Với ưu thế vòng đời ngắn, dễ nuôi trong phòng thí nghiệm,
có thể cung cấp số lượng nhiều trong cùng một thời điểm, hệ
gen đã được giải trình tự toàn bộ và đã được chứng minh về
mức độ tương đồng tới 70% gen gây bệnh trên người, ruồi giấm
là mô hình thuận lợi và lý tưởng cho việc nghiên cứu bệnh liên
quan đến yếu tố di truyền. Với cấu trúc hệ thần kinh hoàn thiện
và chức năng hoàn toàn tương đồng trên người, ruồi giấm cũng
được sử dụng làm mô hình để nghiên cứu về các bệnh lý thần
kinh và vận động [12]. Trong nghiên cứu này, kết quả so sánh
mức độ tương đồng của gen ABCC4 ở người và ruồi giấm đã
cho thấy mức độ bảo tồn cao giữa các vùng chức năng của gen,
gợi ý về chức năng của protein là tương tự nhau cho mỗi loài.
Việc giảm biểu hiện của dABCC ở mô não đã gây nên một
loạt những thay đổi trong khả năng tương tác xã hội và nhịp
sinh học ở ruồi giấm. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng sử dụng
ruồi giấm làm sinh vật mô hình để chứng minh mối liên quan
giữa một số gen như dABCA13, rugose với hội chứng rối loạn
tự kỷ [3, 4, 13]. Ruồi giấm mang gen đột biến bị giảm khả năng
tương tác xã hội và thay đổi nhịp thức - ngủ. Cường độ hoạt
động của ruồi ở mức cao và kéo dài liên tục trong nhiều ngày.
Ngoài ra, ruồi giấm mang gen dABCA13 đột biến cũng có hiện
tượng khởi phát sớm đỉnh hoạt động ban đêm [3]. Kiểu hình
tương tự như ruồi giấm knockdown gen dABCC4 và tương tự
như triệu chứng rối loạn tự kỷ ở người.
Việc tổng hợp dữ liệu của nhiều nghiên cứu sử dụng mô
hình ruồi giấm biến đổi gen cho bệnh tự kỷ cũng góp phần xác
định được vai trò các nhóm gen liên quan, làm sáng tỏ cơ chế
phân tử của bệnh. Trong họ gen ABC ở người, gen ABCC có
vai trò vận chuyển nhiều loại cơ chất qua màng tế bào, trong
đó có lipid [7]. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, hệ thần kinh trung
ương là cơ quan tập trung hàm lượng lipid cao thứ hai, chỉ sau
các mô mỡ. Do đó, chức năng vận chuyển lipid qua màng tế
bào của ABCC đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định con
đường tín hiệu và duy trì cân bằng nội môi ở các tế bào trong
hệ thần kinh trung ương. Dựa trên sự tương đồng với động vật
bậc cao về cấu trúc gen và trình tự axit amin mã hoá, dABCC
ở ruồi giấm cũng được dự đoán là có vai trò vận chuyển lipid
qua màng tế bào và duy trì cân bằng nội môi. Việc giảm biểu
hiện của gen ở mô não là nguyên nhân gây nên sự thiếu hụt
chức năng của protein này, từ đó ảnh hưởng đến các con đường
truyền tin nội bào, hệ quả là làm giảm khả năng tương tác xã
hội và thay đổi nhịp sinh học ở ruồi giấm. Mô hình ruồi giấm
trong nghiên cứu này có thể tiếp tục được sử dụng để xác định
những thay đổi trong hình thái cấu trúc tế bào thần kinh, đánh
giá sự thay đổi ở mức độ phân tử, từ đó xác định các gen/nhóm
gen có khả năng tương tác với dABCC và liên quan đến rối loạn
tự kỷ ở người.
Kết luận
Nghiên cứu đã xây dựng được mô hình ruồi giấm biến đổi
gen ABCC và xác định được mối liên quan với các biểu hiện
của bệnh tự kỷ. Đây là những kết quả bước đầu góp phần làm
sáng tỏ vai trò của protein này trong cơ chế phân tử của bệnh,
đồng thời cung cấp một mô hình tiềm năng và kinh tế cho
nghiên cứu thử nghiệm và sàng lọc thuốc.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giảm biểu hiện gen ABCC4 (ATP-Binding cassette subfamily C) liên quan đến rối loạn tự kỷ trên mô hình ruồi giấm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4062(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Đặt vấn đề
Rối loạn phổ tự kỷ là một bệnh lý rối loạn về phát triển thần
kinh phức tạp ở trẻ em được giả thuyết do sự phơi nhiễm với
các chất độc hoặc do thay đổi về những yếu tố di truyền. Những
rối loạn về hành vi thường phát triển trong những năm đầu tiên
của cuộc đời. Đây là căn bệnh đang có xu hướng phát triển với
một tốc độ đáng báo động không chỉ ở Việt Nam mà còn trên
toàn thế giới [1]. Ở nước ta, nghiên cứu về bệnh chủ yếu tập
trung vào dịch tễ học, biểu hiện lâm sàng và các yếu tố nguy cơ,
trong khi các mô hình động vật thực nghiệm còn nhiều hạn chế.
Các protein có vai trò quan trọng liên quan đến con đường vận
chuyển và dự trữ năng lượng của tế bào thần kinh còn khá mới
mẻ và chưa được đầu tư nghiên cứu. Việc ứng dụng mô hình
ruồi giấm để nghiên cứu vai trò và chức năng của các protein
này, làm sáng tỏ cơ chế bệnh sinh là một hướng đi mới mẻ và
thiết thực.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu sử dụng ruồi giấm làm
sinh vật mô hình để mô phỏng bệnh lý rối loạn tự kỷ ở người
với mục tiêu xác định được tác động của các yếu tố về gen,
môi trường đến các hành vi, biểu hiện, khả năng vận động, khả
năng sống sót, các thay đổi về nhịp sinh học và biến đổi trong
cấu trúc thần kinh ruồi giấm [2-4]. Năm 2018, nghiên cứu của
Ueoka và cs [3] nhận thấy ở ruồi giấm có chứa gen CG1718
(nằm trên vùng 19F3 của nhiễm sắc thể X) có trình tự và chức
năng tương đồng như gen ABCA13 ở người. Do đó, nghiên cứu
hướng đến gen này trên ruồi và gọi tắt là Drosophila ABCA13
(dABCA13). Kết quả của việc giảm biểu hiện (knockdown) gen
dABCA13 tại mô não của ruồi giấm cho thấy sự giảm tương
tác rõ rệt giữa các cá thể trong quần thể, ruồi bị rối loạn nhịp
thức - ngủ và cấu trúc thần kinh cơ bị biến đổi thể hiện rõ nhất
ở các nút thần kinh. Kiểu hình ghi nhận được trên mô hình này
tương tự như triệu chứng rối loạn tự kỷ ở người. Bên cạnh đó,
đột biến gen ABCA13 cũng đã được chứng minh là có liên quan
đến rối loạn tự kỷ trên khỉ [5]. Bên cạnh ABCA13, gen ABCC4
cũng là một thành viên thuộc họ gen ABC - mã hoá cho protein
có cấu trúc tương tự như protein ABCA13 gồm 2 vùng xuyên
màng (membrane spanning domain - MSD) MSD1 và MSD2,
mỗi vùng chứa 6 chuỗi helix, 2 vùng gắn nucleotide (NBD1
và NBD2) và vùng N-tận với khoảng 12 axit amin với nhiều
chức năng như vận chuyển các chất qua màng tế bào (bao gồm
lipid, ion, các phân tử thuốc), thụ thể trên bề mặt tế bào và bài
tiết độc tố. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra vai trò của nó trong việc
điều hoà cân bằng nội môi và truyền tin nội bào, điều khiển quá
trình lão hoá của tế bào tuỷ xương và tuyến ức [6]. Ngoài ra,
protein này còn đóng vai trò trong sinh bệnh học khối u (u xơ
Giảm biểu hiện gen ABCC4 (ATP-binding
cassette subfamily C) liên quan đến rối loạn
tự kỷ trên mô hình ruồi giấm
Trần Quốc Đạt*, Nguyễn Trọng Tuệ
Trường Đại học Y Hà Nội
Ngày nhận bài 3/2/2020; ngày chuyển phản biện 12/2/2020; ngày nhận phản biện 27/3/2020; ngày chấp nhận đăng 14/4/2020
Tóm tắt:
Rối loạn phổ tự kỷ là tình trạng rối loạn thần kinh phức tạp, bao gồm những khiếm khuyết trong tương tác xã hội,
phát triển ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp kết hợp với hành vi cứng nhắc, lặp đi lặp lạị. Việc nghiên cứu bệnh ở mức
độ phân tử và tế bào gặp nhiều khó khăn bởi tính phức tạp trong việc lựa chọn, xây dựng mô hình thực nghiệm. Hầu
hết các nghiên cứu cơ bản đều dừng lại ở mức độ in vitro, tập trung vào việc phát hiện đột biến gen được cho là liên
quan đến bệnh mà chưa đi sâu vào nghiên cứu ở mức độ in vivo. Ruồi giấm đã có lịch sử nghiên cứu hơn 100 năm,
với bộ gen nhỏ nhưng lại có mức tương đồng với gen người khá cao, cho thấy đây là một mô hình di truyền vô cùng
ưu việt. Do đó, nghiên cứu này đặt ra mục tiêu xây dựng mô hình ruồi giấm biến đổi gen ABCC4 và nghiên cứu sự
thiếu hụt của gen này với biểu hiện đặc trưng của bệnh tự kỷ. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy sự tương tác giữa các
cá thể trong quần thể giảm mạnh giữa nhóm mang gen bệnh và nhóm chứng. Ruồi biến đổi gen ABCC4 bị rối loạn
nhịp thức - ngủ so với con có kiểu gen ABCC hoang dại. Các biểu hiện ghi nhận được tương tự như triệu chứng rối
loạn tự kỷ ở người. Đây là những kết quả bước đầu góp phần làm sáng tỏ vai trò của protein này trong cơ chế phân
tử của bệnh tự kỷ.
Từ khóa: ABCC, rối loạn phổ tự kỷ, ruồi giấm.
Chỉ số phân loại: 3.5
*Tác giả liên hệ: Email: tranquocdat.hus@gmail.com
4162(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
nang, u não) và một số bệnh thoái hoá thần kinh (Parkinson,
Alzheimer) [7, 8].
Mặc dù tương đồng về cấu trúc và chức năng với ABCA13
nhưng vai trò của ABCC4 đối với hệ thần kinh và ảnh hưởng
đến rối loạn tự kỷ lại chưa được biết đến và cũng chưa có một
nghiên cứu nào trên mô hình động vật xác định được vai trò
sinh bệnh học của gen này [3-5]. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này với hai mục tiêu chính: (1) knockdown
gen dABCC4 trên mô não của ruồi giấm sử dụng hệ thống
GAL4/UAS và (2) phân tích các biểu hiện hành vi trên ruồi
knockdown ABCC4 trong mối liên quan đến bệnh tự kỷ. Đây
là hướng nghiên cứu hoàn toàn mới, góp phần làm sáng tỏ vai
trò của gen này trong cơ chế phân tử của bệnh, đồng thời cung
cấp một mô hình tiềm năng và kinh tế cho những nghiên cứu
thử nghiệm và sàng lọc thuốc.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng các dòng ruồi giấm chuyển gen thu
thập từ các trung tâm lưu trữ lớn trên thế giới như Vienna
Stock Center, Italy và Bloomington Drosophila Stock Center
- Indiana, USA. Trong đó bao gồm:
- w; +; elav-GAL4 (mã số #8760 - Bloomington Stock
Center): dòng driver định hướng biểu hiện protein GAL4 tại
mô não ruồi giấm.
- w; UAS-GFP-IR; + (mã số #56179 - Vienna Stock Center):
biểu hiện dsRNA của gen GFP.
- w; UAS-dABCC-IR
63-155
; + (mã số CG7627/v2808 -
Vienna Stock Center): biểu hiện dsRNA của gen ABCC4 trên
ruồi giấm, mã hoá cho protein dABCC4 bị phân giải từ axit
amin thứ 63 đến axit amin thứ 155.
Ruồi giấm được nuôi trong môi trường thức ăn cơ bản (bao
gồm 0,65% agarose, 10% glucose, 4% nấm men, 5% bột ngô
và 3% bột cám gạo) và trong điều kiện nhiệt độ 25oC, thời gian
chiếu sáng chu kỳ 12 giờ sáng: 12 giờ tối.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng sử dụng: kháng thể đặc hiệu
cho protein dABCC4 (rabbit anti-ABCC4 - Sigma-Aldrich);
kháng thể đặc hiệu cho protein α-tubulin (rabbit anti-tubulin -
Thermo Scientific) và Protein G Mag SepharoseTM Xtra (GE
Healthcare) để tinh sạch kháng thể; các hoá chất và thiết bị
dùng trong sinh học phân tử.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lai tạo dòng ruồi giấm knockdown biểu hiện
dABCC4 tại mô não của ruồi: để knockdown gen ABCC4 tại
các tế bào thần kinh trong mô não của ruồi giấm, chúng tôi sử
dụng hệ thống biểu hiện elav-GAL4/UAS. Trong đó, elav là
promoter điều khiển sự biểu hiện cho protein GAL4 tại các tế
bào thần kinh trên não; protein GAL4 sẽ bám vào vùng trình
tự UAS trên phức hệ gen UAS-dABCC4-IR và kích hoạt quá
trình tạo ra sợi RNA dABCC4 mang trình tự lặp lại ngược chiều
Reduction of the ATP-binding
cassette sub-family C member 4
(ABCC4) related to the expression
of autism spectrum disorder
on Drosophila melanogaster model
Quoc Dat Tran*, Trong Tue Nguyen
Hanoi Medical University
Received 3 February 2020; accepted 14 April 2020
Abstract:
Autism spectrum disorders (ASDs) are complex
neurodevelopmental disabilities that have core
diagnostic features including impaired social interaction,
language development, and interpersonal skills with
repetitive and restrictive behaviors. Researching this
type of disorder in terms of the molecular and cellular
mechanism has met many difficulties because of the
complexity in choosing and creating an experimental
model organism. In Vietnam, most of the studies have
focused on identifying the mutation relating to ASDs
at in vitro level without any in-depth study at in vivo
level. Drosophila melanogaster has been widely used as
an advantaged model organism in classical and modern
genetics for more than 100 years because its genome was
small and simple but having homologues for at least 75%
of human disease genes, thereby indicating that this has
been an extremely excellent genetic model. Therefore,
this study aimed to elucidate the physiological role of the
ABCC4 gene mutant Drosophila model by specifically
knocked down this protein in all neurons of these flies
and investigated the deficiency of this gene in terms of
autism features. The result exhibited that the interaction
between individuals in the population was sharply
reduced between the gene mutant carrier group and
the control group. The knockdown of dABCC4 protein
in all neurons induced early onset of evening activity
and hyperactivity during morning peaks and evening
peaks. The ABCC4 genetically modified flies had a
rhythm sleep disorder compared to the wild-type flies
(ABCC genes). These phenotypes were similar to defects
observed in humans with autism spectrum disorder.
These preliminary results have contributed to elucidate
the role of this protein in the molecular mechanism of
the autism.
Keywords: ABCC, autism spectrum disorder, Drosophila.
Classification number: 3.5
4262(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
nhau, sợi RNA này sẽ hình thành cấu trúc sợi đôi dạng “kẹp
tóc”. Từ đó, hoạt hoá con đường RNAi để knockdown gen
dABCC4 tại các tế bào thần kinh ở thế hệ con lai F1.
Cách thực hiện: chúng tôi tiến hành lai theo sơ đồ hình 1.
Hình 1. Sơ đồ mô tả quá trình lai tạo các dòng ruồi giấm trong nghiên cứu và cơ chế
hoạt động của các thành phần trong con lai F1.
Phương pháp đánh giá biểu hiện của protein ABCC4 tại mô não ruồi giấm bằng
kỹ thuật Western Blotting: dòng ruồi giấm sau khi lai tạo sẽ được tiến hành đánh giá
hiệu quả knockdown protein trên mô não bằng kỹ thuật Western Blotting, sử dụng
kháng thể đặc hiệu với protein ABCC4. Alpha-tubulin được sử dụng như chứng nội
kiểm.
Phương pháp đánh giá khả năng vận động của ruồi giấm trưởng thành
(Climbing assay): thí nghiệm dựa trên tập tính leo trèo ngược chiều trọng lực khi có
lực tác động cùng chiều trọng lực của ruồi giấm [9]. Dựa trên nguyên tắc này, khi ruồi
biến đổi gen bị ảnh hưởng đến khả năng vận động sẽ bị ảnh hưởng tới khả năng leo
trèo của chúng. Do ruồi cái bị ảnh hưởng bởi quá trình mang thai và đẻ trứng nên toàn
bộ các thí nghiệm được tiến hành trên ruồi đực để đảm bảo tính ổn định. Các thí
nghiệm được tiến hành song song giữa nhóm bệnh (knockdown gen ABCC4) và nhóm
chứng (knockdown gen GFP).
- Ruồi giấm được lựa chọn làm thí nghiệm sẽ được gây mê bằng CO2, sau đó
chuyển vào ống thủy tinh (15-20 con/ống) có chia vạch từ 1 đến 5, mỗi vạch cách nhau
2 cm. Để 10 phút cho ruồi ổn định, dùng tay đập mạnh liên tục 5 lần để đưa ruồi về
đáy ống thủy tinh (về cùng vạch xuất phát). Cho ruồi bò lên trong 30 s, ghi lại bằng
camera, lặp lại động tác 5 lần.
- Sử dụng dữ liệu video ghi được tại 5 s đầu tiên sau khi kết thúc mỗi lần đập để
phân tích, so sánh khả năng leo trèo của ruồi ở các nhóm thí nghiệm.
Promoter
elav
Gen
GAL4
Trình tự
UAS
Đoạn trình tự lặp
đảo của gen GFP
Promoter
elav
Gen
GAL4
Trình tự
UAS
Đoạn trình tự lặp
đảo của gen
dABCC4
dABCC4
Hì h 1. Sơ đồ mô tả quá trì h lai tạo các dòng ruồi giấm trong
nghiên cứu và cơ chế hoạt động của các thành phần trong con
lai F1.
Phương pháp đánh giá biểu hiện của protein ABCC4 tại mô
não ruồi giấm bằng kỹ thuật Western Blotting: dòng ruồi giấm
sau khi lai tạo sẽ được tiến hành đánh giá hiệu quả knockdown
protein trên mô não bằng kỹ thuật Western Blotting, sử dụng
kháng thể đặc hiệu với protein ABCC4. Alpha-tubulin được sử
dụng hư chứng nội kiểm.
Phươ g p áp đánh g á khả năng vậ động của ruồi giấm
trưởng thành (Climbing assay): thí nghiệm dựa trên tập tính leo
trèo ngược chiều trọng lực khi có lực tác động cùng chiều trọng
lực của ruồi giấm [9]. Dựa trên nguyên tắc này, khi ruồi biến
đổi gen bị ảnh hưởng đến khả năng vận động sẽ bị ảnh hưởng
tới khả năng leo trèo của chúng. Do ruồi cái bị ảnh hưởng bởi
quá trình mang thai và đẻ trứng nên toàn bộ các thí nghiệm
được tiến hành trên ruồi đực để đảm bảo tính ổn định. Các thí
nghiệm được tiến hành song song giữa nhóm bệnh (knockdown
gen ABCC4) và nhóm chứng (knockdown gen GFP).
- Ruồi giấm được lựa chọn làm thí nghiệm sẽ được gây mê
bằng CO
2
, sau đó chuyển vào ống thủy tinh (15-20 con/ống)
có chia vạch từ 1 đến 5, mỗi vạch cách nhau 2 cm. Để 10 phút
cho ruồi ổn định, dùng tay đập mạnh liên tục 5 lần để đưa ruồi
về đáy ống thủy tinh (về cùng vạch xuất phát). Cho ruồi bò lên
trong 30 s, ghi lại bằng camera, lặp lại động tác 5 lần.
- Sử dụng dữ liệu video ghi được tại 5 s đầu tiên sau khi kết
thúc mỗi lần đập để phân tích, so sánh khả năng leo trèo của
ruồi ở các nhóm thí nghiệm.
- Các số liệu được xử lý bằng phần mềm Image-J và thống
kê bằng Excel và SPSS.
Phương pháp đánh giá khả năng tương tác cộng đồng
(social space assay): phương pháp dựa theo mô tả trong nghiên
cứu của Simon và cs [10]; sử dụng một buồng thí nghiệm hình
tam giác cân nằm trong hai tấm kính vuông (18x18 cm), cách
nhau bằng một tấm đệm acrylic 0,5 cm cho phép ruồi hoạt động
trong không gian hai chiều. Thí nghiệm chỉ sử dụng ruồi đực
trưởng thành ở giai đoạn 3-4 ngày tuổi để đảm bảo tính ổn
định. Ruồi đực knockdown gen GFP được lựa chọn làm nhóm
chứng.
Chọn ngẫu nhiên 40 ruồi đực mỗi nhóm, đem gây mê và
chuyển vào buồng thí nghiệm, đợi chúng tỉnh lại. Đập nhẹ
buồng thí nghiệm đảm bảo toàn bộ ruồi ở đáy buồng. Cho ruồi
tự do vận động, giao tiếp với nhau trong 20 s. Quá trình này
được ghi lại bằng camera. Sau đó phân tích khoảng cách gần
nhất giữa các cá thể ruồi bằng phần mềm Image-J.
Phương pháp đánh giá nhịp sinh học của ruồi giấm (activity
assay): ruồi giấm trưởng thành được nuôi trong điều kiện nhiệt
độ 25oC, chu kỳ sáng tối cách nhau 12 giờ trước khi sử dụng
cho thử nghiệm đánh giá nhịp thức ngủ [11]. Mỗi cá thể ruồi
trưởng thành được cho vào một ống thuỷ tinh đường kính 5 mm
với một đầu có chứa thức ăn và đặt trong một thiết bị đo chuyên
dụng. Toàn bộ hoạt động của ruồi được ghi nhận 24/24 h liên
tục trong vòng 7-10 ngày nhờ thiết bị cảm biến kết nối với máy
tính. Qua đó có thể đo được thời gian và cường độ hoạt động
ban ngày/ban đêm của ruồi nhóm bệnh so với nhóm chứng.
Phân tích kết quả: kết quả của thử nghiệm tương tác cộng
đồng, thử nghiệm đánh giá khả năng vận động, đánh giá nhịp
sinh học của ruồi giấm, được xử lý bằng phần mềm phân tích
hình ảnh Image-J, sau đó phân tích thống kê bằng phần mềm
SPSS. Giá trị p được tính toán sử dụng Kruskal-Wallis test.
Kết quả
Mức độ tương đồng giữa protein ABCC4 của người và
protein CG7627 ở ruồi giấm
Trình tự axit amin của protein CG7627 ở ruồi giấm được
trích xuất từ cơ sở dữ liệu UniProt (mã số Q9VLN6) và so
sánh với trình tự của các thành viên trong họ protein ABCC
ở người, sử dụng công cụ FASTA và BLAST. Kết quả so sánh
cho thấy, giữa protein CG7627 ở ruồi giấm và protein ABCC4
ở người có tỷ lệ tương đồng (identity) là 44% và mức độ giống
nhau (similarity) là 63%, cao nhất trong số các thành viên
khác thuộc họ protein ABCC. Kết quả so sánh cũng cho thấy
mức độ tương đồng về cấu trúc protein ABCC4 giữa người và
ruồi giấm với hai vùng xuyên màng (TMD) và hai vùng bám
nucleotid (NBD). Các vùng chức năng này ở cả hai loài cũng
được xác định với tỷ lệ tương đồng cao (TMD1 và TMD2 có tỷ
lệ tương đồng lần lượt là 72 và 81%. Tỷ lệ này ở vùng NBD1
và NBD2 lần lượt là 87,5 và 100%).
4362(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Knockdown protein ABCC4 tại mô não ruồi giấm
Chủng ruồi giấm sau khi lai tạo sẽ được tiến hành đánh giá
hiệu quả knockdown protein trên mô não bằng kỹ thuật Western
Blotting, sử dụng kháng thể đặc hiệu với protein dABCC4.
Hình 2. Kết quả Western Blotting đánh giá mức độ biểu hiện
của protein dABCC4 ở mô não của ruồi giấm nhóm bệnh lý
(knockdown) và nhóm đối chứng (control).
Kết quả cho thấy, xuất hiện băng protein kích thước 150
kDa tương ứng với trọng lượng phân tử của protein dABCC4
ở nhóm knockdown w/Y;UAS-dABCC-IR
63-155
;elav-GAL4 với
cường độ thấp hơn so với băng protein cùng kích thước ở nhóm
chứng w/Y;UAS-GFP-IR; elav-GAL4 (hình 2). Điều này chứng
tỏ mức độ biểu hiện của protein dABCC4 tại mô não của ruồi
giấm ở nhóm knockdown giảm đáng kể so với nhóm chứng,
khẳng định hiệu suất của quá trình knockdown và tính đặc hiệu
của kháng thể. Ngoài việc sử dụng kháng thể bậc 1 đặc hiệu
cho protein đích dABCC4, nghiên cứu cũng sử dụng kháng thể
đặc hiệu cho alpha-tubulin làm đối chứng cho lượng protein
đưa vào ở từng mẫu thí nghiệm.
Khả năng vận động và tương tác cộng đồng
Hình 2. Kết quả Western Blotting đánh giá mức độ biểu hiện của protein dABCCC4 ở
mô não của ruồi giấm nhóm bệnh lý (knockdown) và n óm đối chứng (control).
Kết quả cho thấy, xuất hiện băng protein kích thước 150 kDa tương ứng với
trọng lượng phân tử của protein dABCC4 ở nhóm knockdown w/Y;UAS-dABCC-IR63-
155;elav-GAL4 với cường độ thấp hơn so với băng protein cùng kích thước ở nhóm
chứng w/Y;UAS-GFP-IR; elav-GAL4 (hình 2). Điều này chứng tỏ mức độ biểu hiện
của protein dABCC4 tại mô não của ruồi giấm ở nhóm knockdown giảm đáng kể so
với nhóm chứng, khẳng định hiệu suất của quá trình knockdown và tính đặc hiệu của
kháng thể. Ngoài việc sử dụng kháng thể bậc 1 đặc hiệu cho protein đích dABCC4,
nghiên cứu cũng sử dụng kháng thể đặc hiệu cho alpha-tubulin làm đối chứng cho
lượng protein đưa vào ở từng mẫu thí nghiệm.
Khả năng vận động và tương tác cộng đồng
K
h
oả
n
g
cá
ch
đ
ến
c
on
g
ần
n
h
ất
(
cm
)
(A) (B)
Hình 3. Thử nghiệm hành vi tương tác cộng đồng trên ruồi giấm
trưởng thành.
(A) Phân bố của quần thể ruồi trong không gian. (B) Kết quả phân tích khoảng
cách tương tác không gian của ruồi giấm giữa nhóm bệnh knockdown dABCC4
(elav>dABCC-IR63-155) và nhóm chứng knockdown GFP (elav>GFP-IR) (n=40);
***: p<0,01.
Kết quả cho thấy, ruồi giấm knockdown gen dABCC4 có
mức độ tương tác với quần thể giảm rõ rệt (hình 3). Trên
80% cá thể ruồi giấm ở nhóm bệnh có khoảng cách đến con
gần nhất trên 1,5 cm, trong khi ở nhóm chứng chỉ là dưới 0,5
cm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Bên cạnh
đó, nghiên cứu cũng tiến hành thử nghiệm leo trèo (climbing
assay) trên chính quần thể ruồi này để khẳng định rằng: sự
phân bố ngẫu nhiên rải rác trong không gian của ruồi giấm
ở nhóm knockdown không phụ thuộc vào sự thay đổi trong
khả năng vận động của chúng. Ruồi được đánh giá tại các
thời điểm 3, 7 và 14 ngày tuổi. Kết quả thu được cho thấy,
khả năng vận động của nhóm ruồi bệnh lý knockdown gen
dABCC4 và nhóm chứng knockdown gen GFP là tương
đương nhau (hình 4). Do vậy, khả năng leo trèo không ảnh
hưởng đến mức độ tương tác và phân bố của quần thể ruồi
trong không gian.
Hình 4. Kết quả thử nghiệm leo trèo xác định khả năng vận động
của ruồi giấm trưởng thành ở thời điểm 3 ngày tuổi, 7 ngày tuổi
và 14 ngày tuổi.
Kết quả không có sự khác biệt giữa nhóm ruồi bệnh lý knockdown dABCC4 và
nhóm chứng knockdown GFP (n=40).
Kết quả xác định nhịp sinh học của ruồi giấm
Một trong những yếu tố chẩn đoán cốt lõi của rối loạn tự
kỷ là những thay đổi trong nhịp sinh học, bao gồm tổng thời
gian hoạt động trong ngày, thời gian thức và ngủ. Để đánh
giá tác động của việc knockdown gen dABCC lên nhịp sinh
học ở ruồi giấm, nghiên cứu tiến hành theo dõi hoạt động
thức - ngủ của 40 cá thể ở nhóm bệnh và nhóm chứng. Ruồi
giấm ở cả hai nhóm được lựa chọn ở thời điểm 3-4 ngày tuổi,
được nuôi trong môi trường thức ăn cơ bản, nhiệt độ 25oC,
độ ẩm 60% và dưới điều kiện chiếu sáng 12 giờ sáng: 12 giờ
tối trong tối thiểu 2 ngày, sau đó, mỗi cá thể được đưa vào 1
ống thuỷ tinh trong suốt đường kính 5 mm và đặt vào thiết bị
đo có gắn cảm biến kết nối với máy tính. Thí nghiệm được
tiến hành trong vòng 7 ngày. Tần suất hoạt động của ruồi tại
mỗi khoảng thời gian được ghi nhận là số lần ruồi di chuyển
qua đèn laser cảm biến. Kết quả được thống kê và phân tích
bằng Microsoft Excel.
Hình 3. Thử nghiệm hành vi tương tác cộng đồng trên ruồi giấm trưởng thành.
(A) Phân bố của quần thể ruồi trong không gian. (B) Kết quả phân tích khoảng cách tương tác
không gian của ruồi giấm giữa nhóm bệnh knockdown dABCC4 (elav>dABCC-IR63-155) và
nhóm chứng knockdown GFP (elav>GFP-IR) (n=40); ***:p<0,01.
Kết quả cho thấy, ruồi giấm knockdown gen dABCC4 có mức độ tương tá với
quần thể giảm rõ rệt (hình 3). Trên 80% á thể ruồi giấm ở nhóm bệnh có khoảng cách
đến con gần nhất trên 1,5 cm, trong khi ở nhóm chứng chỉ l dưới 0,5 cm. Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với <0,01. Bên cạn đó, nghiên cứu cũng tiến hành thử ngh ệ
leo trèo (climbing assay) trên chính quần thể ruồi ày để k ẳng định rằng: sự phân bố
ngẫu nhiên rải rác trong khô g ian của ruồi giấm ở nhóm knockdown không phụ
thuộc vào sự thay đổi trong khả năng vận động của chúng. Ruồi được ánh giá tại các
thời điểm 3, 7 và 14 ngày tuổi. Kết quả thu được cho thấy, khả năng vận động của
nhóm ruồi bệnh lý knockdown gen dABCC4 và nhóm chứng k ockdown gen GFP là
tương đương nhau (hình 4). Do vậy, k ả năng le trèo không ảnh hưởng đến mức độ
tương tác và phân bố của quầ thể ruồi trong khô gian.
Hình 4. Kế quả thử nghiệm leo trèo xác định khả năng vận động của ruồi giấm trưởng
thành ở thời điểm 3 ngày tuổi, 7 ngày tuổi và 14 ngày tuổi.
Kết quả không có sự khác biệt giữa nhóm ruồi bệnh lý knockdown dABCC4 và nhóm chứng
knockdown GFP (n=40).
Kết quả xác đị h nhịp sinh học của ruồi giấm
Một trong những yếu tố chẩn đoán cốt lõi của rối loạn tự kỷ là những thay đổi
trong nhịp sinh học bao gồm tổng thời gian hoạt động trong ngày, thời gian thức và
ngủ. Để đánh giá tác động của việc k ockdow gen dABCC lên nhịp si h học ở ruồi
giấm, nghiên cứu tiến hành theo dõi hoạt động thứ - ngủ của 40 cá thể ở hóm bệ
và nhóm chứng. Ruồi giấm ở cả hai nhóm được lựa chọn ở thời điểm 3-4 ngày tuổi,
được nuôi trong môi trường thức ăn cơ bản, nhiệt độ 25oC, độ ẩm 60% và dưới điều
kiện chiếu sáng 12 giờ sáng: 12 giờ tối trong tối thiểu 2 ngày, sau đó, mỗi cá thể được
đưa vào 1 ống thuỷ tinh trong suốt đường kính 5 mm và đặt vào thiết bị đo có gắn cảm
biến kết nối với máy tính. Thí nghiệm được tiến hành trong vòng 7 ngày. Tần suất hoạt
động của ruồi tại mỗi khoảng thời gian được ghi nhận là số lần ruồi di chuyển qua đèn
laser cảm biến. Kết quả được thống kê và phân tích bằng Microsoft Excel.
Ngày 3 Ngày 7 Ngày 14
C
h
ỉ
số
v
ậ
n
đ
ộ
n
g
4462(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Kết quả xác định nhịp sinh học của ruồi giấm cho thấy,
ruồi hoạt động chủ yếu vào hai thời điểm trong ngày tương
ứng với hai đỉnh có cường độ tín hiệu cao nhất (hình 5). Thời
điểm từ 8-10 h là đỉnh hoạt động ban ngày (morning peak) và
thời điểm từ 20h30-21h30 là đỉnh hoạt động ban đêm (evening
peak). Theo đó, thời gian ngủ ban ngày (midday siesta) được
tính là khoảng thời gian giữa hai đỉnh trong cùng một ngày
còn thời gian ngủ ban đêm (nighttime sleep) được tính từ đỉnh
hoạt động ban đêm của ngày hôm trước đến đỉnh hoạt động
ban ngày của ngày hôm sau. Tiến hành so sánh và phân tích
cường độ hoạt động của ruồi trong một ngày nhận thấy ruồi
giấm knockdown dABCC4 có xu hướng hoạt động nhiều hơn,
thời gian ngủ ban ngày và thời gian ngủ ban đêm cũng dài hơn
so với nhóm chứng (hình 6). Ngoài ra, ở nhóm ruồi bị biến đổi
gen dABCC4 tại mô não còn có hiện tượng khởi phát sớm đỉnh
hoạt động ban đêm. Cụ thể, đỉnh hoạt động ban đêm ở nhóm
ruồi bệnh lý khởi phát từ thời điểm 18h30 thay vì 20h30 như
nhóm ruồi đối chứng.
Hình 5. Kết quả xác định nhịp sinh học của ruồi giấm. Trục hoành biểu thị các mốc thời
gian trong một ngày. Trục tung biểu thị cường độ hoạt động của ruồi.
elav-GAL4/+; UAS-dABCC-IR63-155: ruồi knockdown dABCC4
elav-GAL4/+ ; UAS-GFP-IR: ruồi knowdown protein GFP làm đối chứng.
Kết quả xác định nhịp sinh học của ruồi giấm cho thấy, ruồi hoạt động chủ yếu
vào hai thời điểm trong ngày tương ứng với hai đỉnh có cường độ tín hiệu cao nhất
(hình 5). Thời điểm từ 8-10 h là đỉnh hoạt động ban ngày (morning peak) và thời điểm
từ 20h30-21h30 là đỉnh hoạt động ban đêm (evening peak). Theo đó, thời gian ngủ ban
ngày (midday siesta) được tính là khoảng thời gian giữa hai đỉnh trong cùng một ngày
còn thời gian ngủ ban đêm (nighttime sleep) được tính từ đỉnh hoạt động ban đêm của
ngày hôm trước đến đỉnh hoạt động ban ngày của ngày hôm sau. Tiến hành so sánh và
phân tích cường độ hoạt động của ruồi trong một ngày nhận thấy ruồi giấm
knockdown dABCC4 có xu hướng hoạt động nhiều hơn, thời gian ngủ ban ngày và
thời gian ngủ ban đêm cũng dài hơn so với nhóm chứng (hình 6). Ngoài ra, ở nhóm
ruồi bị biến đổi gen dABCC4 tại mô não còn có hiện tượng khởi phát sớm đỉnh hoạt
động ban đêm. Cụ thể, đỉnh hoạt động ban đêm ở nhóm ruồi bệnh lý khởi phát từ thời
điểm 18h30 thay vì 20h30 như nhóm ruồi đối chứng.
Đỉnh hoạt động
ban ngày
Đỉnh hoạt động
ban đêm
Thời gian ngủ
ban đêm Thời gian ngủ
ban ngày
elav-GAL4/+; UAS-GFP-IR (control) elav-GAL4/+ ;UAS-dABCC-IR63-155 (knockdown)
Cư
ờ
ng
độ
h
oạ
t đ
ộ
ng
Cư
ờ
ng
độ
h
oạ
t đ
ộ
ng
Hình 6. Kết quả phân tích nhịp thức - ngủ ở ruồi giấm bao gồm cường độ hoạt động ban
ngày (A), ban đêm (B); thời gian ngủ ban ngày (C), ban đêm (D) và tổng thời gian hoạt
động trong một ngày (E) giữa dòng ruồi knockdown mang kiểu gen w/Y; UAS-dABCC-
IR63-155; elav-GAL4/+ và dòng đối chứng w/Y; UAS-GFP-IR; elav-GAL4/+.
*:p<0,05; **:p<0,01.
Bàn luận
Với ưu thế vòng đời ngắn, dễ nuôi trong phòng thí nghiệm, có thể cung cấp số
lượng nhiều trong cùng một thời điểm, hệ gen đã được giải trình tự toàn bộ và đã được
chứng minh về mức độ tương đồng tới 70% gen gây bệnh trên người, ruồi giấm là mô
hình thuận lợi và l ý tưởng cho việc nghiên cứu bệnh liên quan đến yếu tố di truyền.
Với cấu trúc hệ thần kinh hoàn thiện và chức năng hoàn toàn tương đồng trên người,
ruồi giấm cũng được sử dụng làm mô hình để nghiên cứu về các bệnh lý thần kinh và
vận động [12]. Trong nghiên cứu này, kết quả so sánh mức độ tương đồng của gen
ABCC4 ở người và ruồi giấm đã cho thấy mức độ bảo tồn cao giữa các vùng chức
năng của gen, gợi ý về chức năng của protein là tương tự nhau cho mỗi loài.
Việc giảm biểu hiện của dABCC ở mô não đã gây nên một loạt những thay đổi
trong khả năng tương tác xã hội và nhịp sinh học ở ruồi giấm. Nhiều nghiên cứu trước
đây cũng sử dụng ruồi giấm làm sinh vật mô hình để chứng minh mối liên quan giữa
một số gen như dABCA13, rugose với hội chứng rối loạn tự kỷ [3, 4, 13]. Ruồi giấm
mang gen đột biến bị giảm khả năng tương tác xã hội và thay đổi nhịp thức - ngủ.
Cường độ hoạt động của ruồi ở mức cao và kéo dài liên tục trong nhiều ngày. Ngoài
ra, ruồi giấm mang gen dABCA13 đột biến cũng có hiện tượng khởi phát sớm đỉnh
hoạt động ban đêm [3]. Kiểu hình tương tự như ruồi giấm knockdown gen dABCC4 và
tương tự như triệu chứng rối loạn tự kỷ ở người.
Việc tổng hợp dữ liệu của nhiều nghiên cứu sử dụng mô hình ruồi giấm biến đổi
gen cho bệnh tự kỷ cũng góp phần xác định được vai trò các nhóm gen liên quan, làm
sáng tỏ cơ chế phân tử của bệnh. Trong họ gen ABC ở người, gen ABCC có vai trò vận
chuyển nhiều loại cơ chất qua màng tế bào, trong đó có lipid [7]. Nhiều nghiên cứu đã
chỉ ra, hệ thần kinh trung ương là cơ quan tập trung hàm lượng lipid cao thứ hai, chỉ
0
50
100
150
200
250
** **
**
*
*
**
0
100
200
300
400
500
600
** **
**
*
*
**
0
50
100
150
200
250
300 **
**
**
** **
** **
**
0
50
100
150
200
250
300 **
**
**
** **
**
0
200
400
600
800
1000
1200
Ngày 1 Ngày 2 Ngày 3 Ngày 4 Ngày 5 Ngày 6 Ngày 7 Ngày 8
Tổng cường độ hoạt động trong một ngày
elav-GAL4/+; UAS-GFP-IR elav-GAL4/+ ;UAS-dABCC-IR63-155
** **
**
**
*
(A) (C) (D)
(E)
Cường độ hoạt độ g
ban ngày
(B) Cường độ hoạt động
ban đêm
Thời gian ngủ
ban ngày
Thời gian ngủ
ban đêm
Hình 5. Kết quả xác định nhịp sinh học của ruồi giấm. Trục hoành biểu thị các mốc thời gian trong một ngày. Trục tung biểu thị cường
độ hoạt động của ruồi.
elav-GAL4/+; UAS-dABCC-IR63-155: ruồi knockdown dABCC4
elav-GAL4/+ ; UAS-GFP-IR: ruồi knowdown protein GFP làm đối chứng.
Hình 6. Kết quả phân tích nhịp thức - ngủ ở ruồi giấm bao gồm cường độ hoạt động ban ngày (A), ban đêm (B); thời gian ngủ ban ngày
(C), ban đêm (D) và tổng thời gian hoạt động trong một ngày (E) giữa dòng ruồi knockdown mang kiểu gen w/Y; UAS-dABCC-IR63-155;
elav-GAL4/+ và dòng đối chứng w/Y; UAS-GFP-IR; elav-GAL4/+.
*: p<0,05; **: p<0,01.
4562(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Bàn luận
Với ưu thế vòng đời ngắn, dễ nuôi trong phòng thí nghiệm,
có thể cung cấp số lượng nhiều trong cùng một thời điểm, hệ
gen đã được giải trình tự toàn bộ và đã được chứng minh về
mức độ tương đồng tới 70% gen gây bệnh trên người, ruồi giấm
là mô hình thuận lợi và lý tưởng cho việc nghiên cứu bệnh liên
quan đến yếu tố di truyền. Với cấu trúc hệ thần kinh hoàn thiện
và chức năng hoàn toàn tương đồng trên người, ruồi giấm cũng
được sử dụng làm mô hình để nghiên cứu về các bệnh lý thần
kinh và vận động [12]. Trong nghiên cứu này, kết quả so sánh
mức độ tương đồng của gen ABCC4 ở người và ruồi giấm đã
cho thấy mức độ bảo tồn cao giữa các vùng chức năng của gen,
gợi ý về chức năng của protein là tương tự nhau cho mỗi loài.
Việc giảm biểu hiện của dABCC ở mô não đã gây nên một
loạt những thay đổi trong khả năng tương tác xã hội và nhịp
sinh học ở ruồi giấm. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng sử dụng
ruồi giấm làm sinh vật mô hình để chứng minh mối liên quan
giữa một số gen như dABCA13, rugose với hội chứng rối loạn
tự kỷ [3, 4, 13]. Ruồi giấm mang gen đột biến bị giảm khả năng
tương tác xã hội và thay đổi nhịp thức - ngủ. Cường độ hoạt
động của ruồi ở mức cao và kéo dài liên tục trong nhiều ngày.
Ngoài ra, ruồi giấm mang gen dABCA13 đột biến cũng có hiện
tượng khởi phát sớm đỉnh hoạt động ban đêm [3]. Kiểu hình
tương tự như ruồi giấm knockdown gen dABCC4 và tương tự
như triệu chứng rối loạn tự kỷ ở người.
Việc tổng hợp dữ liệu của nhiều nghiên cứu sử dụng mô
hình ruồi giấm biến đổi gen cho bệnh tự kỷ cũng góp phần xác
định được vai trò các nhóm gen liên quan, làm sáng tỏ cơ chế
phân tử của bệnh. Trong họ gen ABC ở người, gen ABCC có
vai trò vận chuyển nhiều loại cơ chất qua màng tế bào, trong
đó có lipid [7]. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, hệ thần kinh trung
ương là cơ quan tập trung hàm lượng lipid cao thứ hai, chỉ sau
các mô mỡ. Do đó, chức năng vận chuyển lipid qua màng tế
bào của ABCC đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định con
đường tín hiệu và duy trì cân bằng nội môi ở các tế bào trong
hệ thần kinh trung ương. Dựa trên sự tương đồng với động vật
bậc cao về cấu trúc gen và trình tự axit amin mã hoá, dABCC
ở ruồi giấm cũng được dự đoán là có vai trò vận chuyển lipid
qua màng tế bào và duy trì cân bằng nội môi. Việc giảm biểu
hiện của gen ở mô não là nguyên nhân gây nên sự thiếu hụt
chức năng của protein này, từ đó ảnh hưởng đến các con đường
truyền tin nội bào, hệ quả là làm giảm khả năng tương tác xã
hội và thay đổi nhịp sinh học ở ruồi giấm. Mô hình ruồi giấm
trong nghiên cứu này có thể tiếp tục được sử dụng để xác định
những thay đổi trong hình thái cấu trúc tế bào thần kinh, đánh
giá sự thay đổi ở mức độ phân tử, từ đó xác định các gen/nhóm
gen có khả năng tương tác với dABCC và liên quan đến rối loạn
tự kỷ ở người.
Kết luận
Nghiên cứu đã xây dựng được mô hình ruồi giấm biến đổi
gen ABCC và xác định được mối liên quan với các biểu hiện
của bệnh tự kỷ. Đây là những kết quả bước đầu góp phần làm
sáng tỏ vai trò của protein này trong cơ chế phân tử của bệnh,
đồng thời cung cấp một mô hình tiềm năng và kinh tế cho
nghiên cứu thử nghiệm và sàng lọc thuốc.
LỜI CẢM ƠN
Nhóm tác giả xin cảm ơn sự hỗ trợ kinh phí từ đề tài tiềm
năng “Nghiên cứu vai trò của gen ABCC liên quan đến hội
chứng tự kỷ bằng mô hình ruồi giấm và ứng dụng mô hình này
trong sàng lọc dược liệu”, thuộc Đề án hỗ trợ nghiên cứu và
xuất bản quốc tế của Trường Đại học Y Hà Nội. Nhóm nghiên
cứu xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ từ phía GS Matsamitsu
Yamaguchi - Khoa Sinh học ứng dụng, Học viện Công nghệ
Kyoto, Nhật Bản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] H. Faras, N. Al Ateeqi, L. Tidmarsh (2010), “Autism spectrum
disorders”, Ann. Saudi Med., 30(4), pp.295-300.
[2] Y. Tian, Z.C. Zhang, J. Han (2017), “Drosophila studies on autism
spectrum disorders”, Neurosci. Bull., 33(6), pp.737-746.
[3] I. Ueoka, H. Kawashima, A. Konishi, et al. (2018), “Novel drosophila
model for psychiatric disorders including autism spectrum disorder by
targeting of ATP-binding cassette protein A”, Exp. Neurol., 300, pp.51-59.
[4] A. Wise, L. Tenezaca, R.W. Fernandez, et al. (2015), “Drosophila
mutants of the autism candidate gene neurobeachin (rugose) exhibit neuro-
developmental disorders, aberrant synaptic properties, altered locomotion,
impaired adult social behavior and activity patterns”, J. Neurogenet., 29,
pp.135-143.
[5] S. Iritani, Y. Torii, C. Habuchi, et al. (2018), “The neuropathological
investigation of the brain in a monkey model of autism spectrum disorder
with ABCA13 deletion”, Int. J. Dev. Neurosci., 71, pp.130-139.
[6] F. Kyle‐Cezar, J. Echevarria‐Lima, V.M. Rumjanek (2007),
“Independent regulation of ABCB1 and ABCC activities in thymocytes and
bone marrow mononuclear cells during aging”, Scandinavian Journal of
Immunology, 66(2‐3), pp.238-248.
[7] M.J. Henderson, M. Haber, A. Porro, et al. (2011), “ABCC multidrug
transporters in childhood neuroblastoma: clinical and biological effects
independent of cytotoxic drug efflux”, J. Natl. Cancer Inst., 103(16), pp.1236-
1251.
[8] H. Bronger, J. König, K. Kopplow, H.H. Steiner, et al. (2005), “ABCC
drug efflux pumps and organic anion uptake transporters in human gliomas
and the blood-tumor barrier”, Cancer Research, 65(24), pp.11419-11428.
[9] S.T. Madabattula, J.C. Strautman, A.M. Bysice, et al. (2015),
“Quantitative analysis of climbing defects in a drosophila model of
neurodegenerative disorders”, J. Vis. Exp., 100, e.52741.
[10] A.F. Simon, M.T. Chou, E.D. Salazar, et al. (2012), “A simple assay
to study social behavior in drosophila: measurement of social space within a
group”, Genes Brain Behav., 11(2), pp.243-252.
[11] J.C. Chiu, K.H. Low, D.H. Pike, et al. (2010), “Assaying locomotor
activity to study circadian rhythms and sleep parameters in drosophila”, J.
Vis. Exp., 43, e.2157.
[12] J. Bilen and N.M. Bonini (2005), “Drosophila as a model for human
neurodegenerative disease”, Annual Review of Genetics, 39(1), pp.153-171.
[13] M. Coll-Tané, A. Krebbers, A. Castells-Nobau, et al. (2019),
“Intellectual disability and autism spectrum disorders “on the fly”: insights
from drosophila”, Disease Models & Mechanisms, 12(5), DOI: 10.1242/
dmm.039180.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
giam_bieu_hien_gen_abcc4_atp_binding_cassette_subfamily_c_li.pdf