Nghiên cứu của chúng tôi có một số
hạn chế. Thứ nhất, như đã đề cập ở trên,
đây là nghiên cứu đơn trung tâm và có thể
có sai lệch về dân số. Thứ hai, có khả năng
vi khuẩn PES phân lập được không phải là
vi khuẩn gây bệnh mà chỉ là vi khuẩn quần
tập (colonize) mặc dù đã lấy ngưỡng định
lượng xác định cao. Chúng tôi đã xác định vi
khuẩn gây bệnh bằng các tiêu chuẩn vi trùng
học chặt chẽ. Tuy nhiên, chúng tôi luôn cho
rằng khó để kết luận rằng vi khuẩn phân lập
được là tác nhân gây bệnh trên bệnh nhân
HCAP (27). Đã có thông báo rằng nhiễm
khuẩn đường thở tái diễn đưa đến sự quần tập
(colonization) P.aeruginosa hoặc MRSA ở
đường hô hấp dưới (28). Thứ ba, tần suất gặp PES,
nhất là ESBL (+) Enterobacteriaceae là tương
đối thấp trên bệnh nhân có tình trạng miễn dịch
bình thường, như vậy chúng tôi không thể phân
tích nguy cơ cho từng vi khuẩn riêng biệt. Thứ
4, chúng tôi không thể phân tích tác động của
việc điều trị kháng sinh trước đó bởi vì chúng
tôi không có thông tin cụ thể về việc chỉ định
kháng sinh của bác sỹ trước đó.
Để kết luận, chúng tôi tin rằng là thích hợp
để xác định PES như là tác nhân kháng thuốc
trên bệnh nhân có tình trạng miễn dịch bình
thường. Viêm phổi do PES là khó trị mặc dù
tần suất thấp. Sự thận trọng cần được lưu ý
trong điều trị đối với viêm phổi do PES, nhất
là khi bệnh nhân có tình trạng tiếp xúc kém
hoặc ăn qua xông.
Mâu thuẫn lợi ích: Tadashi Ishida nhận tiền
thù lao từ Pfizer Japan Inc. Các tác giả khác
không có mâu thuẫn lợi ích cần khai báo.
Nghiên cứu này không nhận bất kỳ một tài
trợ nào từ các cơ quan công cộng, thương mại
hoặc các bộ phận phi lợi nhuận.
44 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Hô hấp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yếu tố địa
lý, phương pháp phân lập vi sinh. Trong khoảng một thập niên vừa qua, kỹ thuật phản ứng chuỗi
polymerase (PCR) kết hợp với các kỹ thuật vi sinh truyền thống đã cho những cách nhìn mới
về phổ vi sinh gây bệnh, trong đó nhấn mạnh đến vai trò gây bệnh của virus và sự kết hợp của
virus với cầu khuẩn Gram (+), nhất là S.pneumoniae (4,14,15). Trong một nghiên cứu đa trung tâm
ở Nhật năm 2006 (16), Saito A và cs đã áp dụng kỹ thuật PCR, tìm kháng nguyên nước tiểu cùng
với các kỹ thuật vi sinh truyền thống đã cho kết quả rất đáng chú ý. Tỷ lệ xác định được vi sinh
gây bệnh rất cao, 73,3%, trong đó đứng đầu là S.pneumoniae (24,6%), tiếp theo là H.influenzae
(18,5%), và virus (16,4%). S. pneumoniae và M. pneumoniae là hay gặp nhất trên người trẻ
trong khi S. pneumoniae và H. influenzae hay gặp nhất trên người già. Tỷ lệ các trường hợp phân
lập được nhiều tác nhân vi sinh là 25,9% bệnh nhân và là 35,3% trên những trường hợp có chẩn
đoán vi sinh. Năm 2009-2010, một nghiên cứu có độ tin cậy cao thực hiện phân lập trên bệnh
Bảng 2. Điểm gãy pK/pD của các kháng sinh beta-lactam cho bằng đường tiêm
Kháng sinh Liều sử dụng Điểm gãy pK/pD
Penicillin G 2 x 106 UI qid 4µg/ml
Ampicillin 1g qid 2µg/ml
Cefuroxime 0,75g tid 4µg/ml
Cefotaxime 1g tid 2µg/ml
Ceftriaxoneb 1g od 2µg/ml
Cefepime 1g bid 4µg/ml
Ceftazidime 1g tid 8µg/ml
Meropenem 0,5g tid 1µg/ml
b Dựa trên nồng độ tự do trong huyết thanh; bid: 2 lần/ngày; tid: 3 lần/ngày; qid: 4 lần/ngày; od: 1 lần/ngày
Bảng 3. Điểm gãy pK/pD của các kháng sinh beta-lactam cho bằng đường uống
Kháng sinh Liều người lớn Liều trẻ em Điểm gãy pK/pD
Amoxicillin 500mg/tid 40mg/kg/ngày tid 2µg/ml
Amoxicillin 875mg/bid 45mg/kg/ngày bid 2µg/ml
Amox/Clava 500mg/tid 40mg/kg/ngày tid 2µg/ml
Amox/Clava 875mg/bid 45mg/kg/ngày bid 2µg/ml
Cefaclor 500mg/tid 40mg/kg/ngày tid 0,5µg/ml
Cefuroxime 500mg/bid 30mg/kg/ngày bid 1µg/ml
Cefprozil 500mg/bid 30mg/kg/ngày bid 1µg/ml
Loracarbef 400mg/bid 30mg/kg/ngày bid 0,5µg/ml
Cefixime 400mg/qd 8mg/kg/ngày od 0,5µg/ml
a Dựa trên lượng amoxicillin; bid: 2 lần/ngày; tid: 3 lần/ngày; od: 1 lần/ngày
TOÅNG QUAN
23
Hoâ haáp soá 11/2017
BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA
nhân NKHHD cộng đồng bao gồm cả VPCĐ ở Việt Nam (tỉnh Khánh Hòa) (15) cũng bằng các
kỹ thuật phân lập quy ước và PCR cho thấy vi khuẩn gây bệnh chủ yếu là H.influenzae (28%)
và S.pneumoniae (23%). Test chẩn đoán virus dương tính với virus hô hấp là 21% và Influenza
A là 32,9%. Hình ảnh phân loại với tỷ lệ phân lập được phổ biến là S.pneumoniae, H.influenzae
và virus của hai nghiên cứu trên cũng giống với nhận định của hiệp hội Lồng ngực Anh (BTS
2009) trên VPCĐ (17).
Nhìn một cách khái quát, đặc tính vi sinh gây bệnh cơ bản không khác giữa VPCĐ nhẹ điều
trị trong và ngoài bệnh viện (4). Vi sinh gây bệnh chủ yếu là S.pneumoniae, H.influenzae và
virus. Các tác nhân không điển hình và vi khuẩn nhóm trực khuẩn Gram(-) không thường gặp,
kể cả trên người già (5,18). Như vậy, trong đa số các trường hợp, trị liệu kinh nghiệm cần hướng
tới các tác nhân vi sinh gây bệnh nói trên. Những trường hợp đặc biệt, cần dựa trên phân
tích diễn biến và các yếu tố nguy cơ để điều chỉnh (xem mục 5).
Trong khoảng một thập niên vào những năm 2000-2010 ở Việt Nam, chương trình giám
sát ANSORP (Asian Network for Surveillance of Resistant Pathogens) phân lập trên những
trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp cấp đã cho những ghi nhận khá cụ thể về tình hình nhiễm và
đề kháng của các tác nhân gây bệnh phổ biến với nhận định chung là tình hình kháng thuốc của
S.pneumoniae là khá cao so với các nước cùng tham gia lấy số liệu ở khu vực châu Á-TBD(19).
Với đề xuất mới (2008) của CLSI về ngưỡng S.pneumoniae kháng penicillin, một nghiên cứu
đa trung tâm thực hiện vào thời điểm 2010-2011 (nghiên cứu SOAR) ghi nhận tỷ lệ kháng
penicillin của S.pneumoniae xuống còn rất thấp (1%). Tuy nhiên các tác giả của nghiên cứu này
cũng cho thấy MIC của vi khuẩn đối với penicillin đã tăng từ 2mg/L lên 3 mg/L kể từ 2007 (20).
Với H.influenzae năm 2007 P.H Vân thực hiện một nghiên cứu đa trung tâm trên 248 chủng
H. influenzae phân lập từ các bệnh phẩm lâm sàng nhiễm khuẩn hô hấp cấp (21). Kết quả cho
thấy có đến 49% vi khuẩn tiết được beta-lactamse, kháng được ampicillin. Tuy nhiên vi khuẩn
còn nhạy rất tốt với amoxicillin-a.clavulanic (100%), azithromycin (92%) và các cephalosporin
thế hệ 2, như cefuroxime (99%), cefaclor (92%). Ngoài ra nghiên cứu này cũng ghi nhận một
tỷ lệ cao vi khuẩn kháng sulfamethoxazol/trimethoprim (SMT), 64%. Tương tự như kết quả
trên, nghiên cứu SOAR (survey of antibiotic resistance) năm 2010-2011(20), trên 200 chủng
H. influenzae phân lập từ lâm sàng nhiễm khuẩn hô hấp cấp trong đó có 146 từ nhiễm khuẩn
hô hấp dưới, cho thấy có đến 49% vi khuẩn kháng ampicillin và cơ chế chủ yếu vẫn là tiết men
beta-lactamase (tỷ lệ phát hiện được là 41%). Cũng trong nghiên cứu này vi khuẩn cũng kháng
cao với SMT (83%), tetracycline (93%). Dù beta-lactamase của H. influenzae là loại cổ điển
không thể kháng được các cephalosporin thế hệ hai, nhưng kết quả nghiên cứu SOAR vẫn ghi
nhận được 25% kháng cefuroxime và 27% kháng cefaclor. Cũng từ kết quả nghiên cứu (20) có
31% H. influenzae là không nhạy cảm azithromycin vì có MIC cao hơn tiêu chuẩn nhạy cảm.
Trong khi đó vi khuẩn còn nhạy cảm tốt amoxicillin-a.clavulanic (99,5%) mặc dù MIC
90
của
amoxicillin-a.clavulanic là 3 mg/L (khoảng 90%). Với tình hình kháng thuốc của hai tác nhân
gây bệnh phổ biến như vậy, việc điều chỉnh liều beta-lactam phù hợp với điểm gãy pK/pD
(bảng 1-3) để điều trị S.pneumoniae và kết hợp beta-lactam/kháng beta-lactamase để điều
trị H. influenzae là cần thiết.
5. Nguy cơ kháng thuốc:
TOÅNG QUAN
Hoâ haáp soá 11/2017
24
BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA
Phân loại viêm phổi theo nguồn gốc nhiễm khuẩn truyền thống gồm viêm phổi cộng đồng,
viêm phổi bệnh viện và thở máy, viêm phổi trên người suy giảm miễn dịch. Cách phân loại
này là quan trọng vì nó giúp cho việc định hướng tác nhân vi sinh gây bệnh phổ biến và quyết
định điều trị kháng sinh kinh nghiệm phù hợp. Ngược lại với những nhận định về vi sinh gây
bệnh trong VPCĐ, viêm phổi bệnh viện, viêm phổi trên người suy giảm miễn dịch thường do
S. aureus (gồm cả chủng kháng methicillin, MRSA), nhóm vi khuẩn đường ruột Gram (-) và
P.aeruginosa. Năm 2015, trong một nghiên cứu, Prina E (22) đề nghị gọi tắt nhóm vi khuẩn này
là PES do gồm P. aeruginosa, Enterobacteriaceae ESBL (+) và MRSA. Năm 2005 Hội lồng
ngực và Bệnh truyền nhiễm Mỹ (ATS/IDSA) đưa ra khái niệm viêm phổi kết hợp với chăm sóc
y tế (healthcare-associated pneumonia, HCAP) và đề nghị điều trị nhóm bệnh nhân này như
viêm phổi bệnh viện. Nhiều nghiên cứu sau đó đã ghi nhận tử vong trong HCAP không liên
quan chặt chẽ tới vi khuẩn kháng thuốc và năm 2016 ATS/IDSA đã đề nghị không sử dụng thuật
ngữ này trong phạm vi nhiễm khuẩn bệnh viện nữa (23). Tuy nhiên nguy cơ nhiễm khuẩn đặc
biệt và kháng thuốc từ cộng đồng là hiện hữu và cần được xác định trong thực hành điều trị
viêm phổi. Theo Prina E (23), PES chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ (6%). Các yếu tố nguy cơ cao VPCĐ
do PES gồm người già, có bệnh đồng mắc (suy thận mạn, bệnh phổi mạn tính), tình trạng bệnh
nặng (PSI nhóm IV và V), nhất là khi có suy giảm tri giác lúc khám bệnh. Ở Việt Nam, chưa
có nghiên cứu xác định nguy cơ nhiễm PES từ cộng đồng. Cần có nghiên cứu theo hướng này
để xây dựng chiến lược điều trị kháng sinh hợp lý. Trong khi chờ các dữ liệu thực tế của Việt
Nam, việc xây dựng bảng các yếu tố nguy cơ ở từng đơn vị điều trị để có chỉ định xét nghiệm
xác định vi khuẩn gây bệnh và điều trị phù hợp là cần thiết.
6. Điều trị kháng sinh:
Điều trị kháng sinh cần thực hiện ngay sau khi có chẩn đoán viêm phổi. Những trường hợp
nặng, có yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn đặc biệt và kháng thuốc nên sử dụng phác đồ điều trị
kinh nghiệm cần hướng tới bao vây các tác nhân này (bảng 4). Khi có kết quả vi trùng học,
ít nhất là nhuộm Gram, cần đổi hướng kháng sinh nếu phác đồ điều trị kinh nghiệm tỏ ra
không hiệu quả (bảng 5) bằng các kháng sinh lựa chọn theo vi khuẩn gây bệnh (bảng 6).
Bảng 4. Các phác đồ kháng sinh kinh nghiệm
P
há
c
đồ
1
:
V
PC
Đ
n
hẹ
PĐ
1
Amoxicillin 500 mg - 1g uống / mỗi 8 giờ;
hoặc Erythromycin uống 2-4 g/ ngày, chia 2 - 4 lần,
hoặc Clarythromycin 0,5g/ mỗi 12 giờ,
hoặc Azithromycin, ngày 1: 0,25g x 2 viên uống /một lần/ngày, ngày 2 - 5: 0,25g x 1 viên
uống / một lần/ngày.
PĐ
1+
Amoxicillin/Kháng beta-lactamase
hoặc Moxifloxacin (0,4g 1 viên uống / một lần/ngày),
hoặc Levofloxacin (0,75g / một lần/ngày).
P
há
c
đồ
2
:
V
PC
Đ
tr
un
g
bì
nh
PĐ
2 Amoxicillin 1g tĩnh mạch / mỗi 8 giờ.
PĐ
2+
Amoxicillin/Kháng beta-lactamase
Kết hợp với:
hoặc Moxifloxacin (0,4g/250ml truyền tĩnh mạch / một lần/ngày),
hoặc Levofloxacin (0,75g / truyền tĩnh mạch / một lần/ngày).
TOÅNG QUAN
25
Hoâ haáp soá 11/2017
BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA
P
há
c
đồ
3
:
V
PC
Đ
n
ặn
g
PĐ
3
Ceftriaxone (2g tĩnh mạch / một lần / ngày),
hoặc Cefotaxime (1g tĩnh mạch / mỗi 8 giờ),
hoặc Cefuroxime (1,5g tĩnh mạch / mỗi 12 giờ);
Kết hợp với:
hoặc Moxifloxacin (0,4g/250ml truyền tĩnh mạch / một lần/ngày),
hoặc Levofloxacin (0,75g / truyền tĩnh mạch / một lần/ngày).
PĐ
3+
Cefoperazone/sulbactam (1-2g tĩnh mạch / mỗi 12 giờ);
hoặc Ertapenem (1g tĩnh mạch / một lần/ngày).
Kết hợp với:
hoặc Moxifloxacin (0,4g/250ml truyền tĩnh mạch / một lần/ngày),
hoặc Levofloxacin (0,75g / truyền tĩnh mạch / một lần/ngày).
P
há
c
đồ
4
:
V
PC
Đ
n
ặn
g
kh
ôn
g
đá
p
ứn
g
tố
t s
au
7
2
gi
ờ
PĐ4
Ceftazidime (1-2g tĩnh mạch / mỗi 8 giờ)
hoặc Carbapenem (Imipenem, Meropenem tĩnh mạch / mỗi 8 giờ)
hoặc Piperacilline/tazobactam (4,5g tĩnh mạch/6 giờ)
Kết hợp với:
hoặc Ciprofloxacin (400mg truyền TM x 2-3 lần/ngày hoặc uống 500mg-750mg x 2 lần/
ngày),
hoặc Levofloxacin (0,75g / truyền tĩnh mạch hoặc uống/ một lần/ngày);
Kết hợp hay không với:
hoặc Amikacin 500mg tĩnh mạch / mỗi 12 giờ,
hoặc Tobramycin 80mg tĩnh mạch / mỗi 8 giờ.
Lưu ý:
- PĐ (phác đồ), PĐ+ (phác đồ dành cho những trường hợp có nguy cơ nhiễm vi khuẩn gây bệnh đặc biệt và kháng
thuốc).
- Các thuốc đều cần điều chỉnh theo chức năng thanh thải của gan và thận.
- Tất cả các phác đồ đều có thể chuyển từ thuốc tiêm sang thuốc uống khi tình trạng bệnh thuyên giảm và bệnh nhân
có thể sử dụng thuốc uống được. Liều thuốc uống tương đương với liều tiêm. Khi khởi đầu bằng Cephalosporin thì
chuyển uống bằng Amoxicillin/a.clavulanic.
- Các fluoroquinolone đều không khuyến cáo dùng cho trẻ em và phụ nữ mang thai hay cho con bú trừ khi bắt buộc.
- Nếu nghi ngờ MRSA: Linezolid hoặc Vancomycin (hay Teicoplanin)
- Lưu ý sử dụng kết quả kháng sinh đồ để điều chỉnh kháng sinh khi tiến triển không thuận lợi.
Hầu hết bệnh nhân nhẹ và trung bình đều có thể điều trị bằng thuốc uống. Bệnh nhân nặng
nên khởi đầu điều trị ngay bằng tĩnh mạch và chuyển thuốc uống khi có các dấu hiệu bình phục
(bảng 5).
Bảng 5. Các dấu hiệu bình phục và chuyển kháng sinh uống
- Giảm sốt trên 24 giờ
- Tỉnh táo và tiếp xúc tốt hơn
- Mạch <100 lần/phút
- Nhịp thở giảm
- Biểu hiện đủ nước lâm sàng và uống được
- Giảm huyết áp hồi phục
- Không giảm oxy máu
- Bạch cầu máu cải thiện
- Cấy máu (-)
- Không có bằng chứng nhiễm Legionella, Staphylococcus, trực khuẩn đường ruột Gram(-)
TOÅNG QUAN
Hoâ haáp soá 11/2017
26
BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA
Với VPCĐ nhẹ và trung bình thời gian điều trị kháng sinh cần 5-7 ngày là đủ (trong đó
có 2-3 ngày không sốt). Với những trường hợp nặng cần kéo dài tới 10 ngày. Những trường hợp
nhiễm khuẩn Gram (-), S.aureus có thể cần kéo dài 14-21 ngày. Thời gian điều trị kháng sinh
cần theo diễn biến lâm sàng.
Khi phân lập được vi sinh gây bệnh, nếu lâm sàng không đáp ứng với điều trị ban đầu, cần
điều chỉnh kháng sinh theo vi khuẩn gây bệnh (bảng 6).
Bảng 6. Lựa chọn kháng sinh theo tác nhân vi sinh đã xác định
Tác nhân vi sinh Kháng sinh lựa chọn Kháng sinh thay thế
Streptococcus pneumoniae
- MIC<2mcg/mL Penicillin G, Amoxicillin Macrolides, Cephalosporine uống hoặc
tiêm, Clindamycin, Fluoroquinolon hô
hấp.
- MIC ≥2 mcg/Ml Cefotaxim, Ceftriaxone,
Fluoroquinolon
Vancomycin, Linezolid, Amoxicillin
liều cao (3g/ngày với MIC ≤4 mcg/mL)
Haemophilus influenzae
- Không tạo beta-lactamase
- Tạo beta-lactamase
Amoxicillin
Cephalosporin thế hệ II, III,
Amoxicillin-kháng beta-lactamase
Fluoroquinolon, Doxycycline,
Azithromycin, Clarithromycin
Mycoplasma pneumoniae,
Chlamydophila pneumoniae
Macrolides, Tetracycline Fluoroquinolon
Legionella spp Fluoroquinolon, Azithromycin Doxycycline
Chlamydophila psittasi Tetracycline Macrolides
Coxiella burnetii Tetracycline Macrolides
Francisella tularensis Doxycycline Gentamycin, Streptomycin
Yersinisa pestis Gentamycin, Streptomycin Doxycycline, Fluoroquinolon
Bacillus anthracis (do hít) Ciprofloxacin, Levofloxacin,
Doxycycline
Các Fluoroquinolon khác, beta-
lactam, Rifampycin, Clindamycin,
Chloramphenicol
Enterobacteriacea Cephalosporine thế hệ III,
Carbapenem (nếu tiết ESBL)
Beta-lactam /kháng beta-lactamase,
Fluoroquinolon
Pseudomonas aeruginosa Beta-lactam kháng pseudomonas +
(Ciprofloxacin hoặc Levofloxacin
hoặc Aminoglycoside)
Aminoglycoside + (Ciprofloxacin hoặc
Levofloxacin)
Burkholderia pseudomallei Carbapenem, Ceftazidime Fluoroquinolon, TMP-SMX
Acinetobacter spp Carbapenem Cephalosporin/Aminoglycoside,
Ampicillin/sulbactam, Colistin
Staphylococcus aureus
- Nhạy Methicillin Penicillin kháng staphylococcus
(Nafcillin, Oxacillin,
Flucloxacillin)
Cefazolin, Clindamycin
- Kháng Methicillin Vancomycin, Linezolid TMP-SMX
TMP-SMX (trimethoprim/sulfamethoxazole)
TOÅNG QUAN
27
Hoâ haáp soá 11/2017
BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA
Tài liệu hướng dẫn của châu Âu (ERS/ ESCMID) và Mỹ (ATS) năm 2011(4,6) đều khuyến
cáo kết hợp beta-lactam / macrolide đối với những trường hợp trung bình, nặng cần nhập viện,
những trường hợp có nguy cơ nhiễm khuẩn đặc biệt (xem mục 5). ATS còn cho rằng kết hợp
cephalosporin với macrolide là sự lựa chọn rất tốt (6). Rất nhiều nghiên cứu và bài viết tổng quan
nhấn mạnh đến vai trò điều hòa miễn dịch của macrolide. Đã có nhận định cho rằng kết hợp
macrolide là sự lựa chọn bắt buộc (1, 24, 25). Tuy nhiên, trong khi chưa có dữ liệu đánh giá hiệu
quả lâm sàng của cách kết hợp này ở Việt Nam và trong khi chưa có bằng chứng lâm sàng chắc
chắn (validation), khuyến cáo sử dụng kháng sinh (bảng 4) thể hiện sự đồng tình với quan điểm
của Benjamin P. Westley và cs (năm 2010) (26) cho rằng kết hợp beta-lactam/macrolide chưa có
bằng chứng đủ thuyết phục để là lựa chọn bắt buộc. Cần có những nghiên cứu và phân tích về
vai trò kết hợp macrolide trong điều trị VPCĐ ở Việt Nam.
7. Không đáp ứng với trị liệu ban đầu:
Cần lưu ý phân biệt 2 thuật ngữ thể hiện đáp ứng không thuận
lợi với trị liệu ban đầu: Cải thiện chậm và diễn biến xấu đi. Mỗi
tình huống này lại được chia thành 2: sớm hay muộn tính theo
72 giờ. Do vậy cần theo dõi sát đáp ứng điều trị , nhất là trong
48-72 giờ đầu, lưu ý nhất là chẩn đoán nhầm với tràn dịch màng
phổi không nhiễm khuẩn (giảm đạm máu, suy thận, suy tim)
(hình 1). Lưu ý không phải tất cả các trường hợp diễn biến
không thuận lợi đều do nhiễm khuẩn và cần thay đổi trị liệu
kháng sinh. Bảng 7 thể hiện các tình huống có thể xảy ra khi
không đáp ứng điều trị ban đầu. Với những trường hợp đáp ứng
không thuận lợi sau 72 giờ, bên cạnh đánh giá lâm sàng, nên xét
nghiệm CRP để tăng tính chính xác trong việc đánh giá và xác định nguyên nhân có phải do
nhiễm trùng chưa được khống chế hay không (10). Theo Luís Coelho và cs (năm 2007) (27), CRP
giảm trên 30% ở ngày thứ ba của điều trị kháng sinh là dấu hiệu tiến triển tốt và có khả năng
rút ngắn thời gian trị liệu kháng sinh. Cũng theo Luís Coelho và cs, theo dõi bằng CRP tốt hơn
bằng thân nhiệt và bạch cầu máu.
Bảng 7. Các tình huống có thể xảy ra khi không đáp ứng với điều trị ban đầu
Biểu hiện Sớm Muộn
Không cải thiện Trong 72 giờ:
- Có thể là diễn biến bình thường.
Sau 72 giờ:
- Vi khuẩn kháng thuốc, vi khuẩn chưa bao vây
(lưu ý lao phổi), sử dụng thuốc dưới liều cần thiết.
- Các biến chứng: Mủ màng phổi, tràn dịch cạnh
tổn thương.
- Nhiễm khuẩn bệnh viện cộng thêm (viêm phổi
hay ngoài phổi).
- Không nhiễm khuẩn: Bệnh tim mạch, sốt do
thuốc, thuyên tắc động mạch phổi, viêm nội mạc
tự miễn).
Hình 1. Hình Xquang ngực (tư
thế nằm) bệnh nhân suy tim sung
huyết, tràn dịch màng phổi lượng
ít hai bên
TOÅNG QUAN
Hoâ haáp soá 11/2017
28
BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA
Xấu đi Trong 72 giờ:
- Bệnh nặng.
- Vi khuẩn kháng thuốc.
- Di căn nhiễm khuẩn: Tràn dịch màng
phổi, viêm nội tâm mạc, viêm màng
não, viêm khớp.
- Chẩn đoán sai: Tràn dịch màng phổi,
viêm phổi hít, ARDS, viêm nội mạc tự
miễn (lupus ban đỏ hệ thống).
Sau 72 giờ:
- Nhiễm khuẩn bệnh viện cộng thêm (viêm phổi
hay ngoài phổi).
- Đợt cấp bệnh đồng mắc.
- Các bệnh khác kết hợp (thuyên tắc động mạch
phổi, nhồi máu cơ tim, suy thận).
8. Phòng bệnh:
Nguy cơ viêm phổi cộng đồng bao gồm: tuổi cao (trên 65) hoặc trẻ nhỏ (dưới 12 tháng), hút
thuốc lá, nghiện rượu, các bệnh đồng mắc tim-phổi, suy thận, tiểu đường, ung thư, suy giảm
miễn dịch, sử dụng thuốc kéo dài (thí dụ như corticosteroid, PPI), giảm vận động kéo dài. Cần
xác định các yếu tố nguy cơ viêm phổi để có các biện pháp phòng bệnh tích cực.
Vắc-xin phòng viêm phổi: Vắc-xin hướng tới phòng viêm phổi do Streptococcus và cúm
(influenzae) đang còn là trụ cột trong chiến lược phòng viêm phổi. Tất cả những người có
nguy cơ nhiễm cao, những người có nguy cơ biến chứng do cúm, cần tiêm vắc-xin cúm bất
hoạt và tiêm nhắc lại hàng năm (6,28). Cần tiêm vắc-xin phòng bệnh do phế cầu dạng PPV
(pneumococcal polysaccharide vaccine) cho những người có nguy cơ cao viêm phổi, tuổi từ
65 trở lên nếu mũi tiêm lần đầu trước 65 tuổi hoặc những người cắt lách, suy giảm miễn
dịch (6,29,30). Để có xử trí vắc-xin phù hợp, đánh giá tình trạng tiêm vắc-xin khi bệnh nhân nhập
viện là cần thiết. Cần tiêm vắc-xin cho bệnh nhân khi có chỉ định lúc ra viện hoặc trong quá
trình theo dõi điều trị ngoại trú (6).
Những biện pháp dự phòng viêm phổi khác cần được lưu ý như hướng dẫn bệnh nhân, người
nhà bệnh nhân hay nhân viên chăm sóc y tế cộng đồng bao gồm: bỏ hút thuốc lá, dinh dưỡng và
vệ sinh cơ thể đầy đủ, vận động trị liệu, vệ sinh răng miệng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Grant W. Waterer; Jordi Rello; Richard G.
Wunderink. Management of Community-acquired
Pneumonia in Adults (Concise Clinical Review). Am
J Respir Crit Care Med Vol 183. Pp 157-164, 2011
2. Richard G. Wunderink; Grant W. Waterer.
Community-Acquired Pneumonia. N Engl J Med
2014; 370:543-51.
3. Hội Lao và bệnh phổi Việt Nam. Hướng dẫn xử trí
các bệnh nhiễm trùng hô hấp dưới không do lao. Y
học 2012; 11-140.
4. M. Woodhead, F. Blasi, S. Ewig et al. Guidelines
for the management of adult lower respiratory tract
infections - full version. Clin Microbiol Infect 2011;
17(Suppl. 6): E1-E59
5. Daniel M. Musher; Anna R. Thorner. Community-
Acquired Pneumonia. N Engl J Med 2014;
371:1619-28.
6. Lionel A. Mandell; Richard G. Wunderink; Antonio
Anzueto et al. Infectious Diseases Society of
America/American Thoracic Society Consensus
Guidelines on the Management of Community-
Acquired Pneumonia in Adults. Clinical Infectious
Diseases 2007; 44:S27-72
7. W S Lim; M M van der Eerden; R Laing; et al.
Defining community acquired pneumonia severity on
presentation to hospital: an international derivation
and validation study. Thorax 2003; 58:377-382
8. James D. Chalmers; Joanne K. Taylor; Pallavi
Mandal; et al. Validation of the Infectious Diseases
Society of America/American Thoratic Society
Minor Criteria for Intensive Care Unit Admission in
Community-Acquired Pneumonia Patients Without
Major Criteria or Contraindications to Intensive
Care Unit Care. Clinical Infectious Diseases 2011;
53(6):503-511
TOÅNG QUAN
29
Hoâ haáp soá 11/2017
BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA
9. 2015 - Annotated BTS Guideline for the
management of CAP in adults (2009) Summary of
recommendations. Thorax 2009; 64:iii1-iii55
10. National Institute for Health and Care Excellence
2014. Pneumonia in adults: diagnosis and
management. Nice.org.uk/guidance/cg191
11. Gavin Falk; Tom Fahey. C-reactive protein and
community-acquired pneumonia in ambulatory
care: systematic review of diagnostic accuracy
studies. Family Practice. 2008; 26 (1): 10-21.
12. Jacob MR. Optimizing of antimicrobial therapy
using pharmacokinetic and pharmacodynamic
characters. Clin. Microbiol. Infect. 2001; 7: 589-596.
13. White AR. et al. Amox/Clav (amoxicillin/clavulanate)
in the treatment of community-acquired respiratory
tract infection: a review of the continuing
development of an innovative antimicrobial agent.
Journal of Antimicrobial Chemotherapy. 2004;
53(S1): i3-i20
14. Niclas Johansson; Mats Kalin; Annika Tiveljung-
Lindell; et al. Etiology of Community-Acquired
Pneumonia: Increased Microbiological Yield with
New Diagnostic Methods. Clinical Infectious
Diseases 2010; 50:202-9
15. Kensuke Takahashi; Motoi Suzuki; Le Nhat Minh
et al. The incidence and aetiology of hospitalized
community-acquired pneumonia among
Vietnamese adults: a prospective surveillance in
Central Vietnam. BMC Infectious Diseases 2013;
13:296
16. Saito A; Kohno S; Matsushima T; Watanabe A et
al. Prospective multicenter study of the causative
organisms of community-acquired pneumonia in
adults in Japan. J Infect Chemother. 2006; 12(2):63-
9 (ISSN: 1341-321X)
17. W S Lim, S V Baudouin, R C George et al. British
Thoracic Society guidelines for the management of
community acquired pneumonia in adults: update
2009. Thorax 2009; 64(Suppl III):iii1-iii55
18. Antonella F. Simonetti, Diego Viasus et al.
Management of community-acquired pneumonia in
older adults. Ther Adv Infect Dis. 2014; 2(1) 3-16
19. Van P.H. et al. The multicenter study in Vietnam
on the antibiotic resistance S. pneumoniae - The
results from 204 clinical isolates. Hochiminh City
Medicine. 2007; 11: Supplement 3, 67-77
20. PH Vân; PT Bình; ĐM Phương và cs. Tình hình đề
kháng kháng sinh của S.pneumoiae và H.influenzae
phân lập từ NKHH cấp - Kết quả nghiên cứu đa
trung tâm thực hiện tại Việt Nam (SOAR) 2010-
2011. YHTH 85512, 2012. 6-11
21. Van P.H. et al. Haemophilus influenzae with beta-
lactamase - Results from the multicenter study on
248 strains isolated from Viet Nam. Hochiminh City
Medicine. 2007; 11: Supplement 3, 47-55
22. Prina E, Ranzani OT, Polverino E, et al. Risk factors
associated with potentially antibiotic-resistant
pathogens in community-acquired pneumonia. Ann
Am Thorac Soc 2015; 12(2): 153-60.
23. Andre C. Kalil; Mark L. Metersky; Michael Klompas
et al. Management of Adults With Hospital-acquired
and Ventilator-associated Pneumonia: 2016 Clinical
Practice Guidelines by the Infectious Diseases
Society of America and the American Thoracic
Society. Clinical Infectious Diseases Advance
2016. DOI: 10.1093/cid/ciw353
24. Grant W. Waterer. Are macrolides now obligatory in
severe community-acquired pneumonia?. Intensive
Care Medicine. 2010; Volume 36, Issue 4, pp 562-
564
25. Emmet O’Brien M; Restrepo MI; Martin-Loeches
I. Update on the combination effect of macrolide
antibiotics in community-acquired pneumonia.
Respir Investig. 2015; 53(5):201-9.
26. Benjamin P. Westley; Philip A. Chan. Questions
remain regarding mandatory use of macrolides in
community-acquired pneumonia. Intensive Care
Med. 2010; 36:1787
27. Luís Coelho, Pedro Póvoa, Eduardo Almeida,
Antero Fernandes, Rui Mealha, Pedro Moreira and
Henrique Sabino. Usefulness of C-reactive protein
in monitoring the severe community-acquired
pneumonia clinical course. Critical Care 2007; 11:
R92 (doi:10.1186/cc6105)
28. WHO: Vaccines against influenza WHO position
paper - November 2012. Wkly Epidemiol Rec. 87
(46): 461-76. Nov 23, 2012; PMID 23210147.
29. Centers for disease control and prevention.
Pneumococcal Disease | Prevention Through
Vaccination
30. Esposito S; Principi N. Pneumococcal vaccines and
the prevention of community-acquired pneumonia.
Pulm Pharmacol Ther. 2015; 32:124-9.
Hoâ haáp soá 11/2017
30
Dịch:
NGUY CƠ VIÊM PHỔI DO VI KHUẨN KHÁNG THUỐC Ở
NGƯỜI CÓ TÌNH TRẠNG MIỄN DỊCH BÌNH THƯỜNG: ƯỚC
LƯỢNG NGUY CƠ NHIỄM CÁC TÁC NHÂN PES
Dịch từ:
Bài nghiên cứu: Risk factors for drug-resistant pathogens in immunocompetent patients with
pneumonia: Evaluation of PES pathogens
Tác giả: Tadashi Ishida, Akihiro Ito, Yasuyoshi Washio, Akio Yamazaki, Maki Noyama, Fumiaki
Tokioka, Machiko Arita
Dept. of Respiratory Medicine, Kurashiki Central Hospital, Ohara Memorial Kurashiki Central
Healthcare Foundation, Kurashiki, Japan
Đăng trên: J Infect Chemother 23 (2017) 23-28
TS.BS NGUYỄN VĂN THÀNH
PCT. Hội lao và Bệnh phổi VN
e-mail: thanhbk@hcm.vnn.vn
Tóm tắt:
Đặt vấn đề: Chữ viết tắt mới, PES (Pseudomonas aeruginosa, Enterobacteriaceae extended spectrum
beta-lactamase positive và methicillin-resistant Staphylococcus aureus) vừa được đề xuất gần đây để xác
định các tác nhân gây bệnh kháng thuốc trong viêm phổi cộng đồng.
Mục tiêu: Lượng giá nguy cơ viêm phổi do các vi khuẩn kháng thuốc trên người miễn dịch bình thường
và xác định vai trò của PES.
Phương pháp: Phân tích hồi cứu bằng một nghiên cứu mô tả tiến cứu trên những bệnh nhân miễn dịch
bình thường bị viêm phổi từ tháng 3/2009 tới tháng 6/2015. Chúng tôi làm rõ các yếu tố nguy cơ nhiễm
vi khuẩn nhóm PES.
Kết quả: Trên 1559 bệnh nhân, chẩn đoán căn nguyên được xác định ở 705 cas (45,2%). PES xác
định được ở 51 cas (7,2) bệnh nhân, với 53 lần phân lập PES (P. aeruginosa, 34; ESBL-positive
Enterobacteriaceae, 6; và MRSA, 13). Bệnh nhân nhiễm PES có khuynh hướng thất bại trị liệu ban đầu,
tái nhập viện sau 30 ngày và kéo dài thời gian điều trị trong bệnh viện. Phân tích hồi quy đa biến cho
thấy giới nữ (adjusted odds ratio [AOR] 1.998, 95% confidence interval [CI] 1.047-3.810), tiền sử nhập
viện trong 90 ngày (AOR 2.827, 95% CI 1.250-6.397), tình trạng nhập viện nặng (AOR 2.380, 95% CI
1.047-5.413) và ăn qua xông (AOR 5.808, 95% CI 1.813-18.613) là các yếu tố nguy cơ độc lập đối với
nhiễm PES. Phân tích ROC cho thấy diện tích dưới đường cong là 0,66 (95% CI 0.577-0.744).
Kết luận: Chúng tôi tin rằng định nghĩa PES là một mô tả thích hợp cho các vi khuẩn kháng thuốc đối
với viêm phổi cộng đồng trên người có tình trạng miễn dịch bình thường. Tần suất PES là khá thấp. Tuy
nhiên, sự nhận biết các tác nhân này là quan trọng vì chúng có thể gây ra viêm phổi khó điều trị và cần
điều trị bằng các kháng sinh khác.
31
Hoâ haáp soá 11/2017
DÒCH
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm phổi gây ra bởi vi khuẩn kháng thuốc (drug-resistant pathogens, DRPs) trước đây được
xếp vào nhóm viêm phổi bệnh viện (HAP). Trong những năm gần đây, vi khuẩn gây bệnh
kháng thuốc xuất hiện ở cộng đồng do việc mở rộng hệ thống chăm sóc sức khỏe và điều trị.
Vào năm 2005, trong tài liệu hướng dẫn chung giữa ATS và IDSA, một phân loại viêm phổi
mới đã được đề xuất (1). Các bản guideline của ATS/IDSA cho rằng tất cả bệnh nhân HCAP
nên được điều trị kháng sinh kinh nghiệm hướng tới DRPs. Tuy nhiên, có một số hạn chế đã
phát sinh khi xem xét định nghĩa HCAP, các vấn đề bao gồm: các yếu tố xác định (các biến,
variables) HCAP khác nhau giữa các quốc gia, khác nhau trong việc dự đoán giữa các tác
nhân vi sinh kháng thuốc (MDRs) và ý niệm HCAP có thể đưa đến điều trị quá mức kháng
sinh ở một số trường hợp (2,3).
Gần đây, Prima và cs đã đề xuất khái niệm viết tắt PES (Pseudomonas aeruginosa,
Enterobacteriaceae extended-spectrum beta-lactamase-positive và methicillin resistant
Staphylococcus aureus), các vi khuẩn gây bệnh có yêu cầu điều trị kháng sinh khác với viêm
phổi cộng đồng (CAP) thông thường bao gồm cả những trường hợp viêm phổi ở nhà dưỡng
lão (4). Các tác giả cũng đã định nghĩa các yếu tố nguy cơ nhiễm PES.
Mục tiêu của nghiên cứu là lượng giá nguy cơ nhiễm PES trên bệnh nhân viêm phổi có
miễn dịch bình thường bằng các so sánh đặc điểm lâm sàng, kết quả điều trị so với bệnh
nhân không nhiễm PES và trên cơ sở này sẽ xác định nguy cơ nhiễm PES trên bệnh nhân
của chúng tôi.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Quần thể nghiên cứu và thu thập dữ liệu:
Chúng tôi tiến hành phân tích hồi cứu bằng một nghiên cứu mô tả tiến cứu trên những bệnh
nhân viêm phổi có tình trạng miễn dịch bình thường, tuổi từ 16 trở lên, vào viện điều trị tại
bệnh viện Kurashiki Central (1150 giường) từ tháng 3/2009 đến tháng 6/2015.
Nghiên cứu được phê duyệt bởi hội đồng đạo đức bệnh viện Kurashiki Central. Biên bản
thỏa thuận tham gia nghiên cứu (CF) được thu nhận từ tất cả bệnh nhân ngay từ lúc nhập viện.
Viêm phổi được chẩn đoán bằng sự hiện diện của hình ảnh thâm nhiễm mới trên Xquang
ngực và các triệu chứng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính như ho, sốt, đau ngực, khạc đàm, khó
thở. Chúng tôi loại trừ những trường hợp viêm phổi bệnh viện (HAP), những bệnh nhân đã
được điều trị corticosteroids trước đó (tương đương ≥ 10mg pretnisolone/ngày), những bệnh
nhân đang trị liệu thuốc ức chế miễn dịch, những bệnh nhân ung thư, những bệnh nhân HIV
hoặc lao đang hoạt động. Những bệnh nhân sống ở nhà dưỡng lão hay đang sử dụng các dịch
vụ chăm sóc y tế mở rộng được đưa vào nghiên cứu nếu được đánh giá là tình trạng miễn dịch
bình thường. Các dữ liệu dân số, lâm sàng ban đầu (baseline) của tất cả bệnh nhân đều được
ghi nhận ngay từ nhập viện. Dữ liệu bao gồm: tuổi, giới, hút thuốc lá, sử dụng rượu, sống ở
nhà dưỡng lão, bệnh đồng mắc, sử dụng kháng sinh trước đó, ăn qua xông, tình trạng tiếp
xúc (performance status), đánh giá theo Eastern Cooperative Oncology Group criteria (5) cùng
Hoâ haáp soá 11/2017
32
TOÅNGDÒCH
với các dấu hiệu sinh tồn, mức độ nặng viêm phổi, xét nghiệm, SpO
2
hoặc khí máu động mạch,
Xquang ngực, xét nghiệm vi sinh và kết cục lâm sàng. Kết cục lâm sàng được đánh giá bằng
sống vào ngày 30 hoặc xuất viện trong 30 ngày. Thất bại điều trị ban đầu được định nghĩa bằng
tử vong trong lúc đang điều trị, thay đổi trị liệu ban đầu do không đáp ứng. Tái phát được định
nghĩa bằng tái nhập viện những trường hợp xuất viện. Xác định mức độ nặng CAP bằng thang
điểm PSI (6). Tất cả các biến đều được so sánh giữa hai nhóm bệnh nhân PES và không PES.
2.2. Xét nghiệm vi sinh:
Cấy máu được thực hiện trên tất cả bệnh nhân ngay khi nhập viện. Nếu bệnh nhân có khạc
đàm, đàm nhuộm Gram và cấy định lượng. Chất lượng đàm được đánh giá bằng nhuộm Gram
với nhiều bạch cầu (>25 trên quang trường 100) và ít tế bào biểu mô. Vi khuẩn cấy phải mọc
mạnh với ngưỡng đánh giá dương tính là 107cfu/mL. Những trường hợp mọc yếu hơn (105,
106 cfu/mL) cũng được xem là dương tính nếu vi khuẩn cấy phù hợp với vi khuẩn nhuộm Gram.
(Tác giả trình bày chi tiết các kỹ thuật vi sinh để xác định Streptococcus pneumoniae, Legionella
pneumophila, Chlamydophila pneumoniae, M. pneumoniae C. Pneumoniae, MRSA, ESBL (+)
Enterobacteriaceae. Dịch giả không dịch phần này.)
2.3. Phân tích thống kê:
Dữ liệu được phân tích bằng phiên bản 9.3 SAS institute Inc., Cary, NC, U.S.A.). Test chi-
square được sử dụng để so sánh biến phân loại, test Fisher’s exact được sử dụng để so sánh
biến khi dưới 10 điểm (data points) cho mỗi thông số. Test Student’s t không bắt cặp hoặc test
ManneWhitney U được sử dụng để so sánh cho các biến liên tục. P value < 0.05 được xem là
có ý nghĩa thống kê.
Nguy cơ nhiễm khuẩn PES được phân tích bằng phép hồi quy logistic. Tất cả các biến có giá
trị p < 0.25 khi phân tích đơn biến đều được đưa vào phân tích đa biến. OR và 95% CI được xem
xét. Chúng tôi cũng xác định AUC trên phân tích ROC bằng các biến nguy cơ PES sau phân
tích hồi quy đa biến.
Bảng 1. Đặc điểm ban đầu bệnh nhân PES và không PES
33
Hoâ haáp soá 11/2017
DÒCH
Bảng 3. Kết quả xét nghiệm vi sinh
Bảng 2. Ghi nhận lâm sàng khi nhập viện trên hai nhóm PES và không PES
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm bệnh nhân: Tổng cộng có 1.559 bệnh nhân được xem xét trong giai đoạn
nghiên cứu. Trong đó có 705 bệnh nhân có chẩn đoán xác định vi sinh. Trong số 705 bệnh
nhân, 170 bệnh nhân có các tiêu chuẩn HCAP. Đặc điểm ban đầu bệnh nhân nhóm PES và
không PES được thể hiện trong bảng 1.
Bệnh nhân nhóm PES già hơn, ít nam giới hơn, hút thuốc lá ít hơn so với nhóm không PES
nhưng nhiều hơn ở các thông số vừa xuất viện trong 30 ngày, dãn phế quản, ăn qua xông, tình
trạng tiếp xúc kém (PS 3-4). Các đánh giá lâm sàng khi vào viện thể hiện ở bảng 2.
Tỷ lệ có rối loạn định hướng, huyết áp thấp, giảm oxy máu không khác biệt giữa hai nhóm. Xét
nghiệm cho thấy thiếu máu gặp nhiều hơn ở nhóm PES. Nhiễm khuẩn máu gặp ở 6 bệnh nhân
PES và 56 bệnh nhân không PES, không khác biệt có ý nghĩa.
3.2. Kết quả phân bố vi khuẩn gây bệnh:
Hoâ haáp soá 11/2017
34
TOÅNGDÒCH
Bảng 5. Kết quả hồi quy logistic đa biến nguy cơ nhiễm PES
Vi khuẩn gây bệnh phân lập được trên 705 bệnh nhân, bảng 3. Streptococcus pneumoniae là
vi khuẩn gây bệnh phân lập được nhiều nhất. Đa tác nhân gây bệnh thấy trên 108 bệnh nhân
(15.3%).
Trên tổng số 51 bệnh nhân (7.2%) viêm phổi do PES và 53 lần phân lập được vi khuẩn
PES (P.aeruginosa: 34; ESBL (+) Klebsiella pneumoniae: 3; ESBL(+) Escherichia coli: 3;
và MRSA: 13). Có 2 bệnh nhân có đồng thời 2 vi khuẩn PES (P. aeruginosa + MRSA; K.
pneumoniae + MRSA). Ở nhóm PES, 27 bệnh nhân (52.9%) có tiêu chuẩn HCAP.
3.3. Điều trị kháng sinh:
Tất cả bệnh nhân đều được điều trị kháng sinh kinh nghiệm ngay khi nhập viện theo hướng dẫn
của JRS (7,8). Trong số bệnh nhân PES, penicillin + kháng beta-lactamase được chỉ định nhiều
nhất, ở 36 bệnh nhân (70.6%). Kết hợp kháng sinh được chỉ định trong 8 bệnh nhân (15.7%). 17
bệnh nhân (33.3%) được điều trị bao vây PES. Các kháng sinh hàng thứ 2 được thay đổi hoặc
công với thuốc hàng thứ nhất dựa trên các kết quả nuôi cấy hoặc lâm sàng ở 23 bệnh nhân PES
(45.1%). Tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân được điều trị kháng sinh thỏa đáng (adequate) và không là
5.9% và 8.8%, không có sự khác biệt có ý nghĩa (p=0.854).
3.4. Kết cục lâm sàng:
Bảng 4 thể hiện chi tiết kết cục lâm sàng ở cả hai nhóm. Tỷ lệ thất bại điều trị cao hơn ở nhóm
PES (p=0.01) nhưng tử vong 30 ngày không có sự khác biệt có ý nghĩa (p=0.487). Nhóm PES
có tỷ lệ tái nhập viện trong 30 ngày cao hơn (p=0.009) và ngày điều trị bệnh viện dài hơn
(p<0.001).
3.5. Yếu tố nguy cơ PES:
Bảng 4. Kết cục lâm sàng ở 2 nhóm PES và không PES
a. Tử vong với điều trị ban đầu hoặc phải thay đổi điều trị bằng kháng sinh khác do đáp ứng kém với trị liệu ban đầu
35
Hoâ haáp soá 11/2017
DÒCH
và cho 7 yếu tố theo PES score là 0.606 (95% CI 0.524-0.678).
4. BÀN LUẬN
Thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để khảo sát yếu tố nguy cơ viêm phổi
do các vi khuẩn kháng thuốc. Tuy nhiên, mỗi nghiên cứu tập trung theo cách khác nhau vào vi
khuẩn kháng thuốc. Thí dụ Shorr và cs tập trung xác định MRSA P. Aeruginosa và ESBL (+)
Enterobacteriaceae và xây dựng thang điểm sử dụng các yếu tố: vừa nhập viện, ở nhà dưỡng
lão lâu, nhập ICU và lọc thận (9). Aliberti và cs lại xác định vi khuẩn đa kháng gồm MRSA,
P. aeruginosa đa kháng, Stenotrophomonas maltophilia, vancomycin-resistant Enterococcus,
Acinetobacter baumannii, và ESBL (+) Enterobacteriaceae và xây dựng thang điểm khác bằng
các yếu tố nguy cơ: suy thận mạn, vừa nhập viện, sống ở nhà dưỡng lão, bệnh mạch não, tiểu
đường, COPD, vừa mới sử dụng kháng sinh, suy giảm miễn dịch, chăm sóc vết thương tại nhà,
trị liệu tĩnh mạch tại nhà (10,11). Shindo và cs xác định các vi khuẩn gây CAP kháng thuốc, gồm
MRSA, P. Aeruginosa và ESBL (+) Enterobacteriaceae và thang điểm 6 yếu tố nguy cơ: vừa
nhập viện, suy giảm miễn dịch, sử dụng kháng sinh trước đó, sử dụng PPI, ăn qua xông, nằm tại
giường và cho rằng giá trị dự đoán vi khuẩn MDR của thang điểm 6 yếu tố là tốt hơn so với 2
thang điểm trên(12). Maruyama và cs xác định các vi khuẩn kháng thuốc MRSA, P. aeruginosa,
A. baumannii, ESBL (+) Enterobacteriaceae và phân tích những bệnh nhân HCAP bằng cách
sử dụng các yếu tố nguy cơ dựa trên định nghĩa của Brito và cs (13): vừa sử dụng kháng sinh,
vừa nhập viện, tình trạng chức năng kém, và suy giảm miễn dịch (14). Tuy nhiên, đối tượng
nghiên cứu của các nghiên cứu này cũng bao gồm cả HCAP cùng với các trường hợp có suy
giảm miễn dịch.
Gần đây, ở châu Âu có nhiều ý kiến không chấp nhận ý niệm HCAP. Người ta cho rằng
định nghĩa HCAP có thể làm cho việc điều trị kháng sinh quá mức cần thiết, ý niệm về
Hình 1. Đường cong ROC cho 4 yếu tố (liền nét) và
cho 7 yếu tố theo PES score (đường đứt khúc)
Bằng phân tích đơn biến, 10 yếu tố nguy cơ
PES có giá trị p <0.25 được đưa vào phân tích
đa biến. Có 4 biến sau đây được xem là các
yếu tố dự đoán độc lập nhiễm PES (bảng 5):
Giới nữ (AOR 1.998, 95% CI 1.047-3.810,
p=0.036); Vừa nhập viện trong 90 ngày (AOR
2.827, 95% CI 1.250-6.397, p=0.013); Tình
trạng tiếp xúc kém (PS 3 hoặc 4) (AOR 2.380,
95%CI 1.047-5.413, p=0.039); và Ăn qua xông
(AOR 5.808, 95% CI 1.813-18.613, p=0.003).
Hình 1 thể hiện đường cong ROC của giá trị
dự đoán 4 yếu tố trong nghiên cứu và 7 yếu
tố theo PES score như đề nghị của Prina và cs
(bao gồm: tuổi từ 65, giới nam, điều trị kháng
sinh trước đó, bệnh hô hấp mạn tính, bệnh
thận, giảm tri giác, nhiệt độ > 37.80C). AUC
cho 4 yếu tố là 0.660 (95% CI 0.577-0.744)
Hoâ haáp soá 11/2017
36
TOÅNGDÒCH
HCAP không xác định được chính xác vi
khuẩn gây bệnh kháng thuốc và định nghĩa
bao gồm cả những người suy giảm miễn
dịch (2,3,15,16). Mặt khác, cũng đã có thông
báo rằng kết cục không tốt trong HCAP
không bị ảnh hưởng bởi vi khuẩn kháng
thuốc hoặc bởi cách chọn lọc kháng sinh
mà đúng hơn, nó có liên quan tới tình trạng
chung của bệnh nhân trong đó bao gồm bệnh
đồng mắc (17-20). Như vậy, cần phải phân tích
nguy cơ kháng thuốc trên những người có
tình trạng miễn dịch bình thường. Đã có một
số ít nghiên cứu khảo sát nguy cơ chỉ trên
bệnh nhân CAP. Gần đây, Torres và cs đã
nghiên cứu trên CAP nhiễm khuẩn máu và
đưa ra những yếu tố nguy cơ kháng thuốc
của các vi khẩn gây bệnh (S.pneumoniae
đa kháng, MRSA, P. aeruginosa, và ESBL
(+) Enterobacteriaceae) như sau: tiền sử
điều trị kháng sinh, C-reactive protein
<22.2 mg/dL, và không đau nặng ngực
(pleuritic pain) (21). Các nghiên cứu gần đây
ghi nhận rằng không có sự khác biệt về căn
nguyên vi sinh giữa CAP và HCAP nếu
bệnh nhân có tình trạng miễn dịch bình
thường (19, 22, 23). Do vậy, bệnh nhân CAP và
HCAP nếu có tình trạng miễn dịch bình
thường đã được đưa vào nghiên cứu của
chúng tôi. Chúng tôi xem xét khả năng kháng
thuốc của vi khuẩn gây bệnh trong nhóm
bệnh nhân này. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, tần suất PES ở người có miễn dịch bình
thường không cao (7,5%), và tần suất từng
loại là giống với nghiên cứu của Prina và cs,
chúng tôi chỉ phát hiện một số ít trường hợp
viêm phổi do ESBL (+) Enterobacteriaceae.
Tuy nhiên, vi khuẩn kháng thuốc khác PES
là hiếm trong nghiên cứu này. Như vậy, có
thể xác định rằng ở người có tình trạng miễn
dịch bình thường, định nghĩa PES như là vi
khuẩn kháng thuốc đối với các kháng sinh
thông thường là không phù hợp (ineffective).
Prina và cs thông báo rằng PES kết hợp độc
lập với tử vong 30 ngày. Mặt khác, trong
nghiên cứu của chúng tôi, không có sự khác
biệt về mức độ nặng của viêm phổi và tử
vong 30 ngày giữa 2 nhóm PES và không
PES. Tuy nhiên, ở nhóm PES có tăng tỷ lệ
thất bại trị liệu ban đầu và tăng kéo dài thời
gian nằm viện, điều này cho thấy rằng CAP
do PES nên được xem là khó trị (refractory).
Những yếu tố nguy cơ PES được phân
tích trong hồi quy đa biến cho thấy có sự khác
biệt đáng kể so với kết quả của nghiên cứu
Prina trước đó. Giới nữ chiếm chủ yếu, trong
khi tuổi không có ý nghĩa trong nghiên cứu
của chúng tôi. Các bệnh đồng mắc và việc
sử dụng kháng sinh trước đó cũng không có
ý nghĩa trong khi vừa nhập viện trong thời
gian gần đây lại là yếu tố nguy cơ. Điều đáng
ghi nhận rằng, trong nghiên cứu của chúng
tôi, tình trạng giảm tiếp xúc là yếu tố nguy
cơ độc lập. Trên 50% số bệnh nhân PES
trong nghiên cứu của chúng tôi thỏa mãn các
tiêu chuẩn HCAP. Nhưng bệnh nhân có tình
trạng miễn dịch bình thường nhưng họ có tình
trạng toàn thân kém, cùng với tình trạng ăn
qua xông, được xem là nhậy cảm với nhiễm
PES. Chúng ta biết là hít là nguy cơ cao kết
hợp với PES, nhất là khi tình trạng ý thức
kém(24,25). Nhiều bệnh nhân viêm phổi hít
bị viêm phổi tái phát và cần điều trị kháng
sinh nhiều lần và việc này là nguyên nhân
của nhiễm PES. Trong nghiên cứu trước đây,
khi chúng tôi khảo sát yếu tố lâm sàng của
viêm phổi ở bệnh nhân phải nằm tại giường
(PS 3,4), 6,9% các trường hợp là do PES (26).
Nhận định này tỏ ra là tùy thuộc vào sự khác
nhau của đối tượng nghiên cứu cần nhắm tới ở
hai nghiên cứu. Nghiên cứu của chúng tôi và
của Prina đều là nghiên cứu cohorts đơn trung
tâm, kết quả có thể chỉ phản ánh đặc điểm của
riêng một đơn vị y tế. Trong nghiên cứu của
37
Hoâ haáp soá 11/2017
DÒCH
chúng tôi, số bệnh nhân già nhiều (tuổi trung
bình 74.8), phản ánh tuổi trong xã hội Nhật
Bản, là những người thể hiện tình trạng tri
giác kém. Tuy nhiên, AUC cả của hai nghiên
cứu của chúng tôi và PES score đều thấp. Như
vậy, chúng tôi cần phải phân tích tiếp theo về
nguy cơ nhiễm vi khuẩn kháng thuốc.
Nghiên cứu của chúng tôi có một số
hạn chế. Thứ nhất, như đã đề cập ở trên,
đây là nghiên cứu đơn trung tâm và có thể
có sai lệch về dân số. Thứ hai, có khả năng
vi khuẩn PES phân lập được không phải là
vi khuẩn gây bệnh mà chỉ là vi khuẩn quần
tập (colonize) mặc dù đã lấy ngưỡng định
lượng xác định cao. Chúng tôi đã xác định vi
khuẩn gây bệnh bằng các tiêu chuẩn vi trùng
học chặt chẽ. Tuy nhiên, chúng tôi luôn cho
rằng khó để kết luận rằng vi khuẩn phân lập
được là tác nhân gây bệnh trên bệnh nhân
HCAP (27). Đã có thông báo rằng nhiễm
khuẩn đường thở tái diễn đưa đến sự quần tập
(colonization) P.aeruginosa hoặc MRSA ở
đường hô hấp dưới (28). Thứ ba, tần suất gặp PES,
nhất là ESBL (+) Enterobacteriaceae là tương
đối thấp trên bệnh nhân có tình trạng miễn dịch
bình thường, như vậy chúng tôi không thể phân
tích nguy cơ cho từng vi khuẩn riêng biệt. Thứ
4, chúng tôi không thể phân tích tác động của
việc điều trị kháng sinh trước đó bởi vì chúng
tôi không có thông tin cụ thể về việc chỉ định
kháng sinh của bác sỹ trước đó.
Để kết luận, chúng tôi tin rằng là thích hợp
để xác định PES như là tác nhân kháng thuốc
trên bệnh nhân có tình trạng miễn dịch bình
thường. Viêm phổi do PES là khó trị mặc dù
tần suất thấp. Sự thận trọng cần được lưu ý
trong điều trị đối với viêm phổi do PES, nhất
là khi bệnh nhân có tình trạng tiếp xúc kém
hoặc ăn qua xông.
Mâu thuẫn lợi ích: Tadashi Ishida nhận tiền
thù lao từ Pfizer Japan Inc. Các tác giả khác
không có mâu thuẫn lợi ích cần khai báo.
Nghiên cứu này không nhận bất kỳ một tài
trợ nào từ các cơ quan công cộng, thương mại
hoặc các bộ phận phi lợi nhuận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. The American Thoracic Society and the Infectious
Diseases Society of America. Guidelines for the
management of adults with hospital-acquired,
ventilatorassociated, and healthcare-associated
pneumonia. Am J Respir Crit Care Med 2005;
171:388-416.
2. Ewig S, Welte T, Chastre J, Torres A. Rethinking
the concepts of communityacquired pneumonia and
health-care-associated pneumonia. Lancet Infect
Dis 2010;10:279e87.
3. Ewig S, Welte T, Torres A. Is healthcare-associated
pneumonia a distinct entity needing specific
therapy? Curr Opin Infect Dis 2012; 25:166-75.
4. Prina E, Ranzani OT, Polverino E, Cill_oniz C,
Ferrer M, Fernandez L, et al. Risk factors associated
with potentially antibiotic-resistant pathogens in
community-acquired pneumonia. Annals ATS 2015;
12:153-60.
5. Oken MM, Creech RH, Tormey DC, Horton J, Davis
TE, McFadden ET, et al. Toxicity and response
criteria of the Eastern Cooperative Oncology Group.
Am J Clin Oncol 1982; 5:649-55.
6. Fine MJ, Auble TE, Yealy DM, Hanusa BH, Weissfeld
LA, Singer DE, et al. A prediction rule to identify low-
risk patients with community-acquired pneumonia.
N Engl J Med 1997; 336:243-50.
7. The Japanese Respiratory Society. Guidelines for
the management of adult community-acquired
pneumonia. Tokyo: The Japanese Respiratory
Society; 2007 [in Japanese].
8. The Japanese Respiratory Society. Guidelines
for the management of nursing and healthcare-
associated pneumonia. Tokyo: The Japanese
Respiratory Society; 2011 [in Japanese].
9. Shorr AF, Zilberberg MD, Reichley R, Kan J, Hobans
A, Hoffman J, et al. Validation of a clinical score for
assessing the risk of resistant pathogens in patients
with pneumonia presenting to the emergency
department. Clin Infect Dis 2012; 54:193-8.
10. Aliberti S, Di Pasquale M, Zanaboni AM, Cosentini
R, Brambilla AM, Seghezzi S, et al. Stratifying
risk factors for multidrug-resistant pathogens in
hospitalized patients coming from the community
with pneumonia. Clin Infect Dis 2012; 54:470-8.
Hoâ haáp soá 11/2017
38
TOÅNGDÒCH
11. Aliberti S, Cilloniz C, Chalmers JD, Zanaboni AM,
Cosentini R, Tarsia P, et al. Multidrug-resistant
pathogens in hospitalized patients coming from
the community with pneumonia: a European
perspective. Thorax 2013; 68: 997-9.
12. Shindo Y, Ito R, Kobayashi D, Ando M, Ichikawa
M, Shiraki A, et al. Risk factors for drug-
resistant pathogens in community-acquired and
healthcareassociated pneumonia. Am J Respir Crit
Care Med 2013; 188:985-95.
13. Brito V, Niederman M. Healthcare-associated
pneumonia is a heterogeneous disease, and all
patients do not need the same broad-spectrum
antibiotic therapy as complex nosocomial
pneumonia. Curr Opin Infect Dis 2009; 22: 316-25.
14. Maruyama T, Fujisawa T, Okuno M, Toyoshima
H, Tsutui K, Maeda H, et al. A new strategy for
healthcare-associated pneumonia: a 2-year
prospective multicenter cohort study using risk factors
for multidrug-resistant pathogens to select initial
empiric therapy. Clin Infect Dis 2013; 57:1373-83.
15. Chalmers JD, Rother C, Salih W, Ewig S. Healthcare-
associated pneumonia does not accurately identify
potentially resistant pathogens: a systematic review
and meta-analysis. Clin Infect Dis 2014; 58:330-9.
16. Kett DH, Cano E, Quartin AA, Mangino JE, Zervos
MJ, Peyrani P, et al. Implementation of guidelines
for management of possible multidrug-resistant
pneumonia in intensive care: an observational,
multicentre cohort study. Lancet Infect Dis 2011;
11:181-9.
17. Grenier C, P_epin J, Nault V, Howson J,
Fournier X, Poirier MS, et al. Impact of guideline-
consistent therapy on outcome of patients with
healthcareassociated and community-acquired
pneumonia. J Antimicrob Chemother 2011; 66:
1617-24.
18. Carratal_a J, Mykietiuk A, Fernabdez-Sabe N,
Su_arez C, Dorca J, Verdaguer R, et al. Health
care-associated pneumonia requiring hospital
admission: epidemiology, antibiotic therapy and
clinical outcomes. Arch Intern Med 2007; 167:
1393-9.
19. Wunderlink RG. Community-acquired pneumonia
versus healthcareassociated pneumonia: the
returning pendulum. Am J Respir Crit Care Med
2013; 188:896-8.
20. Shindo Y, Ito R, Kobayashi D, Ando M, Ichikawa
M, Goto Y, et al. Risk factors for 30-day mortality
in patients with pneumonia who receive appropriate
initial antibiotics: an observational cohort study.
Lancet Infect Dis 2015; 15: 1055-65.
21. Torres A, Cilloniz C, Ferrer M, Gabarrus A, Polverino
E, Villegas S, et al. Bacteraemia and antibiotic-
resistant pathogens in community acquired
pneumonia: risk and prognosis. Eur Respir J 2015;
45:1353-63.
22. Polverino E, Torres A, Menendez R, Cilloniz C,
Valles JM, Capelastegui A, et al. Microbial aetiology
of healthcare-associated pneumonia in Spain: a
prospective, multicenter case-control study. Thorax
2013; 68:1007-14.
23. Woodhead M. Pneumonia classification and
healthcare-associated pneumonia: a new avenue
or just a cul-de-sac? Thorax 2013; 68:985-6.
24. Teramoto S, Kawashima M, Komiya K, Shoji S.
Health-care-associated pneumonia is primarily due
to aspiration pneumonia. Chest 2009; 136:1702-3.
25. Pick N, McDonald A, Bennett N, Litsche M, Dietsche
L, Legerwood R, et al. Pulmonary aspiration in
a long-term care setting: clinical and laboratory
observations and analysis of risk factors. J Am
Geriatr Soc 1996; 44:763-8.
26. Ishida T, Tachibana H, Ito A, Ikeda S, Furuta
K, Nishiyama A, et al. Clinical characteristics of
pneumonia in bedridden patients receiving home
care; a 3-year prospective observational study. J
Infect Chemother 2015; 21:587-91.
27. Ishida T, Tachibana H, Ito A, Yoshioka H, Arita M,
Hashimoto T. Clinical characteristics of nursing
and healthcare-associated pneumonia: a Japanese
variant of healthcare-associated pneumonia. Intern
Med 2012; 51:2537-44.
28. Angrill J, Aguisti C, Celis RD, Fiella X, Rano A, Elena
M, et al. Bronchial inflammation and colonization in
patients with clinically stable bronchiectasis. Am J
Respir Crit Care Med 2001; 164:1628-32.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
giao_trinh_ho_hap.pdf