Giải pháp thu hút vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp Việt Nam

KẾT LUẬN Việt Nam là nước có lợi thế cạnh tranh về phát triển nông nghiệp nhiệt đới với điều kiện sinh thái đa dạng, số giờ nắng nhiều, nguồn nước dồi dào, nhân lực đông đảo. Đây chính là điều kiện tiền đề để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn tạo ra những bước phát triển vượt bậc trong đảm bảo an ninh lương thực, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu và tạo ra sự quan tâm của doanh nghiệp đối với ngành nông nghiệp Việt Nam. Để đạt tới mục tiêu: “Trong 10 năm tới ngành nông nghiệp Việt Nam phải đứng thứ 15 thế giới, là nơi chế biến nông sản đứng thứ 10 thế giới” [13], nước ta cần đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp. Bài báo đã đưa ra được những giải pháp cụ thể cần thực hiện trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp ở Việ

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 346 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp thu hút vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
72 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 Giải pháp thu hút vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp Việt Nam Solutions for attracting investment into Vietnam agriculture sector Ngô Thị Luyện, Nguyễn Thị Ngọc Mai Email: ngothiluyendhsd@gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 19/6/2018 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 11/2/2019 Ngày chấp nhận đĕng: 28/3/2019 Tóm tắt Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về phát triển nông nghiệp nhiệt đới với điều kiện sinh thái đa dạng, số giờ nắng nhiều, nguồn nước dồi dào... Tuy nhiên, theo thống kê, hiện nay cả nước mới có khoảng 1% tổng số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, với số vốn chiếm gần 3% tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào sản xuất, kinh doanh. Bài viết sẽ làm rõ thực trạng thu hút vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp, phân tích những hạn chế, vướng mắc đang gặp phải để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tĕng cường thu hút vốn vào nông nghiệp trong thời gian tới. Từ khóa: Đầu tư; nông nghiệp; khoa học công nghệ; sản xuất, kinh doanh. Abstract Viet Nam has a competitive advantage in developing tropical agriculture thanks to its diverse ecological conditions, abundant sunshine hours and water sources, etc. However, according to statistics, there are only 1% of the total number of enterprises making investment in agriculture and rural areas, registering merely 3% of total capital in Vietnam. The article will clarify the situation of investment attraction into agriculture sector, analyze the current shortcomings and obstacles so as to come up with a number of proposals to increase capital for the informentioned sector in the coming time. Keywords: Investment; agriculture; science and technology; production; business. 1. GIỚI THIỆU CHUNG Trong thời gian qua, nông nghiệp Việt Nam đạt được những thành tựu đáng khích lệ với nhiều điểm sáng như: trở thành nước xuất khẩu gạo thuộc top 3 thế giới [11], một trong số 20 nước xuất khẩu nông, lâm, thủy sản lớn trên thế giới [12],... Nĕm 2018, Việt Nam đã có 10 mặt hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu đạt kim ngạch trên 40 tỷ USD [3], trong đó, có nhiều sản phẩm có vị thế cao trên thị trường thế giới (gạo, cà phê, điều, cao su,...). Nông nghiệp Việt Nam đã trở thành một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa hội nhập quốc tế ngày càng sâu. Sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn đã góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nông dân, làm cơ sở ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Mặc dù vậy, phát triển nông nghiệp vẫn chưa tương xứng với tiềm nĕng. Vấn đề “được mùa mất giá”, chất lượng nông sản còn bất cập, tiêu thụ phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc đang đe dọa sự phát triển bền vững của ngành. 2. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO NÔNG NGHIỆP 2.1. Kết quả đạt được Hiện nay, khung pháp lý về thu hút vốn đầu tư tư vào nông nghiệp nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng đã được các cơ quan nhà nước dần hoàn thiện theo hướng ngày một thông thoáng, đã có nhiều chính sách ưu đãi thu hút đầu tư tư nhân trong và ngoài nước vào nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp sửa đổi, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa làm hành lang pháp lý quan trọng để các bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính,... xây dựng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban Người phản biện: 1. PGS.TS. Nguyễn Thị Bất 2. TS. Nguyễn Minh Tuấn NGÀNH KINH TẾ 73Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 hành nhiều chính sách thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, như: chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; chính sách bảo hiểm nông nghiệp; chính sách đầu tư theo hình thức đối tác công tư, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong hợp tác, liên kết sản xuất quy mô lớn; chính sách hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp; chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao và chính sách khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo; chương trình tín dụng khuyến khích phát triển nông nghiệp cao, nông nghiệp sạch;... Đặc biệt, trong vòng chưa đầy 5 nĕm (2014-2018), Chính phủ đã ban hành 5 nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao nĕng lực cạnh tranh quốc gia; nghị quyết về hỗ trợ doanh nghiệp đến nĕm 2020 và gần đây nhất là các nghị định về phát triển ngành nghề nông thôn; nghị định về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; nghị định về bảo hiểm nông nghiệp; nghị định về chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đã có nhiều ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Các nghị định đã tập trung vào các cơ chế chính sách ưu đãi về sử dụng, thuê đất đai, mặt bằng kinh doanh, ưu đãi về thuế, hỗ trợ tín dụng, đào tạo lao động, phát triển thị trường, đầu tư cơ sở hạ tầng đến hàng rào doanh nghiệp, ưu tiên hỗ trợ một số dự án đầu tư vào nông nghiệp, nhất là các dự án về liên kết, chế biến sâu, ứng dụng khoa học công nghệ cao; giảm thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; đẩy mạnh phân cấp về địa phương. Đây là những cơ hội tốt tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, tính đến tháng 7/2018, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính, đơn giản hóa 241/345 điều kiện đầu tư kinh doanh, đạt 69,8%. Bộ đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa 35/64 thủ tục hành chính liên quan đến kiểm tra chuyên ngành, đạt 54,6%. Bộ có 7.698 dòng hàng thuộc 251 nhóm sản phẩm hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành; cần cắt giảm 125 nhóm sản phẩm hàng (Danh mục sản phẩm, hàng hóa đề xuất loại khỏi Danh mục hàng hóa kiểm tra chuyên ngành: 132, đạt 52,6%) [3]. Bảng 1. Thống kê doanh nghiệp hoạt động sản xuất nông nghiệp Nĕm 2010 2013 2014 2015 2016 Doanh nghiệp ngành nông nghiệp 2.569 3.656 3.844 3.846 4.447 - Nông nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan 977 1.723 1.831 1.740 2.164 - Lâm nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan 443 636 651 645 697 - Khai thác, nuôi trồng thủy sản 1.149 1.297 1.362 1.461 1.586 Nguồn: Tổng cục Thống kê nĕm 2018 Các chính sách trên được triển khai thực hiện ngay từ khi được ban hành và tiếp tục hoàn thiện theo hướng tạo môi trường ngày càng thuận lợi để khai thác tiềm nĕng, cơ hội đầu tư nhằm thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Nhờ đó, đầu tư vào nông nghiệp đã đạt nhiều kết quả tích cực: Về số lượng doanh nghiệp nông nghiệp Thời gian gần đây, ngành nông nghiệp thu hút ngày càng nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong nước quan tâm tìm hiểu và đã đầu tư với quy mô lớn, đặc biệt là các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn [2], trong giai đoạn 2005- 2016 số lượng các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu vực nông, lâm, thủy sản tĕng từ 2.217 doanh nghiệp lên 4.400 doanh nghiệp, bình quân tĕng 6,4%/nĕm. Nĕm 2017, có 1.955 doanh nghiệp đĕng ký thành lập mới trong lĩnh vực nông nghiệp, đưa số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đạt trên 5.661 doanh nghiệp. Tính đến quý II/2018, có khoảng 7.600 doanh nghiệp nông nghiệp; nếu tính cả doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và doanh nghiệp thương mại hàng lương thực thực phẩm, số lượng đã tĕng từ 12.113 doanh nghiệp nĕm 2005 lên 42.000 doanh nghiệp. Bên cạnh sự tĕng lên của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nông nghiệp, một số doanh nghiệp tập đoàn lớn ngoài lĩnh vực nông, lâm, thủy sản cũng đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp, như tập đoàn Vingroup, MaSan, Himlam, Viettel, FLC, Hoàng Anh Gia Lai, Pan group Những đơn vị này cũng áp dụng nhiều quy trình sản xuất hiện đại, áp dụng công nghệ mới và đã cho những kết quả ban đầu khá tốt. Với các dự án đầu tư bài bản, các doanh nghiệp đã bước đầu tạo được hiệu ứng 74 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 lan tỏa, thu hút thêm nhiều nhà đầu tư mới, thắp lửa tinh thần khởi nghiệp cho nông dân trở thành doanh nhân trên chính mảnh đất của họ. Với sự quan tâm từ phía Nhà nước, nguồn vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp cũng có những điểm sáng. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính lũy kế đến ngày 20/6/2018, cả nước có 502 dự án FDI vào ngành nông nghiệp còn hiệu lực, với tổng vốn lũy kế đạt 3.457,4 triệu USD. Các nước và vùng lãnh thổ châu Á, như: Đài Loan (Trung Quốc), ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc là những đối tác đầu tư lớn nhất vào ngành nông nghiệp Việt Nam [5]. Phần lớn các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp đều tập trung vào những địa phương có lợi thế về kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, khí hậu FDI đã góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và chuyển giao công nghệ tiên tiến, giống cây, giống con có nĕng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, tạo ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là các dự án đầu tư vào phát triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương. Quy mô vốn bình quân trong các doanh nghiệp nông nghiệp trong nước nĕm 2016 là 35,8 tỷ đồng/ doanh nghiệp (vốn bình quân doanh nghiệp cả nước là 72,82 tỷ đồng/doanh nghiệp). Nếu tính riêng doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản là hơn 73,1 tỷ đồng/doanh nghiệp, cao hơn bình quân cả nước. Về các hình thức thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam Hiện nay, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp như các chính sách: Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; chính sách bảo hiểm nông nghiệp; chính sách đầu tư theo hình thức đối tác công tư; chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong hợp tác, liên kết sản xuất quy mô lớn; chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao và chính sách khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo... Bên cạnh đó, các vĕn bản mới ban hành đã quy định các cơ chế chính sách ưu đãi sử dụng, thuê đất đai, mặt bằng kinh doanh, ưu đãi về thuế, hỗ trợ tín dụng, đào tạo lao động, phát triển thị trường, đầu tư cơ sở hạ tầng đến hàng rào doanh nghiệp, ưu tiên hỗ trợ một số dự án đầu tư vào nông nghiệp, nhất là các dự án về liên kết, chế biến sâu, ứng dụng khoa học công nghệ cao. Đồng thời, quy định giảm tối đa các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp, Bảng 2.Vốn đầu tư vào nông nghiệp của doanh nghiệp Đơn vị: tỷ đồng Nĕm 2010 2013 2014 2015 2016 Doanh nghiệp ngành nông nghiệp 88.861 182.232 283.870 231.334 245.719 - Nông nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan 73.091 149.082 168.410 183.059 210.278 - Lâm nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan 7.611 18.230 93.827 27.127 14.962 - Khai thác, nuôi trồng thủy sản 8.160 14.919 21.632 21.148 20.479 Nguồn: Tổng cục Thống kê nĕm 2018 Nĕm 2018, thị phần xuất khẩu được đảm bảo và mở rộng. Nĕm thị trường chính là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, ASEAN và Hàn Quốc tĕng trưởng tốt, chiếm thị phần lần lượt là 22,9% (giá trị tĕng 3,6% so với nĕm 2017), 17,9% (tĕng 9,4%), 19,1% (tĕng 7,1%); 10,64% (tĕng 11,0%) và 6,9% (tĕng 29,4%). Cụ thể, đối với mặt hàng gạo, khối lượng xuất khẩu lũy kế đạt 5,7 triệu tấn, đem về 2,9 tỉ USD, tĕng 5,6% về khối lượng và tĕng 17,7% về giá trị so với nĕm 2017. Rau quả với giá trị xuất khẩu 11 tháng nĕm 2018 ước đạt 3,5 tỉ USD, tĕng 11,6% so với cùng kỳ nĕm 2017, cá tra đạt kỉ lục trên 2 tỉ USD tĕng 27,4%. Các mặt hàng chủ lực là cà phê, điều và cao su dù bị giảm giá nhưng nhờ tĕng số lượng xuất khẩu nên vẫn duy trì mức tĕng giá trị xuất khẩu (cà phê đạt 3,3 tỷ USD, hạt điều 2,25 tỷ USD và cao su đạt 1,87 tỷ USD) [3]. Về quy mô vốn đầu tư Thời gian qua, nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp chứng kiến mức tĕng mạnh mẽ. Nếu như nĕm 2010, vốn đầu tư vào nông nghiệp đạt 88.861 tỷ đồng, thì nĕm 2016, nguồn vốn đầu tư này tiếp tục tĕng lên 245.719 tỷ đồng (bảng 2). Trong đó, nguồn vốn chủ yếu tập trung vào nông nghiệp và hoạt động dịch vụ liên quan (đạt 210.278 tỷ đồng nĕm 2016, chiếm tới 85,6%). NGÀNH KINH TẾ 75Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 Bảng 3. Vốn đầu tư FDI vào ngành nông nghiệp giai đoạn 2009-2017 Nĕm Vốn FDI vào nền kinh tế (triệu USD) Vốn FDI vào ngành nông nghiệp (triệu USD) Tỷ trọng FDI vào nông nghiệp so với tổng vốn FDI vào nền kinh tế (%) 2009 23.107,3 128,5 0,6 2010 19.886,1 36,2 0,2 2011 15.598,1 141,5 0,9 2012 7.854,1 33,2 0,4 2013 22.352,2 97,7 0,4 2014 15.642,6 73,98 0,5 2015 24.115,0 258,0 1,1 2016 24.373,0 99,5 0,4 2017 35.883,9 191,6 0,5 6 tháng nĕm 2018 20.333,3 80,31 0,4 Nguồn: Tổng hợp và tính toán của tác giả từ số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài nhà đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Đây là những cơ hội tốt tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Chính vì vậy, số lượng các doanh nghiệp đầu tư mới vào lĩnh vực nông nghiệp không ngừng gia tĕng. Số lượng vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào lĩnh vực này cũng liên tục tĕng. Tuy nhiên, các chính sách này chưa đủ mạnh để thu hút vốn FDI vào nông nghiệp. Cụ thể giai đoạn 2009-2017, số vốn FDI vào nông nghiệp có những nĕm chiếm tỷ trọng rất thấp, không vượt qua con số 1% tổng số vốn FDI vào Việt Nam: nĕm 2009 là 0,6%; nĕm 2010 là 0,2%; nĕm 2012, 2013 và 2016 đều chiếm 0,4%; nĕm 2017 là 0,5%; nửa đầu nĕm 2018 giảm xuống 0,4% (bảng 3). Ngoài ra, dòng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp có tốc độ tĕng trưởng không ổn định, thậm chí là có xu hướng giảm trong những nĕm gần đây. Về sử dụng lao động Sự phát triển của các doanh nghiệp nông nghiệp có vai trò quan trọng và đóng góp nhiều trong việc thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn và góp phần phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Tổng số lao động thường xuyên hiện đang làm việc trong các doanh nghiệp nông nghiệp nĕm 2017 là hơn 300 nghìn người (chiếm 2,3% tổng số lao động trong khu vực doanh nghiệp cả nước). Bình quân mỗi doanh nghiệp nông nghiệp sử dụng hơn 30 lao động/doanh nghiệp, cao hơn so với số lao động bình quân trong doanh nghiệp chung cả nước (28 lao động/doanh nghiệp) [2]. 2.2. Những hạn chế trong việc thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam Tuy nhiên, phải nhìn thẳng vào sự thật rằng, bài toán thúc đẩy thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Nguyên nhân xuất phát từ: Một là, hành lang pháp lý, cơ chế để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn không ít rào cản với một hệ thống thủ tục nhiêu khê, rắc rối và tầng tầng, lớp lớp. Doanh nghiệp muốn đầu tư vào lĩnh vực trồng trọt, một trong những ngành nghề được tạm coi là khá nhẹ nhàng, trước hết cũng phải có quy hoạch, đánh giá tác động môi trường, xin cấp phép khai thác nước ngầm để tưới cây, xin cả giấy phép để xả thải. Nếu doanh nghiệp nào nằm trong quy hoạch chĕn nuôi, phải thêm điều kiện xử lý chất thải áp dụng theo tiêu chuẩn nước thải công nghiệp, và khi muốn bổ sung thêm trồng trọt để tạo liên kết “vườn, ao, chuồng” tận dụng nguồn chất thải từ chĕn nuôi sang trồng trọt, góp phần bảo vệ môi trường thì phải điều chỉnh quy hoạch Bên cạnh đó là những vướng mắc về đất đai. Thời gian qua nhiều địa phương lúng túng khi triển khai chủ trương dồn điền đổi thửa để quy hoạch lại đồng ruộng theo hướng quy vùng sản xuất hàng hoá. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp không có diện tích đất đủ lớn để đầu tư sản xuất, phát triển kinh doanh lâu dài, chủ yếu vẫn dừng lại ở các gia trại, trang trại, hợp tác xã, với nĕng lực sản xuất vừa đủ lớn, nhưng chưa thể phát triển thành doanh nghiệp. 76 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 Hai là, đầu tư vào nông nghiệp mang tính rủi ro cao. Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Nĕm 2017, biến đổi khí hậu phức tạp gây nhiều hình thái thời tiết dị thường, thiên tai xảy ra liên tiếp, kéo dài cả nĕm trên khắp cả nước, gây thiệt hại lớn đến kết cấu hạ tầng, sản xuất và đời sống của nhân dân; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát... Thiên tai trong nĕm 2017 đã làm 361,4 nghìn ha lúa và hoa màu bị thiệt hại; 69.757 con gia súc và 1,98 triệu con gia cầm bị chết; 59.992 ha và 41.375 lồng nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại [3]. Mặt khác, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP ngành nông, lâm, thủy sản nĕm 2017 tĕng 2,9%, nhưng nếu không bị thiệt hại bởi các cơn bão số 10, 12 và 16, thì có thể đã tĕng trên 3,0% [8]. Những rủi ro này đang thách thức ngành nông nghiệp trước sự phát triển bền vững. Do đó, nhiều doanh nghiệp khá dè dặt khi đầu tư vào lĩnh vực này. Cụ thể, hiện cả nước có khoảng hơn 49.600 doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh, sản xuất, phân phối nông nghiệp, chiếm 8% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước. Tuy nhiên chỉ có khoảng 4.447 doanh nghiệp trực tiếp thực hiện hoạt động sản xuất nông nghiệp (bảng 2), còn lại các doanh nghiệp trong chuỗi các ngành liên quan đến nông nghiệp như chế biến hàng; cung cấp nguyên liệu đầu vào, doanh nghiệp dịch vụ thương mại.... Trong 6 tháng đầu nĕm 2018, mới chỉ có 890 doanh nghiệp nông nghiệp đĕng ký thành lập mới, trên tổng số 64.531 doanh nghiệp thành lập, chiếm khoảng 1,38%. Đó là chưa kể, hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp chủ yếu hiện nay vẫn ở dạng hộ sản xuất với hơn 9,2 triệu hộ. Xét theo quy mô lao động, 96% các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ và siêu nhỏ [5]. Hơn nữa, vốn đầu tư vào nông nghiệp hiện rất khiêm tốn. Theo bảng 1, vốn đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp nĕm 2016 là 245.719 tỷ đồng, chỉ chiếm khoảng 0,94% so với tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp vào các ngành kinh tế là 26.049.661 tỷ đồng. Doanh nghiệp FDI cũng không ngoại lệ. Mặc dù tỷ trọng FDI của cả nước có xu hướng tĕng, nhưng trong thời gian qua, dòng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế, quá nhỏ cả về quy mô dự án và tỷ trọng vốn đầu tư so với tổng vốn FDI của cả nước, chưa xứng với tiềm nĕng, cũng như thế mạnh phát triển nông nghiệp của Việt Nam. Ba là, khoa học, công nghệ chưa phát huy vai trò là động lực, là đòn bẩy trong sản xuất. Các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp còn nhỏ lẻ, phân bố không đồng đều, chưa giảm được nhiều tác động tiêu cực của các yếu tố khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp. Nguyên nhân là do cơ chế, chính sách phục vụ phát triển chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao; lãnh đạo một số sở, ban, ngành chưa thật sự quan tâm đầu tư cho hoạt động khoa học, công nghệ. Ngoài ra, việc nhân rộng các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, cơ giới hóa sản xuất còn bất cập. Việc khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển nông nghiệp, hình thành chuỗi giá trị chưa đáp ứng yêu cầu. Các sản phẩm khoa học, công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp chưa được xây dựng, quảng bá và phát triển thương hiệu, do vậy giá trị kinh tế chưa cao. Bốn là, rất ít lao động có tay nghề được đào tạo bài bản. Điều này khiến cho nĕng suất lao động nông nghiệp của Việt Nam khá thấp so với các nước trong khu vực. Theo báo cáo về “Triển vọng phát triển châu Á nĕm 2017” của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), sản lượng nông nghiệp bình quân trên mỗi lao động ở Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Indonesia và chưa bằng một nửa so với Thái Lan, Philippines. Nĕm là, Việt Nam chưa có sàn giao dịch nông sản đúng nghĩa để kiểm soát được chất lượng, sản lượng và giá trị cho nông sản cũng như thúc đẩy các doanh nghiệp nông nghiệp phát triển thương mại điện tử, chú trọng truy xuất nguồn gốc, đảm bảo yếu tố an toàn thực phẩm. Một trong các nguyên nhân khiến hàng nông sản Việt Nam dù đa dạng, phong phú và tiềm nĕng nhưng chưa xuất khẩu bền vững, xuất phát từ thói quen sử dụng các vật tư nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật một cách tùy tiện, ảnh hưởng đến chất lượng nông sản. Hơn nữa, cơ chế hợp tác công - tư trong xúc tiến thương mại ngành nông nghiệp còn hạn chế, hình thức, ít hiệu quả. Việc không xác định được thị trường trọng tâm trọng điểm dẫn đến phân bổ nguồn lực xúc tiến bất hợp lý; các chương trình xúc tiến còn hình thức, chưa thực sự kết nối được NGÀNH KINH TẾ 77Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 nhu cầu của các thị trường với tiềm nĕng sản xuất trong nước nên nhiều nguồn lực của cả hai phía công - tư còn bị lãng phí. Sáu là, hệ thống logistic trong các lĩnh vực nói chung và trong phục vụ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy sản của Việt Nam phát triển chưa đồng bộ. Do vậy, chi phí vận chuyển, bảo quản các sản phẩm nông nghiệp quá cao, dẫn đến giá thành khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại một số nước như Trung Quốc, Thái Lan trong xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Singapore,... 3. GIẢI PHÁP TĔNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM Để đẩy mạnh thu hút đầu tư vào nông nghiệp, thời gian tới cần triển khai một số giải pháp sau: Một là, Nhà nước cần có chính sách cải cách về thủ tục trong thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, cụ thể: - Đối với đầu tư trong nước, cần có các chính sách khuyến khích hợp tác công tư hợp lý và hiệu quả. Cụ thể chính sách này cần dành cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp những ưu đãi và trợ cấp về thuế (thu nhập, VAT, thuế xuất - nhập khẩu...), bên cạnh đó cần có những chính sách đồng bộ phát triển các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, hỗ trợ về hạ tầng thị trường, hỗ trợ xúc tiến thương mại và cơ chế tài chính đặc thù. Cơ chế hỗ trợ theo hình thức vườn ươm doanh nghiệp cũng cần được ưu tiên thực hiện. - Đối với thu hút FDI, Chính phủ cần xây dựng mới chính sách thu hút đầu tư FDI đặc biệt trong các lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất đầu vào, dịch vụ hậu cần, chế biến nông sản, quản lý chất lượng, phát triển thị trường,... gắn thu hút doanh nghiệp với nhu cầu thị trường, theo địa phương và lĩnh vực trọng điểm. Nghiên cứu ban hành các cơ chế chính sách giúp đơn giản hóa các thủ tục trong việc vay vốn ngân hàng, khuyến khích ngân hàng cung cấp tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp kinh doanh có vùng nguyên liệu được tổ chức và có hợp đồng nông sản với nông dân. - Phát triển công tác thúc đẩy liên kết công tư trong đầu tư vào nông nghiệp thông qua xây dựng các diễn đàn về chính sách để tháo gỡ khó khĕn cho doanh nghiệp; đưa doanh nghiệp cùng tham gia vào quá trình hoạch định các chính sách liên quan; cùng doanh nghiệp thiết kế những dự án đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả cho cả doanh nghiệp và nông dân; cung cấp dịch vụ công để hỗ trợ doanh nghiệp khi đầu tư vào nông nghiệp như thông tin về chính sách, cơ sở dữ liệu cho đầu tư, chuyên gia của từng lĩnh vực để tư vấn, phát triển dự án và thị trường. Hai là, để hạn chế rủi ro trong đầu tư đồng thời tĕng cường hoạt động nghiên cứu khoa học áp dụng công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp thì cần ưu tiên các doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng vào các nhóm lĩnh vực, ngành nghề: (i) Đầu tư, phát triển vùng sản xuất tập trung trong các lĩnh vực trồng trọt, chĕn nuôi, nuôi trồng thủy sản; (ii) Sản xuất, phát triển giống cây trồng, vật nuôi, giống cây lâm nghiệp, giống thủy sản. Sản xuất đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ĕn chĕn nuôi và thủy sản, chế phẩm sinh học, thuốc thú y chĕn nuôi và thủy sản; (iii) Ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa và các công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển trong sản xuất nông nghiệp; (iv) Đầu tư vào lĩnh vực chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản, dược liệu, tinh chế muối; sản xuất máy, thiết bị, chất phụ gia, phụ trợ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp Ba là, nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho lực lượng lao động nông nghiệp. Đào tạo nghề phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp trên từng địa bàn cụ thể và nhu cầu thực tế của người dân. Do đó, từng địa phương cần có những nghiên cứu đánh giá để nắm bắt nhu cầu cụ thể của từng nghề, nhóm nghề, vị trí công việc của doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhân lực phù hợp. Đồng thời, đẩy mạnh đào tạo nghề, nâng cao kiến thức cho người lao động nông thôn để có thể tiếp thu thành quả công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp. Tạo thêm nhiều việc làm mới ở khu vực ngoại thành để thu hút lao động dư thừa trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Mặt khác, đa dạng hóa hình thức đào tạo, đẩy mạnh xã hội hóa dạy nghề. Xây dựng và ban hành chính sách đào tạo, thu hút người lao động 78 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 có trình độ cao đẳng, đại học về hợp tác xã nông nghiệp, nhất là con em tại chỗ của địa phương; đẩy mạnh thực hiện chính sách hỗ trợ học nghề cho lao động nông thôn thực hiện theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến nĕm 2020; hoàn thiện các chương trình đào tạo kỹ nĕng, tay nghề cho người lao động, nâng cao nhận thức về việc làm và khả nĕng tìm kiếm việc làm cho người lao động. Bốn là, phát triển thị trường, dịch vụ hỗ trợ hoạt động nông nghiệp. Cụ thể: - Hình thành sàn giao dịch công nghệ cao trong nông nghiệp và phát triển các loại hình dịch vụ môi giới, tư vấn, đánh giá, đầu tư, pháp lý, tài chính, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ và các dịch vụ khác nhằm thúc đẩy hoạt động công nghệ cao, tiêu thụ, sử dụng sản phẩm công nghệ cao trong nông nghiệp. - Xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ về công nghệ cao trong nông nghiệp; tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tiếp cận, sử dụng, trao đổi thông tin về công nghệ cao trong nông nghiệp; tổ chức, tham gia chợ, hội chợ, triển lãm công nghệ cao trong nông nghiệp quy mô quốc gia, quốc tế. - Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp nông nghiệp hàng đầu của Việt Nam đầu tư nghiên cứu nhu cầu và thị hiếu các thị trường nước ngoài để phát triển đa dạng sản phẩm với chất lượng tốt, hạn chế xuất khẩu thô và xây dựng mạng lưới phân phối trực tiếp đến tận tay người tiêu dùng ở các thị trường quốc tế. Hình thành chuỗi ngành hàng chiến lược bám sát thị trường, có liên kết quốc tế mạnh, có thương hiệu toàn cầu, có vị thế ở một số thị trường mục tiêu, có ảnh hưởng kinh tế và xã hội lớn... 4. KẾT LUẬN Việt Nam là nước có lợi thế cạnh tranh về phát triển nông nghiệp nhiệt đới với điều kiện sinh thái đa dạng, số giờ nắng nhiều, nguồn nước dồi dào, nhân lực đông đảo. Đây chính là điều kiện tiền đề để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn tạo ra những bước phát triển vượt bậc trong đảm bảo an ninh lương thực, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu và tạo ra sự quan tâm của doanh nghiệp đối với ngành nông nghiệp Việt Nam. Để đạt tới mục tiêu: “Trong 10 nĕm tới ngành nông nghiệp Việt Nam phải đứng thứ 15 thế giới, là nơi chế biến nông sản đứng thứ 10 thế giới” [13], nước ta cần đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp. Bài báo đã đưa ra được những giải pháp cụ thể cần thực hiện trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp ở Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. ADB (2017), Triển vọng phát triển châu Á nĕm 2017. [2]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2018a), Báo cáo Tiềm nĕng, cơ hội và định hướng giải pháp thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. [3]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2018b), Báo cáo tổng kết thực hiện Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn nĕm 2017 và triển khai Kế hoạch nĕm 2018. [4]. Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017), Tình hình thu hút Đầu tư nước ngoài 6 tháng đầu nĕm 2018. [5]. Cục Quản lý đĕng ký kinh doanh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Tình hình đĕng ký doanh nghiệp tháng 6 và 6 tháng đầu nĕm 2018. [6]. Nguyễn Khắc Đông (2016), Thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Gia Lai, Luận vĕn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Đà Nẵng. [7]. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2017), Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2016. [8]. Tổng cục Thống kê (2017), Tình hình kinh tế - xã hội nĕm 2017 [9]. Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám Thống kê nĕm 2017, Nxb Thống kê. [10]. Đoàn Anh Tuấn (2018), Đẩy mạnh thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 17, tháng 6/2018. [11]. Hải Yến (2018), Việt Nam lọt top 5 thế giới xuất khẩu nông sản, nhưng vẫn chưa chinh phục nổi thị trường EU, https://tinnhanhchungkhoan.vn/thuong- truong/viet-nam-lot-top-5-the-gioi-xuat-khau-nong- san-nhung-van-chua-chinh-phuc-noi-thi-truong- eu-238468.html. [12]. Nam Giang (2018), Chất lượng và thương hiệu quyết định nông sản Việt vươn ra thế giới, https:// bnews.vn/chat-luong-va-thuong-hieu-quyet-dinh- nong-san-viet-vuon-ra-the-gioi/90721.html. [13]. Đức Tuân (2018), Thủ tướng ‘đặt hàng’ ngành nông nghiệp vào tốp 15 thế giới, Thuc-day-doanh-nghiep-dau-tu-vao-nong-nghiep/ Thu-tuong-dat-hang-nganh-nong-nghiep-vao-top- 15-the-gioi/342657.vgp. NGÀNH KINH TẾ 79Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 Ngô Thị Luyện - Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo, nghiên cứu): + Nĕm 2007: Tốt nghiệp Đại học ngành Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế quốc dân + Nĕm 2012: Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội - Tóm tắt công việc hiện tại: Giảng viên, khoa Kinh tế, Trường Đại học Sao Đỏ - Lĩnh vực quan tâm: Quản trị kinh doanh, Kinh tế thương mại - Email: ngothiluyendhsd@gmail.com - Điện thoại: 0977336889 THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ Nguyễn Thị Ngọc Mai - Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo, nghiên cứu): + Nĕm 2010: Tốt nghiệp Đại học ngành Quản trị kinh doanh + Nĕm 2013: Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Quản trị kinh doanh - Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội - Tóm tắt công việc hiện tại: Giảng viên, khoa Kinh tế, Trường Đại học Sao Đỏ - Lĩnh vực quan tâm: Quản trị kinh doanh, Quản trị chiến lược, Quản trị bán hàng, marketing, Khởi nghiệp kinh doanh, Quản trị thương hiệu - Email: ngocmai242@gmail.com - Điện thoại: 0916143388

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiai_phap_thu_hut_von_dau_tu_vao_nganh_nong_nghiep_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan