên chảy tràn” (trừ diện tích
thuộc khu vực nhà máy hóa chất) là đối tượng
miễn phí BVMT đối với nước thải đã tạo nên
những bất cập trong việc xác định số phí doanh
nghiệp phải nộp. Quy định này được hiểu đối với
nước tuần hoàn bị thất thoát trong quá trình hoạt
động của cơ sở và nước mưa chảy tràn qua khu
vực nhà máy sản xuất hóa chất, doanh nghiệp
phải kê khai, đóng phí BVMT. Tuy nhiên, việc
tính toán số phí phải nộp là không khả thi do
thiếu căn cứ thực tiễn để đo đạc, xác định lượng
nước, giá trị thông số ô nhiễm có trong nước tuần
hoàn bị thất thoát (ở dạng lỏng, khí và rắn) và
nước mưa tự nhiên chảy tràn qua khu vực nhà
máy hóa chất.
Thêm vào đó, quy định nước mưa tự nhiên
chảy tràn (trừ diện tích thuộc khu vực nhà máy
hóa chất) là đối tượng miễn thu phí BVMT
không phù hợp với quy định tại Điều 2 Nghị định
154 về đối tượng chịu phí. Theo Điều 2 Nghị
định 154 thì nước mưa tự nhiên chảy tràn không
thuộc đối tượng chịu phí nước thải, do vậy quy
định nước mưa tự nhiên chảy tràn là đối tượng
miễn thu phí BVMT hoàn toàn không logic.
Thứ ba, bất cập đối tượng chịu phí là các của
hàng thức ăn nhanh, siêu thị.
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp,
lối sống công nghiệp xuất hiện cùng với sự ra đời
nhiều cửa hàng thức ăn nhanh, các siêu thị, trung
tâm thương mại. Tại Việt Nam, trong những năm
gần đây đã chứng kiến sự bùng nổ của các cửa
hàng thức ăn nhanh, các siêu thị, trung tâm
thương mại. Đa số các cửa hàng thức ăn nhanh,
các siêu thị, trung tâm thương mạicó hoạt động
chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh, sản xuất bánh
....Tuy nhiên, Nghị định 154 không xác định cụ
thể cửa hàng thức ăn nhanh, các siêu thị, trung
tâm thương mại thuộc đối tượng chịu phí nước
thải công nghiệp hay nước thải sinh hoạt. Điều
này đã gây lúng túng cho các địa phương. Nhiều
địa phương phản ánh họ không biết áp dụng quy
định về nước thải công nghiệp hay nước thải sinh
hoạt để thu phí. Các cửa hàng thức ăn nhanh, các
siêu thị, trung tâm thương mại có hoạt động chế
biến thực phẩm, thức ăn nhanh, sản xuất bánh
...có được coi như là cơ sở sản xuất, cơ sở chế
biến thực phẩm được quy định tại điểm b khoản
2, Điều 2 Nghị định 154 để thu phí nước thải công
nghiệp không hay các đối tượng này được xếp
cùng nhóm đối tượng khách sạch, nhà hàng quy
định tại điểm đ khoản 3, Điều 2 nghị định 154 để
thu phí nước thải sinh hoạt.
Thứ tư, bất cập không quy định đối tượng
chịu phí là khu công nghệ cao.
Hiện nay cả nước có 3 khu công nghệ cao ở
Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng.
Tuy nhiên, Nghị định 154 không có quy định về
đối tượng chịu phí là khu công nghệ cao đã gây
lúng túng cho các địa phương trong việc xác định
khu công nghệ cao thuộc đối tượng chịu phí nước
thải công nghiệp hay nước thải sinh hoạt.
Tại Đà Nẵng, khu công nghệ cao nằm ở xã
Hoà Liên và xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang, Đà
Nẵng, gồm 7 khu chức năng: khu sản xuất công
nghệ cao; khu nghiên cứu - phát triển, đào tạo
và ươm tạo doanh nghiệp; khu quản lý - hành
chính; khu công trình hạ tầng kỹ thuật đầu mối;
khu hậu cần, logistics và dịch vụ công nghệ cao;
khu ở; khu phụ trợ. Do khu công nghệ cao tại
Việt Nam hiện nay đều có quy mô lớn, gồm
nhiều khu chức năng khác nhau nên rất khó xác
định khu công nghệ cao thuộc đối tượng chịu phí
nước thải công nghiệp hay nước thải sinh hoạt
hay vừa là đối tượng chịu phí nước thải công
nghiệp (đối với chức năng sản xuất) vừa là đối
tượng chịu phí của nước thải sinh hoạt (đối với
chức năng quản lí hành chính). Hiện nay, Sở
TN&MT Đà Nẵng không biết thu phí như thế
nào đối với khu công nghệ cao và đề nghị Bộ
ngành có hướng dẫn cụ thể.
Thứ năm, bất cập không điều chỉnh đối
tượng chịu phí là hệ thống xử lý nước thải tập
trung khu đô thị.
Trong những năm gần đây, các khu đô thị lớn
tại Việt Nam đã và đang đẩy mạnh việc xây dựng
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
14
và lắp đặt các hệ thống xử lý nước thải nhằm giảm
thiểu ô nhiễm môi trường từ các nguồn xả thải.
Ngoài việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước
thải tập trung khu công nghiệp, các địa phương còn
rất chú trọng xây dựng hệ thống xử lý nước thải
tập trung khu đô thị.
Theo quy định tại điểm p, khoản 1 Điều 2
Nghị định 154, hệ thống xử lý nước thải tập
trung khu công nghiệp là đối tượng chịu phí
BVMT đối với nước thải công nghiệp. Tuy
nhiên, Nghị định 154 lại không có bất kì điều
khoản nào quy định về đối tượng chịu phí là hệ
thống xử lý nước thải tập trung khu đô thị.
Khoảng trống này của Nghị định 154 đã gây khó
khăn trong việc thu phí đối với các địa phương.
Dựa trên cơ sở pháp lý hiện hành, nhiềuđịa
phương không xác định được hệ thống xử lý
nước thải tập trung khu đô thị thuộc đối tượng
chịu phí nào. Có ý kiến cho rằng, đối với hệ
thống xử lý nước thải tập trung khu đô thị dù
Nghị định 154 không quy định cụ thể là đối
tượng chịu phí nước thải công nghiệp nhưng vẫn
có thể áp dụng điểm q khoản 1 Điều 2 Nghị định
154 “Cơ sở sản xuất khác” để thu phí đối với
nước thải công nghiệp. Tuy nhiên, xét về bản
chất, hệ thống xử lý nước thải tập trung khu đô
thị không phải là cơ sở sản xuất, đây chỉ là cơ sở
kinh doanh dịch vụ. Mặc dù hệ thống xử lý nước
thải tập trung khu đô thị là cơ sở kinh doanh dịch
vụ nhưng cũng không thể xếp vào nhóm đối
tượng chịu phí nước thải sinh hoạt. Muốn trở
thành đối tượng chịu phí nước thải sinh hoạt, cơ
sở kinh doanh dịch vụ phải sử dụng nước máy
hoặc nước ngầm tự khai thác.
Theo phản ánh của Sở TN&MT Đà Nẵng,
hiện nay ngoài 5 hệ thống xử lý nước thải tập
trung khu công nghiệp và 01 hệ thống xử lý
nước thải làng nghề, Đà Nẵng đã xây dựng và
vận hành 6 hệ thống xử lý nước thải tập trung
khu đô thị. Trong quá trình tiến hành thu phí
BVMT đối với các hệ thống xử lý nước thải trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng, Sở TN&MT đã rất
lúng túng khi thu phí đối với 6 hệ thống xử lý
nước thải tập trung khu đô thị. Hiện công ty Cấp
nước Đà Nẵng không thể thu phí nước thải sinh
hoạt đối với hệ thống xử lý nước thải tập trung
khu đô thị được vì những lý do sau: i) hệ thống
này không sử dụng nước máy nên không có
nguồn nước đầu vào, do đó không có căn cứ tính
phí nước thải sinh hoạt; ii) hệ thống này cũng
không sử dụng nước khoan mà chỉ thu gom nước
của các hộ xả thải; vì thế, cũng không có bất kì
căn cứ pháp lý nào để tính phí nước thải sinh
hoạt đối với nước tự khai thác. Tuy nhiên, nếu
loại trừ việc thu phí BVMT đối với hệ thống xử
lý nước thải tập trung khu đô thị sẽ gây bất bình
đẳng trong việc thu phí với hệ thống xử lý nước
thải tập trung khu công nghiệp. Thực tế, Đà
Nẵng đang triển khai thu phí BVMT nước thải
công nghiệp đối với đơn vị này nhưng để việc
thu phí có cơ sở pháp lý và nhận được sự đồng
thuận của các cơ sở kinh doanh dịch vụ, Sở
TN&MT Đà Nẵng kiến nghị cần phải có quy
định rõ ràng về vấn đề này.
Thứ sáu, bất cập về đối tượng chịu phí nước
thải và đối tượng chịu giá dịch vụ.
Triển khai Nghị định số 80/2014/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 06 tháng 08 năm 2014 về thoát
nước và xử lý nước thải, nhiều địa phương đã
tiến hànhthu giá dịch vụ thoát nước và xử lý
nước thải đối với các hộ thoát nước. Đà Nẵng là
một trong những địa phương đi đầu trong việc
triển khai giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước
thải đối với các hộ thoát nước. Theo quyết định
02/2017/QĐ–UBND triển khai áp dụng giá dịch
vụ thoát nước và xử lí nước thải đối với các hộ
thoát nước, đối tượng áp dụng giá dịch vụ tại Đà
Nẵng gồm: “Các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình
(gọi chung là hộ thoát nước) sinh sống và hoạt
động trên địa bàn 06 quận của thành phố gồm:
Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Sơn Trà, Ngũ
Hành Sơn, Cẩm Lệ sử dụng nước sạch từ
hệ thống cấp nước tập trung. Hộ thoát nước đã
thanh toán tiền dịch vụ thoát nước và xử lý nước
thải thì không phải trả phí bảo vệ môi trường
theo quy định hiện hành về phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải. Các hộ thoát nước trên
địa bàn 06 quận nhưng không sử dụng nước
sạch từ hệ thống cấp nước tập trung và các hộ
thoát nước thuộc địa bàn huyện Hòa Vang thì
Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
15
không áp dụng thu theo giá dịch vụ thoát nước
và xử lý nước thải và vẫn tiếp tục thu phí bảo vệ
môi trường theo quy định”.
Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện tính giá
dịch vụ thoát nước, Đà Nẵng cũng như một số
địa phương khác gặp nhiều khó khăn trong việc
thu phí BVMT cũng như tính giá dịch vụ đối với
các cơ sở sản xuất vừa sử dụng nước cấp vừa sử
dụng nước ngầm. Theo quy định, những cơ sở
sản xuất này vừa là đối tượng áp dụng giá dịch vụ
(đối với nước cấp) vừa là đối tượng chịu phí
BVMT đối với nước thải (đối với nước ngầm).
Như vậy, chỉ vì sử dụng hai nguồn nước khác
nhau mà một cơ sở sản xuất vừa phải làm thủ tục
nộp tiền giá dịch vụ vừa phải làm thủ tục nộp phí
BVMT đối với nước thải. Sở TN&MT Đà Nẵng
cho biết nhiều cơ sở sản xuất đã phản đối việc
vừa phải nộp giá dịch vụ vừa phải nộp phí
BVMT. Cơ quan chức năng tại Đà Nẵng gặp
nhiều khó khăn trong thực thi nhiệm vụ.
3. Đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật về
phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Thứ nhất, về quy định xác định đối tượng
chịu phí là các cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia súc,
gia cầm tập trung.
Về quy mô đối với cơ sở chăn nuôi, giết mổ
gia súc, gia cầm tập trung, Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn đã có hướng dẫn tại Thông
tư số 42/2006/TT-BNN ngày 01/06/2006. Như
vậy, việc hướng dẫn quy mô đối với cơ sở chăn
nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm tập trung trong
pháp luật về phí BVMT đối với nước thải là
không cần thiết. Các cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia
súc, gia cầm không đảm bảo quy mô và các điều
kiện khác quy đinh tại Thông tư số 42/2006/TT-
BNN ngày 01/06/2006 thì không được coi là cơ
sở chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm tập trung.
Các cơ sở không được coi là cơ sở chăn nuôi, giết
mổ gia súc, gia cầm tập trung thuộc đối tượng
chịu phí nước thải sinh hoạt. Để tránh gây lúng
túng cho các địa phương, tác giả đề xuất nên quy
định rõ trong văn bản quy phạm pháp luật “cơ sở
chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm không tập
trung” là đối tượng chịu phí BVMT đối với nước
thải sinh hoạt.
Thứ hai, về quy định thu phí đối với nước xả
ra từ các nhà máy thủy điện, nước tuần hoàn.
Theo quy định tại Điều 37 Nghị định số
38/2015/NĐ-CP của ngày 24 tháng 4 năm 2015
của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu
các cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu công
nghiệp, khu dân cư... phải có “hệ thống thu
gom nước mưa”; trường hợp không thu gom
nước mưa sẽ bị xử lý theo quy định của pháp
luật về vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường. Do đó, việc quản lý nước tuần
hoàn và nước mưa chảy tràn để không làm phát
tán chất độc hại, gây ô nhiễm môi trường thuộc
quy định của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nước, không thuộc phạm vi quy định của phí
bảo vệ môi trường.
Như vậy, việc quy định thu phí bảo vệ môi
trường đối với nước tuần hoàn bị thất thoát trong
quá trình hoạt động của cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và nước mưa chảy tràn qua khu
vực nhà máy sản xuất hóa chất không hợp lí, dẫn
đến sự chồng chéo giữa các khoản thu, gây tốn
kém về chi phí và thời gian cho doanh nghiệp khi
tiến hành kê khai, tính toán số phí phải nộp cũng
như của Sở Tài nguyên và Môi trường khi thẩm
định phí. Tác giả đề xuất không điều chỉnh đối
tượng này trong pháp luật về phí BVMT, tránh
mâu thuẫn chồng chéo với pháp luật về kiểm soát
ô nhiễm.
Thứ ba, xác định đối tượng chịu phí là các
siêu thị có hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn
nhanh, sản xuất bánh, các cửa hàng thức ăn
nhanh có chế biến thức ăn tại chỗ.
Theo quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 2
Nghị định 154, nước thải từ nhà hàng, khách
sạn là đối tượng chịu phí nước thải sinh hoạt.
Về bản chất, nước thải tại các siêu thị có hoạt
động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh, sản
xuất bánh, các cửa hàng thức ăn nhanh có chế
biến thức ăn tại chỗ cũng có tính chất tương tự
như nước thải từ hoạt động của nhà hàng, khách
sạn. Để tạo sự đồng bộ với quy định tại điểm đ
khoản 3 Điều 2 Nghị định 154, tác giả cho rằng
nên bổ sung quy định “nước thải tại các siêu thị
có hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
16
nhanh, sản xuất bánh, các cửa hàng thức ăn
nhanh có chế biến thức ăn tại chỗ là đối tượng
chịu phí nước thải sinh hoạt”.
Thứ tư, về quy định đối tượng chịu phí là
khu công nghệ cao.
Cần bổ sung “khu công nghệ cao là đối
tượng chịu phí BVMT đối với nước thải công
nghiệp”. Diện tích đất sử dụng cho hoạt động
của khu công nghệ cao lên đến hàng ngàn hecta
bao gồm nhiều tổ hợp và hoạt động nhưng hoạt
động sản xuất vẫn là hoạt động chính với diện
tích sử dụng cho khu vực xuất lên đến hàng
trăm hecta. Cần căn cứ vào hoạt động chủ đạo
là sản xuất để xác định khu công nghệ cao là đối
tượng chịu phí BVMT đối với nước thải công
nghiệp.
Thứ năm, về quy định đối tượng chịu phí là
hệ thống xử lí nước thải tập trung khu đô thị.
Việc không quy định cụ thể hệ thống xử lý
nước thải tập trung khu đô thị thuộc đối tượng
chịu phí nước thải công nghiệp hay nước thải
sinh hoạt là khiếm khuyết lớn của pháp luật về
phí BVMT đối với nước thải. Hệ thống xử lý
nước thải tập trung khu đô thị và hệ thống xử lý
nước thải tập trung khu công nghiệp có cùng
chức năng là thu gom và xử lý nước thải của các
chủ thể xả thải, chỉ khác nhau ở đối tượng thu
gom nước thải. Đối với hệ thống xử lý nước thải
tập trung khu công nghiệp, đối tượng mà hệ
thống này thu gom để xử lý nước thải là các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong khu công
nghiệp. Đối tượng thu gom để xử lý nước thải
của hệ thống xử lý nước thải tập trung khu đô
thị là các cơ sở sản xuất ngoài khu công nghiệp.
Theo quy định hiện hành, hệ thống xử lý nước
thải tập trung khu công nghiệp là đối tượng chịu
phí nước thải công nghiệp. Do vậy, tác giả đề
xuất quy định “hệ thống xử lý nước thải tập
trung khu đô thị là đối tượng chịu phí nước thải
công nghiệp”. Quy định này sẽ tạo sự công bằng
trong việc thu phí giữa hệ thống xử lý nước thải
tập trung khu công nghiệp và hệ thống xử lý
nước thải tập trung khu đô thị.
Thứ sáu, quy định về giá dịch vụ và phí
BVMT đối với nước thải.
Không có sự đồng bộ giữa các quy định giá
dịch vụ và phí BVMT đối với nước thải đã và
đang làm ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả
của pháp luật về giá dịch vụ và phí BVMT đối
với nước thải.
Theo quan điểm của tác giả, các cơ sở sản
xuất vừa sử dụng nước cấp vừa sử dụng nước
ngầm chỉ nên quy về một đầu mối thu theo giá
dịch vụ vì những lí do: i) xu hướng chuyển từ
phí sang giá sẽ là xu hướng tất yếu của sự
phát triển bền vững. Hiện nay, nhiều địa
phương đã triển khai thực hiện thu giá dịch
vụ đối với nước thải theo quy định của Nghị
định số 80/2014/NĐ- CP của Chính phủ ban
hành ngày 06 tháng 08 năm 2014 về thoát
nước và xử lí nước thải; ii) đối với nguồn
nước ngầm tự khai thác, nhiều địa phương
hiện nay không thu được phí hoặc số phí thu
được trên thực tế không đáng kể vì chính
quyền không cấp phép khai thác nước dưới
đất nên không nắm được đối tượng chịu phí
và lưu lượng nước sử dụng của cơ sở sản
xuất. Trong khi đó, đối với cơ sở sản xuất sử
dụng nước cấp, cơ quan chức năng có thể
quản lý được lượng nước thải (thông qua đầu
vào và đầu ra) nên có cơ sở pháp lý để tính
giá dịch vụ tương đối chính xác.Vì vậy, khi
quy đổi từ phí BVMT sang giá dịch vụ sẽ giúp
chính quyền quản lý được nguồn thu từ nước
ngầm tự khai thác của các địa phương.
Để quy về một đầu mối tính giá dịch vụ đối
với các cơ sở sản xuất vừa sử dụng nước cấp
vừa sử dụng nước ngầm tự khai thác, pháp luật
nên quy định hệ số quy đổi lưu lượng nước
ngầm sử dụng tính phí BVMT sang lưu lượng
nước cấp để tính giá dịch vụ. Việc xác định lưu
lượng nước ngầm sử dụng theo hướng khuyến
khích cơ sở sản xuất tự kê khai. Nếu cơ sở sản
xuất không tự kê khai thì cơ quan quản lý có thể
dựa vào quy mô sản xuất và ngành nghề để xác
định lưu lượng ngầm tính giá dịch vụ.
4. Kết luận
Việc áp dụng thu phí BVMT đối với nước
thải có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công
tác quản lý và BVMT theo định hướng đảm bảo
Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
17
phát triển bền vững ở nước ta. Để pháp luật về
phí BVMT phát huy hiệu lực và hiệu quả thì
cần có một sự thiết kế chặt chẽ. Theo nghiên
cứu của World Bank 1998 thì việc thực hiện
một chương trình thu phí BVMT được thiết kế
thiếu chặt chẽ sẽ không mang lại những lợi ích
đáng kể về kinh tế và môi trường. Trên cơ sở
kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về đối
tượng chịu phí với mong muốn pháp luật về phí
BVMT đối với nước thải sẽ phát huy hiệu quả
mạnh mẽ hơn, góp phần giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, đảm bảo phát triển kinh tế theo
hướng bền vững./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
(2006). Thông tư số 42/2006/TT-BNN hướng dẫn
quy mô đối với cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia súc,
gia cầm tập, ban hành ngày 01/06/2006.
2. Chính phủ (2003). Nghị định số 67/2003
NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải, ban hành ngày 13/06/2003
3. Chính phủ (2007). Nghị định 04/2007/NĐ-
CP về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải,
ban hành ngày 08/01/2007.
4. Chính phủ (2010). Nghị định số 26/2010/NĐ-
CP sửa đổi khoản 2 Điều 8 Nghị định số 67/2003
NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải, ban hành ngày 22/03/2010.
5. Chính phủ (2013). Nghị định số 25/NĐ-CP
của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải, ban hành ngày 29/03/2013.
6. Chính phủ (2014). Nghị định 80/2014/NĐ-
CP về thoát nước và xử lí nước thải, ban hành
ngày 06 tháng 08 năm 20014.
7. Chính phủ (2014). Nghị định số 80/2014/NĐ-
CP của Chính phủvề thoát nước và xử lí nước thải,
ban hành ngày 06 tháng 08 năm 2014.
8. Chính phủ (2015), Nghị định số 38/2015/NĐ-
CP của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu
các cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu công nghiệp,
khu dân cư, ban hành ngày 24 tháng 4 năm 2015.
9. Chính phủ (2016). Nghị định số 154/2016/NĐ-
CP của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối
với nước thải, ban hành ngày 16/11/2016.
10. UBND thành phố Đà Nẵng (2017). Quyết
định 02/2017/QĐ – UBND triển khai áp dụng giá
dịch vụ thoát nước và xử lí nước thải đối với các
hộ thoát nước, ban hành ngày 14/02/2017.
+ Quan tâm và dành tỷ lệ kinh phí thỏa đáng
hơn khi phân bổ ngân sách cho công tác bảo vệ
trẻ em nói chung, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt, có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt
và trẻ em bị bạo lực, xâm hại, trẻ em có nguy cơ
bị bạo lực xâm hại nói riêng; quyết định mục
chi ngân sách nhà nước hàng năm dành riêng
cho công tác bảo vệ trẻ em./.
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Thị Chinh Phương (2016), Người chưa
thành niên phạm tội - Các biện pháp hạn chế,
dung-phap-luat.aspx?ItemID=164[truy cập lúc
9h ngày 20 tháng 6 năm 2016].
2. Khắc Thành (2016), Thành lập tòa án
chuyên trách về quyền trẻ em,
trach-ve-quyen-tre-em-post639308.html
[truy cập lúc 7h ngày 20 tháng 6 năm 2016].
3. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
(2015), Giáo trình Quyền con người, Nxb. Đại
học quốc gia Hà Nội.
4. Liên Hợp Quốc (1989), Công ước quốc
tế về Quyền trẻ em (Convention on the Rights of
the child).
5. Vũ Công Giao và Lê Quỳnh Mai (2016),
Tiếp cận dựa trên quyền: Nhận thức và hành
động của Liên hợp quốc, Kỷ yếu Hội thảo về
Tiếp cận dựa trên quyền, Khoa Luật Đại học
Quốc gia, tr.1-2.
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TRẺ EM
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN LẬP PHÁP
(Tiếp theo trang 10)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_hoan_thien_quy_dinh_phap_luat_ve_doi_tuong_chiu_ph.pdf