Một, không nên quy định cấm đối với
giao dịch “đứng tên giùm”, trừ trường hợp
“đứng tên giùm” đối với loại tài sản mà việc
lưu thông của loại tài sản này ảnh hưởng đến
hiệu quả của pháp luật.
Hai, pháp luật cần coi giao dịch “đứng
tên giùm” là giao dịch có điều kiện.
Ba, cần xác định “người đứng tên
giùm” đóng vai trò trung gian trong mối
quan hệ với người “nhờ đứng tên giùm” như
Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng quy
định về vấn đề này11.
Bốn, trong trường hợp giao dịch
“đứng tên giùm” chưa phát sinh hiệu lực, tài
sản đứng tên giùm thuộc sở hữu của người
“đứng tên giùm”. Người “nhờ đứng tên
giùm” chỉ có quyền đòi lại tài sản đã chuyển
giao cho bên “đứng tên giùm” và bồi thường
thiệt hại hoặc có quyền hưởng giá trị tài sản
“đứng tên giùm”, mà không có quyền đòi lại
tài sản “đứng tên giùm”
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải quyết tranh chấp liên quan đến giao dịch “đứng tên giùm” - từ lý luận đến thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Trong thời gian qua có không ít các tranh chấp liên quan đến giao
dịch “đứng tên giùm”. Tuy nhiên, do pháp luật chưa có quy định về
giao dịch “đứng tên giùm”, cùng với việc các Tòa án khi giải quyết
tranh chấp liên quan đến giao dịch này có sự khác biệt, thậm chí
trái ngược nhau về cách nhìn nhận bản chất của giao dịch “đứng
tên giùm”. Vì vậy, trong thời gian tới cần có giải pháp hoàn thiện
quy định của pháp luât nhằm giải quyết tranh chấp liên quan đến
các giao dịch “đứng tên giùm”.
Châu Thị Khánh Vân*
* TS. Phó trưởng Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - Luật TP. Hồ Chí Minh
Abstract
There have been several legal disputes related to the case of "in
the name of another person" transaction in recent years. However,
due to the lack of regulations on in the name of another person"
transaction, the courts in dispute settlement related to this
transaction have different, even contradictory, perceptions on the
nature of "in the name of another person" transaction. Therefore, in
the coming time, there should be a solution for futher improvement
of the legal provisions to resolve the disputes related to "in the
name of another person" transaction.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: giao dịch, giao dịch có điều
kiện, giao dịch giả tạo, người trung
gian.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 30/03/2018
Biên tập : 15/05/2018
Duyệt bài : 20/05/2018
Article Infomation:
Keywords: transactions; conditional
transactions; fake transaction,
intermediary.
Article History:
Received : 30 Mar. 2018
Edited : 15 May 2018
Approved : 20 May 2018
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN GIAO DỊCH
“ĐỨNG TÊN GIÙM” - TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN
1. Bản chất của giao dịch “đứng tên giùm”
tài sản và mối quan hệ của người “đứng
tên giùm” với người “nhờ đứng tên giùm”
và những người liên quan
“Đứng tên giùm” tài sản không phải
là tên gọi được dùng trong các văn bản pháp
luật và chúng tôi cũng cho rằng, cụm từ này
không phản ánh đúng bản chất của giao
dịch này. Đây chỉ là cách gọi được sử dụng
trong các bản án của Tòa án và trong các bài
nghiên cứu.
Vậy, giao dịch “đứng tên giùm” là gì?
Giao dịch này có bản chất thế nào? Người
“đứng tên giùm” và người “nhờ đứng tên
giùm” có mối quan hệ ra sao? Để làm rõ
được các câu hỏi này, xác định bản chất của
giao dịch “đứng tên giùm” trước hết, chúng
ta cần xem xét lý do và hoàn cảnh xuất hiện
của giao dịch này. Có thể xem xét lý do và
hoàn cảnh xuất hiện của giao dịch nhờ đứng
tên giùm qua vụ việc tranh chấp sau:
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 19(371) T10/2018
Năm 2000, do Nhà nước chưa cho
phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài
có quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất
tại Việt Nam, nên ông Trần Bá Sâm là người
Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhờ cháu
ruột là bà Huỳnh Thị Bán đứng tên mua toàn
bộ căn nhà và đất của bà Trần Thị Đan gồm
nhà ở, đất ở, đất trồng cây lâu năm, đất đìa
đến khi Nhà nước cho phép ông được sở hữu
nhà ở tại Việt Nam. Toàn bộ số tiền mua số
tài sản này là của ông Sâm. Năm 2011, khi
Nhà nước đã cho phép người Việt Nam định
cư ở nước ngoài có quyền sở hữu nhà ở tại
Việt Nam, ông yêu cầu bà Bán trả lại nhà
đất, nhưng không được chấp nhận, nên ông
khởi kiện để yêu cầu bà Bán trả lại nhà, đất
cho ông.
Xem xét giao dịch trong vụ việc nêu
trên và các vụ việc có cùng bản chất ở các
bản án khác cho thấy, về thực chất, ông Trần
Bá Sâm không tham gia vào giao dịch mua
bán nêu trên. Bản thân bà Trần Thị Đan cũng
chỉ biết người mua là bà Huỳnh Thị Bán.
Bà Trần Thị Đan không biết và không thể
biết các thỏa thuận giữa ông Trần Bá Sâm
và người mua là bà Huỳnh Thị Bán, thậm
chí cả trong trường hợp hai bên có thỏa
thuận về việc thực chất người mua là ông
Sâm. Như vậy, việc mua bán về thực chất là
do bà Huỳnh Thị Bán tiến hành, nên không
thể xác định giao dịch này là giao dịch giả
tạo. Vì lẽ đó, cũng không thể xác định giao
dịch bị che giấu là giao dịch giữa ông Trần
Bá Sâm và bà Trần Thị Đan. Ở một góc độ
khác, cũng có thể xem xét giao dịch mua
bán này là giao dịch có điều kiện. Nghĩa là
bà Bán chỉ tham gia vào giao dịch mua bán
với bà Đan do ông Sâm muốn có quyền sở
hữu số tài sản này. Ngoài ra, trong quan hệ
này còn có một giao dịch sẽ xảy ra trong
tương lai, đó là giao dịch chuyển quyền tài
sản mà bà Bán mua của bà Đan cho ông
Sâm. Giao dịch này chỉ xảy ra khi luật Việt
Nam cho phép ông Sâm sở hữu đối với số
tài sản này. Vì vậy, giao dịch này có bản chất
là giao dịch có điều kiện. Mối quan hệ giữa
“người đứng tên giùm” và người “nhờ đứng
tên giùm” là mối quan hệ ủy quyền, đại diện
hay trung gian. Theo chúng tôi, trong mối
quan hệ này, người đứng tên giùm chỉ có thể
là người trung gian. Người đứng tên giùm
không thể là người nhận ủy quyền hay người
đại diện vì người nhờ đứng tên giùm chưa
có quyền sở hữu đối với tài sản đứng tên
giùm. Vì vậy, không có tư cách để ủy quyền
cho người đứng tên giùm trong mối quan hệ
nêu trên.
Như vậy, giao dịch “đứng tên giùm”
được hiểu là giao dịch mua bán tài sản “đứng
tên giùm” và giao dịch chuyển quyền sở hữu
tài sản “đứng tên giùm” từ bên “đứng tên
giùm” sang cho bên “nhờ đứng tên giùm”
khi pháp luật cho phép người “nhờ đứng tên
giùm” có quyền được sở hữu tài sản “đứng
tên giùm”. Tài sản “đứng tên giùm” là các
tài sản mà tại thời điểm mua bán, người “nhờ
đứng tên giùm” không được phép sở hữu.
Giao dịch “đứng tên giùm” tài sản có
bản chất là giao dịch có điều kiện. Trong đó,
người “đứng tên giùm” là người trung gian
trong mối quan hệ với người “nhờ đứng tên
giùm” và là người mua trong quan hệ mua
bán tài sản “đứng tên giùm”.
2. Bình luận về việc giải quyết các tranh
chấp liên quan đến giao dịch “đứng tên
giùm” tài sản và đề xuất
Pháp luật nước ta không có quy định
về giao dịch “đứng tên giùm”. Do vậy, Tòa
án phải vận dụng các quy định pháp luật để
giải quyết các tranh chấp liên quan đến giao
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 19(371) T10/2018
dịch “đứng tên giùm”. Tuy nhiên, khi xem
xét các bản án về việc giải quyết tranh chấp
liên quan đến giao dịch này, có thể nhận thấy
một số điểm chưa phù hợp sau đây:
Thứ nhất, bản chất của giao dịch
“đứng tên giùm” chưa được các Tòa án
nhận định thống nhất, rõ ràng và chính xác
Khi giải quyết tranh chấp liên quan
đến giao dịch “đứng tên giùm”, có Tòa án
xác định giao dịch “đứng tên giùm” là giao
dịch giả tạo, giao dịch mua hộ1, có Tòa án
xác định giao dịch “đứng tên giùm” là giao
dịch có điều kiện2, thậm chí có Tòa án không
xác định bản chất của giao dịch “đứng tên
giùm”3. Chúng tôi cho rằng, việc Tòa án xác
định giao dịch “đứng tên giùm” là giao dịch
giả tạo là thiếu chính xác, chưa đảm bảo tính
hợp pháp và tính hợp lý, bởi lẽ:
- Xét về tính hợp pháp, nếu Tòa án coi
đây là giao dịch giả tạo, nhưng Tòa án lại
không tuyên giao dịch này là vô hiệu4 thì
chưa phù hợp với quy định của pháp luật,
vì theo quy định pháp luật, giao dịch giả tạo
phải bị vô hiệu5.
- Xét về tính hợp lý, theo luận giải
của chúng tôi ở mục 1 nêu trên, giao dịch
“đứng tên giùm” phải được coi là giao dịch
có điều kiện. Như vậy, việc Tòa án coi giao
dịch “đứng tên giùm” là giao dịch giả tạo là
chưa đảm bảo tính hợp lý.
1 Hầu hết các bản án giải quyết tranh chấp liên quan đến giao dịch đứng tên giùm đều xem giao dịch đứng tên giùm là
giao dịch giả tạo, cho dù có thể không khẳng định trực tiếp. Ví dụ, xem Bản án giám đốc thẩm số 11/2010/DS/GĐT
ngày 02/4/2010 về vụ kiện đòi tài sản; Bản án dân sự phúc thẩm số 79/2012/DS-PT ngày 13/01/2012 về tranh chấp
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất; Bản án dân sự giám đốc thẩm số 04/2013/DS- GĐT ngày 11/01/2013 về tranh
chấp quyền sở hữu nhà ở
2 Bản án dân sự sơ thẩm số 164/2015/DS- ST ngày 10/4/2015 của TAND quận Gò Vấp về việc tranh chấp quyền sở hữu
tài sản.
3 Án lệ số 02/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
4 Tòa án không tuyên giao dịch đứng tên giùm vô hiệu trong trường hợp giao dịch bị che giấu bị vô hiệu
5 Xem Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 1995; Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015.
6 Xem các bản án nêu trên.
Trong bối cảnh mà pháp luật chưa có
quy định cụ thể, rõ ràng đối với các giao
dịch “đứng tên giùm” thì việc Tòa án khi
giải quyết các tranh chấp liên quan đến giao
dịch này nhưng lại không xác định rõ ràng,
chính xác về bản chất của giao dịch “đứng
tên giùm” sẽ gây khó khăn trong việc hiểu,
áp dụng, thực hiện pháp luật, thậm chí gây
nghi ngờ về tính đúng đắn của bản án.
Thứ hai, các luận giải của Tòa án
chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa hợp lý
Xem xét các bản án do Tòa án nhân
dân các cấp giải quyết có thể nhận thấy, các
luận giải của Tòa án chưa thật sự đầy đủ,
rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn. Nhưng điều
khó hiểu là các Tòa án lại đưa ra kết luận
như nhau khi giải quyết loại tranh chấp này,
cụ thể: hầu như các Tòa án đều quyết định6
chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của người “nhờ
đứng tên giùm” nếu tại thời điểm xét xử,
người “nhờ đứng tên giùm” đã được phép sở
hữu đối với tài sản này. Những trường hợp
chưa được phép sở hữu tài sản “đứng tên
giùm” tại Việt Nam, như quyền sử dụng đất
nông nghiệp và các loại đất phi nông nghiệp
mà không phải đất ở thì hầu hết các Tòa án
đều không chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của
người “nhờ đứng tên giùm”. Trong trường
hợp này, người “nhờ đứng tên giùm” chỉ có
quyền đòi lại số tiền đã chuyển cho người
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 19(371) T10/2018
“đứng tên giùm” và được hưởng giá trị tăng
thêm từ tài sản này sau khi đã trừ đi phần mà
người “đứng tên giùm” được hưởng7. Tài
sản trong trường hợp này vẫn thuộc quyền
sở hữu của người “đứng tên giùm”, kể cả
trong trường hợp Tòa án nhận định đây là
giao dịch giả tạo8. Cách giải quyết mà phần
luận giải chưa thấu đáo này đã làm cho các
vấn đề có liên quan đến giao dịch này cũng
chưa có lời giải đáp thỏa đáng, như pháp
luật có cấm giao dịch đứng tên giùm hay
không, trong trường hợp không cấm thì giao
dịch “đứng tên giùm” có hiệu lực khi nào;
các bên trong giao dịch “đứng tên giùm” và
những người liên quan có quyền và nghĩa vụ
gì. Đối với những vấn đề này, chúng tôi có
ý kiến như sau:
Một là, hiện nay, pháp luật có cấm giao
dịch “đứng tên giùm” hay không? Vấn đề
này vẫn còn có ý kiến trái ngược nhau. Có ý
kiến cho rằng, giao dịch này bị cấm9, nhưng
cũng có ý kiến cho rằng giao dịch này không
bị cấm10. Chúng tôi cho rằng, chưa có cơ sở
pháp lý chắc chắn để có thể khẳng định giao
dịch này bị cấm hay không bị cấm. Vì vậy,
giao dịch này có bị cấm hay không, cần các
nhà làm luật thể hiện một cách rõ ràng.
Vấn đề pháp luật có nên cấm giao
dịch “đứng tên giùm” tài sản hay không,
theo chúng tôi, phụ thuộc vào các tác động
tiêu cực từ giao dịch này đến việc thực hiện
vai trò, mục đích của pháp luật nói riêng và
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
7 Người “đứng tên giùm” tài sản được hưởng phần tiền tương đương với công sức đã bỏ ra để làm tăng giá trị của tài sản,
như: công sức gìn giữ tài sản
8 Như đã trình bày ở trên, giao dịch giả tạo phải bị vô hiệu theo quy định pháp luật.
9 Nguyễn Hồng Hà, Cần hủy án lệ Việt kiều nhờ đứng tên mua đất (
dung-ten-mua-dat-717650.html, truy cập ngày 26/3/2018).
10 Xem Bản án dân sự sơ thẩm số 164/2015/DS- ST ngày 10/4/2015 của TAND quận Gò Vấp về việc tranh chấp quyền sở
hữu tài sản.
nói chung. Giao dịch này chỉ nên cấm trong
trường hợp có ảnh hưởng không nhỏ đến
việc thực hiện vai trò, mục đích của pháp
luật nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước nói chung.
Giao dịch “đứng tên giùm” có thể gây
ra tác động tiêu cực là làm hạn chế, thậm
chí đóng băng tài sản trong thời gian “đứng
tên giùm”, bởi lẽ mục đích của người “nhờ
đứng tên giùm” tài sản là muốn sở hữu tài
sản “đứng tên giùm”, nhưng do pháp luật
cấm họ được sở hữu loại tài sản này, nên
họ phải thông qua mối trung gian để đảm
bảo khi pháp luật bỏ quy định cấm họ sẽ có
được loại tài sản này. Trên thực tế, hầu hết
các trường hợp đều hướng đến mục đích
này. Ngoài ra, cũng có thể thông qua giao
dịch “đứng tên giùm”, người “nhờ đứng tên
giùm” muốn đầu tư vào tài sản “đứng tên
giùm” để hưởng hoa lợi, lợi tức và phần giá
trị tăng thêm từ tài sản. Tuy nhiên, chỉ trong
trường hợp mục đích của giao dịch này là
muốn sở hữu tài sản “đứng tên giùm” thì
giao dịch này mới có thể làm hạn chế sự
lưu thông, thậm chí làm đóng băng tài sản
đứng tên giùm cho đến khi pháp luật cho
phép người nhờ đứng tên giùm có quyền sở
hữu tài sản đứng tên giùm, bởi lẽ, để đảm
bảo cho việc thực hiện chuyển quyền sở hữu
tài sản cho người “nhờ đứng tên giùm” theo
cam kết, về lý thuyết, bên “đứng tên giùm”
chỉ có hai lựa chọn hoặc không thực hiện
việc chuyển quyền sở hữu cho người khác
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
57Số 19(371) T10/2018
hoặc chuyển quyền sở hữu có thời hạn. Thực
tế, việc chuyển quyền sở hữu có thời hạn
dường như không diễn ra vì khó thực hiện
và gặp sự phản đối từ người “nhờ đứng tên
giùm”. Mặt khác, nếu đã cho phép giao dịch
“đứng tên giùm” thì pháp luật cũng có các
quy định để đảm bảo cho mục đích của giao
dịch này được thực hiện. Chính vì lẽ đó, tài
sản “đứng tên giùm” hầu như không tham
gia vào bất cứ giao dịch nào. Việc không
tham gia được vào giao dịch đã ngăn cản cơ
hội sự dịch chuyển của tài sản đến người có
khả năng sử dụng chúng hiệu quả hơn.
Từ những phân tích trên, chúng tôi
cho rằng, pháp luật không nên cấm giao
dịch “đứng tên giùm” đối với tài sản mà
việc sử dụng hiệu quả chúng không phải là
mối quan tâm của pháp luật. Đối với các loại
tài sản mà pháp luật coi việc sử dụng hiệu
quả là mục đích mà pháp luật cần hướng
đến thì không nên cho phép giao dịch “đứng
tên giùm” hoặc nếu cho phép thì cần có quy
định hạn chế đến mức tối đa tác động tiêu
cực này.
Hai là, khi nào thì giao dịch “đứng tên
giùm” có hiệu lực? Để xác định thời điểm
có hiệu lực của giao dịch “đứng tên giùm”
cần dựa vào cách hiểu và bản chất của giao
dịch “đứng tên giùm”. Theo chúng tôi, đối
với giao dịch mua bán giữa người “đứng
tên giùm” tài sản và người bán tài sản (giữa
bà Bán và bà Đan trong ví dụ nêu tại mục
1) thì giao dịch này có hiệu lực kể từ thời
điểm có hiệu lực của giao dịch mua bán tài
sản. Ví dụ, đối với bất động sản trên đất là
vào thời điểm công chứng, chứng thực hợp
đồng. Giao dịch này khi giải quyết tranh
chấp liên quan đến vấn đề “đứng tên giùm”
cần xem là một giao dịch độc lập với giao
dịch chuyển quyền sở hữu tài sản từ người
“đứng tên giùm” tài sản sang người “nhờ
đứng tên giùm” tài sản, bởi lẽ người “đứng
tên giùm”, như đã trình bày, không phải là
người tham gia vào giao dịch mua bán với
vai trò là người được người “nhờ đứng tên
giùm” ủy quyền hay đại diện cho người
“nhờ đứng tên giùm”. Trong giao dịch này,
người “đứng tên giùm” không thực hiện
giao dịch mua bán nhân danh người “nhờ
đứng tên giùm”, mà thực hiện giao dịch này
nhân danh chính bản thân người “đứng tên
giùm”. Người này cũng không thể viện lý do
liên quan đến việc “đứng tên giùm” để yêu
cầu hủy bỏ giao dịch, trừ trường hợp có thỏa
thuận hoặc được người bán đồng ý.
Đối với giao dịch chuyển quyền sở
hữu tài sản “đứng tên giùm” từ người “đứng
tên giùm” sang “người nhờ đứng tên giùm”
thì giao dịch chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm
người “nhờ đứng tên giùm” được pháp luật
cho phép sở hữu tài sản “đứng tên giùm”,
bởi vì như trên đã trình bày, giao dịch này
là giao dịch có điều kiện và điều kiện ở đây
là khi bên “nhờ đứng tên giùm” có quyền sở
hữu “tài sản đứng tên giùm”.
Ba là, về quyền và nghĩa vụ của các
bên trong giao dịch “đứng tên giùm”, chúng
tôi cho rằng, những người này có quyền và
nghĩa vụ sau đây:
- Đối với bên “nhờ đứng tên giùm”
Khi bàn về quyền của bên “nhờ đứng
tên giùm”, câu hỏi quan trọng cần được làm
rõ là bên “nhờ đứng tên giùm” có quyền yêu
cầu bên “đứng tên giùm” không được thực
hiện các giao dịch, nhất là giao dịch chuyển
quyền trong thời gian “đứng tên giùm”, trừ
khi được sự đồng ý của bên “nhờ đứng tên
giùm” hay không? Trong trường hợp bên
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
58 Số 19(371) T10/2018
“đứng tên giùm” thực hiện giao dịch đối
với tài sản “đứng tên giùm” thì bên “nhờ
đứng tên giùm” có quyền gì? Trong thực tế,
dường như các giao dịch “đứng tên giùm”
hiện nay, bên “nhờ đứng tên giùm” đều đưa
ra thỏa thuận này.
Đối với câu hỏi bên “nhờ đứng tên
giùm” có quyền yêu cầu bên “đứng tên giùm”
không được thực hiện các giao dịch, nhất
là giao dịch chuyển quyền trong thời gian
“đứng tên giùm”, trừ khi được sự đồng ý của
bên “nhờ đứng tên giùm” hay không, chúng
tôi cho rằng, vì giao dịch mua bán tài sản của
người “đứng tên giùm” là một giao dịch độc
lập, nhân danh chính người “đứng tên giùm”
nên không phải là giao dịch giả tạo. Do đó,
giao dịch này vẫn có hiệu lực nếu đáp ứng
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Mặt
khác, giao dịch “đứng tên giùm” là giao dịch
có điều kiện nên về nguyên tắc, bên “nhờ
đứng tên giùm” chỉ có quyền này khi giao
dịch “đứng tên giùm” có hiệu lực. Vì vậy,
bên “nhờ đứng tên giùm” chỉ có quyền buộc
bên “đứng tên giùm” thực hiện các nghĩa
vụ đã cam kết, trong đó có nghĩa vụ không
được chuyển quyền hay định đoạt tài sản,
trừ khi được sự đồng ý của bên “nhờ đứng
tên giùm” khi điều kiện của giao dịch xảy ra.
Đối với giao dịch “nhờ đứng tên giùm”, điều
kiện làm phát sinh hiệu lực chính là khi pháp
luật cho phép người “nhờ đứng tên giùm”
có quyền sở hữu tài sản. Trong trường hợp
người “nhờ đứng tên giùm” chưa có quyền
sở hữu tài sản đứng tên giùm thì người “nhờ
đứng tên giùm” không có quyền yêu cầu
người “đứng tên giùm” không được chuyển
quyền sở hữu tài sản nói riêng và việc định
đoạt đối với tài sản nói chung. Tại thời điểm
này, tài sản “đứng tên giùm” vẫn phải thuộc
sở hữu của bên “đứng tên giùm” và thỏa
thuận chuyển quyền chưa có hiệu lực. Chính
vì vậy, với tư cách là chủ sở hữu tài sản và
chưa bị ràng buộc bởi cam kết, người “đứng
tên giùm” hoàn toàn có quyền định đoạt tài
sản. Tất nhiên, pháp luật có thể đặt ra ngoại
lệ để can thiệp vào mối quan hệ này nhằm
hạn chế quyền của chủ sở hữu tài sản, đảm
bảo cho bên “nhờ đứng tên giùm” thực hiện
được mục đích của mình. Tuy nhiên, nếu
pháp luật hạn chế quyền của chủ sở hữu tài
sản nhằm đảm bảo cho giao dịch “đứng tên
giùm” được thực hiện thì bên cạnh điểm tích
cực là ý chí của các bên được tôn trọng, giao
dịch giữa các bên được thực hiện, nhưng,
như đã trình bày ở phần trên, nếu hạn chế
quyền của chủ sở hữu tài sản sẽ gây tác động
không tốt đến lưu thông dân sự của tài sản
và hiệu quả sử dụng của tài sản. Do đó, quy
định như vậy chỉ nên áp dụng đối với các
loại tài sản mà pháp luật không quan tâm
đến việc sử dụng hiệu quả loại tài sản này.
Trong trường hợp pháp luật coi trọng việc
sử dụng hiệu quả loại tài sản này vì có ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước thì không nên đặt ra ngoại lệ này.
Trong trường hợp giao dịch chưa
phát sinh hiệu lực, bên “đứng tên giùm”
thực hiện việc chuyển quyền sở hữu tài sản
“đứng tên giùm”, bên “nhờ đứng tên giùm”
không có quyền đòi tài sản từ người “đứng
tên giùm” và người nhận chuyển quyền sở
hữu tài sản “đứng tên giùm”. Trong trường
hợp này, người “nhờ đứng tên giùm” cũng
chỉ có quyền đòi lại số tiền đã chuyển cho
bên “đứng tên giùm” và được bồi thường
thiệt hại. Để đảm bảo cho việc thực hiện
giao dịch đứng tên giùm, pháp luật cũng có
thể cho phép người “nhờ đứng tên giùm”
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
59Số 19(371) T10/2018
được lựa chọn giữa việc đòi lại số tiền đã
chuyển cho bên “đứng tên giùm” và được
bồi thường thiệt hại với việc được hưởng giá
trị tài sản “đứng tên giùm”, trừ khi luật có
quy định cấm không cho người “nhờ đứng
tên giùm” được hưởng giá trị tài sản “đứng
tên giùm”.
- Đối với bên “đứng tên giùm” tài sản
và những người liên quan
Như trên đã trình bày, bên “đứng tên
giùm” chỉ đóng vai trò trung gian, mà không
phải với vai trò người được ủy quyền hay
người đại diện của người “nhờ đứng tên
giùm” nên trong giao dịch mua bán tài sản,
bên “đứng tên giùm” tham gia với tư cách
độc lập. Mặt khác, khi giao dịch “đứng tên
giùm” chưa có hiệu lực, bên “đứng tên giùm”
có quyền thực hiện quyền của chủ sở hữu đối
với tài sản “đứng tên giùm”. Nghĩa là trước
thời điểm người nhờ “đứng tên giùm” được
pháp luật cho phép sở hữu tài sản “đứng tên
giùm”, bên “đứng tên giùm” có quyền định
đoạt tài sản “đứng tên giùm” theo ý chí của
mình. Trong trường hợp người “đứng tên
giùm” đưa tài sản “đứng tên giùm” vào giao
dịch thì giao dịch này không thể bị vô hiệu
vì lý do đây là tài sản “đứng tên giùm”. Bên
liên quan (bên tham gia vào giao dịch này)
có quyền đối với tài sản “đứng tên giùm”
theo thỏa thuận với bên “đứng tên giùm “và
không phải trả lại tài sản “đứng tên giùm”
cho bên “nhờ đứng tên giùm”.
Trong trường hợp giao dịch “đứng tên
giùm” đã phát sinh hiệu lực thì người bên
“đứng tên giùm” không có quyền định đoạt
11 Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng cũng xem người “đứng tên giùm” có vai trò như là người trung gian trong quan
hệ với người “nhờ đứng tên giùm” tài sản (xem 3. 301 – 3.304 Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng; xem Đỗ Văn Đại
(2017), Luật Hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận bản án, tr. 752).
tài sản “đứng tên giùm”, có nghĩa vụ chuyển
giao tài sản “đứng tên giùm” cho bên “nhờ
đứng tên giùm” theo cam kết với bên “nhờ
đứng tên giùm”. Các giao dịch liên quan
đến tài sản “đứng tên giùm” bị vô hiệu, trừ
trường hợp bảo vệ người thứ ba ngay tình.
Trong trường hợp này, bên liên quan không
có quyền đối với tài sản “đứng tên giùm” và
phải trả lại tài sản “đứng tên giùm” cho bên
“nhờ đứng tên giùm”.
Từ những phân tích trên, chúng tôi
cho rằng, pháp luật hay án lệ cần quy định
về giao dịch “đứng tên giùm” theo hướng:
Một, không nên quy định cấm đối với
giao dịch “đứng tên giùm”, trừ trường hợp
“đứng tên giùm” đối với loại tài sản mà việc
lưu thông của loại tài sản này ảnh hưởng đến
hiệu quả của pháp luật.
Hai, pháp luật cần coi giao dịch “đứng
tên giùm” là giao dịch có điều kiện.
Ba, cần xác định “người đứng tên
giùm” đóng vai trò trung gian trong mối
quan hệ với người “nhờ đứng tên giùm” như
Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng quy
định về vấn đề này11.
Bốn, trong trường hợp giao dịch
“đứng tên giùm” chưa phát sinh hiệu lực, tài
sản đứng tên giùm thuộc sở hữu của người
“đứng tên giùm”. Người “nhờ đứng tên
giùm” chỉ có quyền đòi lại tài sản đã chuyển
giao cho bên “đứng tên giùm” và bồi thường
thiệt hại hoặc có quyền hưởng giá trị tài sản
“đứng tên giùm”, mà không có quyền đòi lại
tài sản “đứng tên giùm”■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
60 Số 19(371) T10/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_quyet_tranh_chap_lien_quan_den_giao_dich_dung_ten_gium.pdf