Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, hiện Việt Nam cũng đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức. Nếu như giai đoạn trước đây, vai trò của Việt Nam chủ yếu
là nước nhận tài trợ và hỗ trợ, thì trong giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam cần phát huy
vị thế mới của một đối tác tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế. Thí dụ như
trong lĩnh vực hóa chất và chất thải, ngoài các nội dung nâng cao năng lực quản lý, rà
soát thể chế và chính sách, các yêu cầu của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) đối với các
đề xuất dự án đòi hỏi những kết quả cụ thể trong việc loại bỏ các hóa chất ô nhiễm hữu
cơ khó phân hủy và chất thải điện tử. Nhận thức về hợp tác quốc tế về môi trường có
lúc có nơi còn chưa thật sự đầy đủ, còn tồn tại quan điểm cho rằng hướng hợp tác quốc163
tế đơn thuần là tìm kiếm nguồn tài trợ và chỉ tham gia hợp tác khi nguồn tài trợ rõ ràng,
cụ thể. Tư duy này, phần nào cản trở phát triển tính chủ động, tính chiến lược trong một
số hoạt động hợp tác quốc tế thời gian qua
Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về môi trường trong thời gian
tới, chúng ta thay đổi tư duy về hợp tác quốc tế, chuyển từ quan niệm thụ động tiếp
nhận viện trợ sang chủ động hội nhập, sẵn sàng cùng tham gia, chia sẻ trách nhiệm và
quyền lợi. Tăng cường đầu tư tài lực và nhân lực cho hợp tác quốc tế về môi trường; bố
trí kinh phí để thực hiện các sáng kiến, các sự kiện do Việt Nam chủ trì, tiến tới cử đại
diện Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế về môi trường. Xây dựng chiến lược hợp
tác quốc tế của ngành; xác định các định hướng hợp tác chiến lược, tập trung vào những
vấn đề vừa giải quyết nhu cầu trong nước vừa đóng góp giải quyết các vấn đề môi
trường toàn cầu và khu vực, nhất là chú trọng những vấn đề mới mà Việt Nam có lợi
thế hiện nay
60 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Kinh tế môi trường (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thao, du lịch.
(4.6) Đến các ngành nghề:
- Công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi, thủ công nghiệp,
dịch vụ thương mại, các ngành nghề khác...
(4.7) Đến những sự cố, dự báo rủi ro có thể:
- Dự báo về những sự cố có thể xảy ra, những rủi ro có thể gặp phải, những tai
biến môi trường của dự án (vị trí, quy mô, công nghệ, thiết kế thi công, quá trình sản
xuất, các nguyên nhân khác...)
(4.8) Đánh giá và dự đoán tác động đến các nguồn? tài nguyên không tái tạo của
quốc gia (các nguồn lực)
- Tài nguyên rừng, tài nguyên sinh vật, hệ sinh thái, các nguồn nước, các vùng
nhiên liệu, nguyên liệu, di tích lịch sử hang động, khu giải trí, khu lưu trữ, tập quán sản
xuất, văn hoá, kinh tế - xã hội ...
(4.9) Đánh giá tổn thất chung của dự án:
135
- Tổng hợp các chỉ tiêu.
- Phân tích lợi, hại (được, mất).
- Phân tích hiệu quả của dự án.
(5) Kết luận:
- Đánh giá chung về mức độ tin cậy của dự án về đầu tư thương mại.
- Cần phải liên tục, nghiên cứu thêm những phần nào có kết luận tin cậy hơn.
- Dự án cần phải điều chỉnh những gì.
5.3.3. Nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường
Nội dung của ĐTM cụ thể tuỳ thuộc vào: nội dung và tính chất của hoạt động
phát triển, tính chất và thành phần của môi trường chịu tác động của hoạt động phát
triển, yêu cầu và khả năng thực hiện đánh giá.
Không thể có một khuôn mẫu cố định về ĐTM chung cho mỗi nước trên thế giới,
cũng như chung cho mọi hoạt động phát triển tại một nước.
Nội dung chính của báo cáo đánh giá tác động môi trường được quy định tại Điều
22 Luật bảo vệ môi trường 2014 như sau:
(1) Xuất xứ của dự án, chủ dự án, cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án;
phương pháp đánh giá tác động môi trường.
(2) Đánh giá việc lựa chọn công nghệ, hạng mục công trình và các hoạt động của
dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường.
(3) Đánh giá hiện trạng môi trường tự nhiên, kinh tế - xã hội nơi thực hiện dự án,
vùng lân cận và thuyết minh sự phù hợp của địa điểm lựa chọn thực hiện dự án.
(4) Đánh giá, dự báo các nguồn thải và tác động của dự án đến môi trường và
sức khỏe cộng đồng.
(5) Đánh giá, dự báo, xác định biện pháp quản lý rủi ro của dự án đến môi trường
và sức khỏe cộng đồng.
(6) Biện pháp xử lý chất thải.
136
(7) Các biện pháp giảm thiểu tác động đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.
(8) Kết quả tham vấn.
(9) Chương trình quản lý và giám sát môi trường.
(10) Dự toán kinh phí xây dựng công trình bảo vệ môi trường và thực hiện các
biện pháp giảm thiểu tác động môi trường.
(11) Phương án tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường.
5.3.4. Phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo đánh giá tác động môi
trường đã được chỉnh sửa theo yêu cầu của cơ quan thẩm định, thủ trưởng hoặc người
đứng đầu cơ quan thẩm định có trách nhiệm phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi
trường; trường hợp không phê duyệt phải trả lời cho chủ dự án bằng văn bản và nêu rõ
lý do.
Quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường là căn cứ để cấp có
thẩm quyền thực hiện các việc sau:
- Quyết định chủ trương đầu tư dự án đối với các đối tượng quy định tại Điều 18
của Luật này trong trường hợp pháp luật quy định dự án phải quyết định chủ trương đầu
tư;
- Cấp, điều chỉnh giấy phép thăm dò, giấy phép khai thác khoáng sản đối với dự
án thăm dò, khai thác khoáng sản;
- Phê duyệt kế hoạch thăm dò, kế hoạch phát triển mỏ đối với dự án thăm dò,
khai thác dầu khí;
- Cấp, điều chỉnh giấy phép xây dựng đối với dự án có hạng mục xây dựng công
trình thuộc đối tượng phải có giấy phép xây dựng;
- Cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án không thuộc đối tượng quy định tại
các điểm a, b, c và d khoản này.
137
5.3.5. Trách nhiệm thực hiện và kiểm tra thực hiện các nội dung trong báo cáo
đánh giá tác động môi trường
Theo quy định, sau khi báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án được
phê duyệt, bên cạnh việc chấp hành các quy định ghi trong báo cáo ĐTM; quy định tại
Điều 26 và Điều 27 Luật Bảo vệ môi trường; Theo quy định tại Điều 16, Nghị định
18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính Phủ chủ dự án còn có trách nhiệm như sau:
- Trong trường hợp cần thiết, điều chỉnh nội dung dự án đầu tư để bảo đảm các
biện pháp, công trình bảo vệ môi trường theo yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo
đánh giá tác động môi trường.
- Lập kế hoạch quản lý môi trường của dự án trên cơ sở chương trình quản lý và
giám sát môi trường đã đề xuất trong báo cáo đánh giá tác động môi trường và niêm yết
công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tham vấn ý kiến trong quá trình thực
hiện đánh giá tác động môi trường theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Ngoài ra, chủ dự án có trách nhiệm: Thông báo bằng văn bản đến các tổ chức
nơi tiến hành tham vấn, cơ quan đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường về
kế hoạch vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải phục vụ giai đoạn vận hành
(từng giai đoạn hoặc toàn bộ dự án) trước khi tiến hành vận hành thử nghiệm ít nhất
mười (10) ngày làm việc. Thời gian vận hành thử nghiệm không quá sáu (06) tháng;
việc kéo dài thời gian vận hành thử nghiệm phải được sự chấp thuận của cơ quan phê
duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.
- Lập, phê duyệt và thực hiện kế hoạch thu dọn vệ sinh lòng hồ trước khi tích
nước trong trường hợp dự án có nội dung đầu tư xây dựng hồ chứa thủy lợi hoặc hồ
chứa thủy điện; thực hiện việc tích nước sau khi được cơ quan phê duyệt báo cáo đánh
giá tác động môi trường kiểm tra, chấp thuận bằng văn bản.
- Đối với các trường hợp quy định tại cột 4 Phụ lục II Nghị định 18/2015/NĐ-
CP, chủ dự án phải báo cáo kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi trường phục vụ
giai đoạn vận hành dự án trên cơ sở báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê
duyệt và các văn bản đề nghị điều chỉnh đã được chấp thuận (nếu có) gửi cơ quan phê
duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường để kiểm tra, xác nhận hoàn thành trước khi
138
đưa dự án vào vận hành chính thức. Đối với dự án đầu tư có nhiều giai đoạn, việc báo
cáo kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành dự
án được thực hiện theo từng giai đoạn của dự án;
- Báo cáo bằng văn bản và chỉ được thực hiện những thay đổi liên quan đến phạm
vi, quy mô, công suất, công nghệ sản xuất, các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường
của dự án sau khi có ý kiến chấp thuận của cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động
môi trường.
Bên cạnh những trách nhiệm trên, chủ dự án còn có trách nhiệm thực hiện các
nội dung quy định tại Điều 10, Thông tư số số 27/2015/TT-BTNMT, gồm:
- Lập kế hoạch quản lý môi trường trên cơ sở chương trình quản lý và giám sát
môi trường đã đề xuất trong báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt;
trường hợp có thay đổi chương trình quản lý và giám sát môi trường thì phải cập nhật
kế hoạch quản lý môi trường và gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định.
- Gửi kế hoạch quản lý môi trường đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã tham vấn
ý kiến trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường để được niêm yết công
khai trước khi khởi công xây dựng. Mẫu văn bản của chủ dự án gửi Ủy ban nhân dân
cấp xã để niêm yết công khai kế hoạch quản lý môi trường thực hiện theo quy định.
- Thông báo kế hoạch vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải đến
các tổ chức đã tiến hành tham vấn và cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi
trường theo mẫu quy định; tổ chức vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải
đồng thời với quá trình vận hành thử nghiệm dự án. Trường hợp gây ra sự cố môi trường
thì phải dừng ngay hoạt động vận hành thử nghiệm và báo cáo kịp thời tới cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền để hướng dẫn giải quyết; chịu trách nhiệm khắc phục sự cố
môi trường, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao,
cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung tiếp nhận dự án đầu tư không phù
hợp ngành nghề thu hút đầu tư trong báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê
duyệt của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng chưa đến mức phải lập lại báo cáo đánh
giá tác động môi trường quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 18/2015/NĐ-
139
CP, chủ đầu tư dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phải có văn bản giải trình gửi cơ quan đã
phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và chỉ thực hiện các thủ tục tiếp nhận
đầu tư sau khi có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của cơ quan đã phê duyệt báo cáo
đánh giá tác động môi trường.
- Trường hợp có thay đổi chủ dự án, chủ dự án mới có trách nhiệm tiếp tục thực
hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường đã phê duyệt.
140
CHƯƠNG 6: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG
6.1. Nhận thức chung quản lý nhà nước về môi trường
6.1.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về môi trường
- Tầm quan trọng của tài nguyên vì nó là yếu tố của môi trường. Tài nguyên là
hữu hạn, vì vậy cần phải sử dụng tiết kiệm. Nhưng sử dụng tiết kiệm là việc khó, bất
lợi cho người sử dụng nên nói chung việc sử dụng tài nguyên có xu hướng lãng phí và
dễ xảy ra tranh chấp.
- Bảo vệ tài nguyên và môi trường là sự nghiệp của toàn dân và lâu dài, đòi hỏi
sự tham gia đồng bộ của nhiều ngành, nhiều địa phương và nhiều thế hệ nối tiếp nhau,
để có sự đồng bộ đó thì chỉ có nhà nước mới có khả năng tổ chức, quản lý các hoạt động
đó.
- Có một số dạng môi trường mà việc bảo vệ nó không chỉ cần tính thống nhất
hoạt động của cả một quốc gia mà đòi hỏi cần có sự thống nhất hành động của cả khu
vực hay toàn cầu. Vì vậy chỉ có nhà nước nhân danh cộng đồng quốc gia mới có thể
tham gia vào hoạt động chung của khu vực hay toàn cầu để thực hiện các chương trình
chung đó.
- Các vấn đề về ngoại ứng và hàng hóa công cộng là những nguyên nhân gây ra
thất bại thị trường. Khi tồn tại ngoại ứng và hàng hoá công cộng giá cả của sản phẩm
không phản ánh đúng giá trị xã hội của nó, vì vậy các doanh nghiệp có thể sản xuất quá
nhiều hoặc quá ít, dẫn đến không hiệu quả và gây tác động xấu đến tài nguyên và môi
trường.
- Xem xét về sở hữu tài nguyên và thành phần môi trường chúng ta đều thừa
nhận các nguồn tài nguyên và thành phần môi trường thuộc sở hữu nhà nước. Chính vì
vậy nhà nước phải thực hiện nhiệm vụ quản lý môi trường.
- Sự cần thiết còn bắt nguồn từ thực trạng khai thác, sử dụng tài nguyên và ô
nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng ở nước ta cũng như trên phạm vi toàn thế
giới hiện nay.
141
- Các bài học của các quốc gia trên thế giới cũng cho thấy rằng cần phải có sự
quản lýnhà nước về bảo vệ môi trường.
6.1.2. Các nguyên tắc quản lý môi trường
- Bảo đảm tính hệ thống: Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất hệ thống của đối
tượng quản lý. Nhiệm vụ của quản lý môi trường là trên cơ sở thu thập, tổng hợp và xử
lý thông tin về trạng thái hoạt động của đối tượng quản lý để đưa ra các quyết định quản
lý phù hợp, thúc đẩy các phần tử hoạt động đều đặn, cân đối, hài hoà nhằm hướng tới
mục tiêu đã định của hệ thống.
- Bảo đảm tính tổng hợp: Nguyên tắc này xây dựng trên cơ sở tác động tổng hợp
của hoạt động phát triển lên đối tượng quản lý. Các hoạt động sản xuất thường diễn ra
dưới nhiều hình thái rất đa dạng. Dù dưới hình thức nào, quy mô và tốc độhoạt động ra
sao, mạnh hay yếu, trực tiếp hay gián tiếp đều gây ra tác động tổng hợp lên đối tượng
quản lý. Vì vậy trong quản lý môi trường khi đưa ra các quyết định cần phải tính đến
các tác động tổng hợp và hậu quả của chúng.
- Bảo đảm tính liên tục và nhất quán: Môi trường là một hệ thống liên tục, tồn
tại, hoạt động và phát triển thông qua chu trình trao đổi vật chất, năng lượng và thông
tin chảy liên tục trong không gian và thời gian. Đặc tính này quy định tính nhất quán,
liên tục của các tác động quản lý môi trường.
- Bảo đảm tập trung dân chủ: Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của
quản lý kinh tế và xã hội. Quản lý môi trường được thực hiện ở nhiều cấp khác nhau, vì
thế cần đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ, tối ưu giữa tập trung và dân chủ trong quản lý
môi trường.
- Kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ: Các thành phần của môi
trường thường do một ngành nào đó quản lý sử dụng. Tuy nhiên các thành phần môi
trường này lại được phân bố, khai thác và sử dụng trên một địa bàn cụ thể thuộc quyền
quản lý của một cấp địa phương tương ứng. Nếu không kết hợp chặt chẽ giữa quản lý
theo ngành và theo lãnh thổ thì sẽ làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lýmôi trường.
- Kết hợp hài hoà các lợi ích: Quản lý môi trường trước hết là quản lý các hoạt
động phát triển do con người tiến hành. Con người dù là tập thể hay cá nhân đều có
142
những lợi ích, nhu cầu và nguyện vọng nhất định. Do đó một trong những nhiệm cụ của
quản lý môi trường là phải chú ý đến lợi ích của con người để khuyến khích có hiệu quả
hành vi và thái độ ứng xử phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường.
- Kết hợp hài hoà giữa quản lý tài nguyên và môi trường với quản lý kinh tế và
xã hội: Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, ngay từ đầu phải kết hợp chặt chẽ và
hài hoà giữa quản lý tài nguyên môi trường với quản lý kinh tế và xã hội thông qua việc
hoạch định chính sách và chiến lược phát triển đúng đắn, có tầm bao quát và tổng hợp,
gắn kết các đầu tư về môi trường vào kinh tế và xã hội.
- Tiết kiệm và hiệu quả: Tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt liên quan chặt chẽ với
nhau của quản lý môi trường làm sao để các nguồn vật chất, kỹ thuật, kinh tế và tài
chính, lực lượng lao động xã hộicó thể được khai thác và sử dụng tài nguyên một
cách hợp lý nhất, bảo vệ môi trường một cách tốt nhất.
6.1.3. Cơ sở đảm bảo cho việc tiến hành quản lý môi trường
Khi xem xét cơ sở cho quản lý môi trường người ta dựa vào 4 yếu tố cơ bản sau:
- Cơ sở triết học: Trong triết học người ta coi trọng nguyên lý thống nhất của thế
giới vật chất, trong đó sự gắn bó chặt chẽ giữa tự nhiên, con người và xã hội thành một
hệ thống thống nhất, trong đó yếu tố con người giữ vai trò quan trọng. Tính thống nhất
của hệ thống “Tự nhiên-Con người-Xã hội” đòi hỏi việc giải quyết các vấn đề xã hội
phải mang tính toàn diện và hệ thống. Trong quá trình phát triển của mình, chính con
người là đã góp phần vào sự phá vỡ tất yếu khách quan là sự thống nhất biện chứng
giữa tự nhiên, con người và xã hội. Chính vì vậy con người phải tìm kiếm, nắm bắt và
giải quyết các mâu thuẫn, tính thống nhất của hệ thống này.
- Cơ sở khoa học-kỹ thuật-công nghệ: Khoa học về môi trường là lĩnh vực khoa
học mới thực sự xuất hiện và phát triển mạnh từ những năm 1960 trở lại đây làm cơ sở
cho nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm, phát hiện nguyên lý, quy luật môi trường, công
nghệ xử lý hay biện pháp phòng tránh ngăn ngừa ô nhiễm do hoạt động sản xuất, sinh
hoạt của con người gây ra.
- Cơ sở kinh tế: Hiện nay quản lý môi trường được hình thành trong bối cảnh
nền kinh tế thị trường và thực hiện điều tiết xã hội thông qua các công cụ kinh tế. Trong
143
nền kinh tế thị trường, mọi nguyên lý hoạt động được dựa trên quan hệ cung cầu của thị
trường, thông qua cạnh tranh nên hoạt động phát triển và sản xuất của cải vật chẩt diễn
ra dưới sức ép của trao đổi hàng hoá theo giá trị. Trên cơ sở đó, nhà nước đưa ra các
công cụ kinh tế để điều chỉnh và định hướng hoạt động phát triển sản xuất có lợi cho
bảo vệ môi trường.
- Cơ sở pháp lý: Đó chính là các văn bản và luật pháp quốc tế và quốc gia về bảo
vệ môi trường. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện công tác bảo vệ môi trường.
6.2. Các công cụ quản lý môi trường
6.2.1. Công cụ pháp lý
Đây là công cụ điều chỉnh vĩ mô bao gồm các văn bản về luật quốc tế và luật
quốc gia, các văn bản dưới luật, quy hoạch, kế hoạch và chính sách môi trường quốc
gia, các ngành kinh tế và các địa phương. Công cụ này còn gọi là công cụ pháp lý.
6.2.1.1. Luật pháp
- Thông thường hệ thống luật bảo vệmôi trường của một quốc gia bao gồm hai
bộ phận chính là luật chung (Luật Bảo vệ môi trường) và luật về sử dụng hợp lý các
thành phần của môi trường (luật thuỷ sản, luật rừng, luật đất đai, luật khoáng sản)
hoặc bảo vệ môi trường cụ thể ở một địa phương.
- Quy định là những văn bản dưới luật nhằm cụ thể hoá hoặc hướng dẫn thực
hiện các nội dung của luật, quy định có thể do chính phủ trung ương hay địa phương,
cơ quan lập pháp hay hành pháp ban hành. - Một trong những công cụ luật pháp được
đề cập đến nhiều chính là tiêu chuẩn môi trường, nằm trong nhóm công cụ mệnh lệnh
và kiểm soát (CAC). Đây là công cụ quan trọng và được áp dụng ởhầu hết các nước
trên thế giới.
- Ở Việt nam, Luật bảo vệ môi trường đầu tiên đã được Quốc hội thông qua ngày
27/12/1993 và có hiệu lực từ ngày 10/01/1994. Các luật có liên quan bao gồm: Luật bảo
vệ và phát triển rừng, luật tài nguyên nước, luật đất đai, luật khoáng sản, luật dầu khí,
luật hàng hải, luật thuỷsản, pháp lệnh đê điều
6.2.1.2. Quy hoạch, kế hoạch hoá bảo vệ môi trường
144
Bảo vệ môi trường là công tác được tiến hành trên quy mô lãnh thổ rộng lớn,
trong thời gian dài, có quan hệ đến nhiều ngành, nhiều người thuộc nhiều đối tượng
trong xã hội. Vì vậy công tác này chỉ có thể được thực hiện tốt trên cơ sở quy hoạch, kế
hoạch hoá.
6.2.2. Các công công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế hay còn gọi là công cụ thị trường hay các cách tiếp cận thị trường
đựơc dùng rất rộng rãi trên thế giới. Đây chính là các công cụ sử dụng sức mạnh của thị
trường để bảo vệ môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái.
Công cụ kinh tế là những chính sách, biện pháp nhằm thay đổi lợi ích, chi phí
của những hành động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường. Các công cụ kinh
tế được xây dựng trên nền tảng các quy luật kinh tế thị trường nhằm tác động đến hành
vi của người gây ô nhiễm. Các công cụ kinh tế cho phép cân nhắc, tính toán một cách
kỹ lưỡng cái gì được, cái gì mất để lựa chọn phương án phát triển có lợi cho mình và
cho môi trường. Nói một cách khác, các công cụ kinh tế là các khuyến khích về tài chính
nhằm làm cho người gây ô nhiễm tựthực hiện các hoạt động có lợi hơn cho môi trường.
(a) Thuế và phí
Các loại thuế và phí môi trường:
- Thuế, phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm
- Thuế, phí đánh vào sản phẩm mà trong và sau khi sử dụng có thể gây ô nhiễm.
- Thuế và phí cấp sai: là cấp kinh phí hoặc ưu đãi về thuế cho các sản phẩm có
ích hoặc không làm tổn hại môi trường.
- Phí hành chính để trả cho các hoạt động thực thi, giám sát, cấp giấy phép, đăng
ký
Thuế ô nhiễm tối ưu (thuế Pigou):
- Theo cách tiếp cận ô nhiễm tối ưu thứ nhất là người gây ô nhiễm phải giảm sản
lượng về mức tối ưu xã hội. Để tạo động cơ kinh tế cho người gây ô nhiễm thay đổi
mức sản lượng của mình cần phải buộc họ chịu đầy đủ chi phí xã hội của việc sản xuất
bao gồm cả chi phí cá nhân và chi phí ngoại ứng môi trường.
145
- Pigou (1877-1959 là GS kinh tế chính trị tại trường ĐH Cambridge từ 1908 đến
1944, ý tưởng về thuế ô nhiễm được đề cập lần đầu tiên vào năm 1920 trong tác phẩm
Kinh tế học phúc lợi) đã đưa ra ý tưởng về việc đánh thuế đối với những người gây ô
nhiễm.
- Đánh thuế thế nào để người sản xuất thực hiện mức sản lượng Q*:
+ Mục đích của người sản xuất là tối đa hoá lợi nhuận: MC = MR hoặc MC = P.
Nói cách khác người sản xuất sẽ sản xuất ở mức sản lượng mà tại đó MNPB = MR –
MC = 0.
+ Nếu đánh thuế t cho mỗi đơn vị sản phẩm, người sản xuất sẽ tối đa hoá lợi
nhuận khi MNPBt = MR – MC – t = 0 hay MNPB – t = 0. + Để MNPB – t = 0 tại Q*
cần đánh thuế t = MEC tại Q*
- Trong trường hợp không có ngoại ứng : NSB = TB – TC
Trong đó: NSB là lợi ích ròng xã hội
TB là tổng lợi ích do tiêu dùng hàng hoá
Hình 6.1. Thuế Pigou đối với ngoại ứng môi trường
146
TC là tổng chi phí cá nhân của việc sản xuất Điều kiện để tối đa
hoá NSB là MB = MC sẽ đạt được tại sản lượng QM (MB thể hiện đường
cầu và MC thểhiện đường cung đối với hàng hoá đó).
- Nếu có ngoại ứng, phúc lợi xã hội thay đổi : NSB = TSB – TSC
Vì không có lợi ích ngoại ứng nên TSB = TB
Do có chi phí ngoại ứng nên TSC = TC + TEC
Như vậy chúng ta muốn Max NSB = TB – (TC + TEC) (1)
Mục tiêu này sẽ đạt được nếu
𝑑𝑁𝑆𝐵
𝑑𝑄
=
𝑑𝑇𝐵
𝑑𝑄
−
𝑑𝑇𝐶
𝑑𝑄
−
𝑑𝑇𝐸𝐶
𝑑𝑄
= 0
Tức là MB – MC – MEC = 0
Hay MB = MC + MEC (2)
Khi điều kiện này thoả mãn, chúng ta sẽ đạt được mức sản lượng tối ưu xã hội
Q*, vì thế có thể viết lại phương trình (2) như sau:
MB(Q*) = MC(Q*) + MEC(Q*) = MSC(Q*) (3)
Nếu đánh thuế t*= MEC(Q*), khi đó phương trình (3) sẽ trở thành:
MB(Q*) = MC(Q*) + t* (4)
Và mục tiêu max NSB vẫn đạt được. Sau khi đánh thuế, đường cung sẽdịch
chuyển vào trong, điều này được thểhiện trên đường cung mới St = MC + t* cắt đường
cầu tại điểm E tương đương với mức sản lượng Q*.
Như vậy thuế Pigou là thuế tối ưu đánh trên mỗi đơn vị sản phẩm/ô nhiễm bằng
thiệt hại ngoại ứng cận biên ở mức ô nhiễm hiệu qủa xã hội/mức ô nhiễm tối ưu.
Thuế thải/phí thải:
- Thuế/phí thải là loại phí đánh vào lượng chất thải thực tế của người sản xuất.
Để xác định mức phí tính trên mỗi đơn vị chất thải người ta phải căn cứ vào chi phí cần
thiết để giảm đơn vị ô nhiễm đó tức là MAC. Khi áp dụng phí thải, người gây ô nhiễm
sẽ có phản ứng phù hợp nhằm tối thiểu hoá chi phí của mình.
147
Như vậy, theo cách tiếp cận ô nhiễm thứ hai, mức phí tối ưu (hay mức phí có
hiệu quả) sẽ được xác định tại mức thải W*, tại đó F = MAC = MDC. Tuy nhiên do
không có đủ thông tin về MAC và MDC nên mức quy định có thể cao hơn hoặc thấp
hơn F*, vì thế kết quả là mức thải cuối cùng không trùng với mức tối ưu W*.
Ví dụ : Một doanh nghiệp có đường MAC = 72 – 3Q (trong đó Q là lượng phát
thải), sẽ phản ứng thế nào với mức phí F = 30.
Hình 6.2. Xác định mức phí thải tối ưu
Hình 6.3. Ví dụ về phí thải và hành vi của doanh nghiệp
148
+ Khi chưa có sự can thiệp của Nhà nước, doanh nghiệp thải 24 đơn vị chất thải
mà không phải chi phí một đồng nào cho việc giảm thải.
+ Giả sử Nhà nước yêu cầu phải giảm thải triệt để 24 đơn vị và yêu cầu nộp phí
30$/đơn vị chất thải. Doanh nghiệp sẽ có những phương án lựa chọn sau đây:
Bảng 6.1. Các lượng chọn giảm thải và chi phí của doanh nghiệp
Phương án
Tổng chi phí giảm
thải
Tổng chi phí
Tổng chi phí môi
trường
Phương án 1:
Không thực hiện
giảm thải, đóng
thuế/phí thải hoàn
toàn
0 30$*24=720$ 720$
Phương án 2: giảm
thải toàn bộ để
không phải đóng
thuế/phí thải
72$*24=864$ 0 864$
Phương án 3: Nộp
phí 14 đơn vị (tại
mức MAC = F) và
thực hiện giảm thải
10 đơn vị
(30$*10)/2=150$ 30$*14=420$ 570$
+ Ở mức thải nhỏ hơn 14 đơn vị, do MAC > 30 là mức phí nên doanh nghiệp sẽ
lựa chọn nộp phí chứ không bỏ tiền ra xử lýchất thải.
+ Ở mức thải trên 14 đơn vị, doanh nghiệp sẽ thực hiện giảm thải vì chi phí cận
biên của việc giảm thải thấp hơn mức phí phải nộp.
149
- Mức thuế hiệu quả xã hội: Trong tình trạng có cạnh tranh, mức thuế càng cao
thì phát thải giảm càng nhiều nhưng cụ thể là cần phải định ra một mức thuế là bao
nhiêu? Nếu chúng ta biết hàm thiệt hại biên và hàm giảm ô nhiễm biên câu trả lời sẽ là
định mức thuế sao cho có được mức phát thải hiệu quả, như có thể thấy ở hình 4.7.
+ Chi phí thực thi thuế bao gồm hai phần: chi phí tư nhân và chi phí xã hội. Trong
đó chi phí thực thi tư nhân gồm tổng chi phí giảm ô nhiễm cộng với thuế. Chính là diện
tích d cộng với diện tích (a + b). Nhưng chi phí thực thi tư nhân không đại diện cho chi
phí nguồn lực xã hội phải gánh chịu khi áp dụng chính sách thuế. Chi phí thực thi xã
hội chỉ bao gồm những nguồn lực cần thiết để đạt mục tiêu môi trường nghĩa là không
bao gồm tiền thuế. Thuế thực sự là khoản thanh toán chuyển F O W* WM MAC Ô
nhiễm > W* : MAC F → Nộp thuế giao, là khoản
thanh toán các tác nhân gây ô nhiễm trả cho khu vực công cộng và cuối cùng là cho xã
hội, những người thụ hưởng lợi ích từ chi tiêu công, trong đó người gây ô nhiễm cũng
có thể là người thụ hưởng những lợi ích này. Như vậy chi phí thực thi xã hội là diện tích
c, là tổng chi phí giảm ô nhiễm của người gây ô nhiễm.
+ Xã hội cũng quan tâm đến lợi ích xã hội ròng của chính sách thuế, được định
nghĩa là tổng thiệt hại giảm được trừ đi chi phí thực thi xã hội.
Hình 6.4. Hành vi của chủ thể gây ô nhiễm
150
Tổng thiệt hại giảm được chính là diện tích dưới đường MDC giới hạn bởi mức
phát thải ban đầu và mức phát thải hiệu quả xã hội E*= Diện tích (c + d)
Tổng chi phí giảm ô nhiễm TAC = Diện tích (c)
Lợi ích ròng xã hội = Tổng thiệt hại giảm được - Tổng chi phí giảm ô nhiễm =
Diện tích (c + d) - diện tích (c) = Diện tích (d)
Thuế thải luôn đạt hiệu quả chi phí vì nguyên tắc cân bằng cận biên luôn thoả
mãn đối với mỗi chủ thể gây ô nhiễm (MAC = t). Nguyên tắc cân bằng cận biên luôn
thoả mãn với mọi mức thuế, ngay cả khi người quản lý không biết được MAC của mỗi
chủ thể gây ô nhiễm. Các chủ thể gây ô nhiễm sẽ tự điều chỉnh theo mức thuế để đạt
MAC = MDC (tối đa hoá lợi ích). Bất kỳ nhà sản xuất nào cũng điều chỉnh sản lượng
theo mức thuế để tối đa hoá lợi ích. Các nhà quản lý đưa ra một mức thuế nào đó, qua
một thời gian sẽ biết được hiệu quả của thuế vì vậy có thể điều chỉnh tăng hay giảm.
MAC, MDC
Lượng thải (E)
MAC
MDC
T0
0
E0
Hình 6.5. Thuế phát thải hiệu quả xã hội
151
Thuế thải và động cơ khuyến khích đổi mới công nghệ: Một trong những ưu
điểm chính của thuế thải là nó tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc đầu tư công nghệ mới
nhằm giảm chi phí giảm ô nhiễm biên (MAC). Cốt lõi của phương pháp thuếlà tạo ra
động cơ khuyến khích kinh tế để các đối tượng gây ô nhiễm tự tìm phương cách tốt nhất
nhằm cắt giảm mức phát thải, thay vì để các nhà quản lý quyết định việc này cần phải
được thực hiện như thế nào.
Hình 6.6. Thuế thải đạt hiệu quả theo nguyên tắc cân bằng biên
Lượng thải
T1
MAC2
E2
Mức thuế
Lượng thải E1 0
Hình 6.7 . Khuyến khích đầu tư công nghệ kiểm soát ô nhiễm mới dưới tác
động của thuế thải
MAC1
Emax
a
b
c
d e
152
(b) Trợ cấp
Trợ cấp thường được sử dụng trong những trường hợp và khu vực khó khăn về
kinh tế. Trợ cấp của nhà nước có thể áp dụng cho các hoạt động tạo ra ngoại ứng tích
cực như trồng rừng, xử lý ô nhiễmNguyên nhân dẫn đến trợ cấp là do trong các hoạt
động này lợi ích cá nhân thường nhỏ hơn lợi ích xã hội, do đó chi phí mà các cá nhân
chấp nhận bỏ ra để tiến hành các hoạt động trên không đạt mức cần thiết đối với xã hội.
Nhà nước có thể điều chỉnh mức độ hoạt động cá nhân về mức hiệu quả xã hội
thông qua mức trợ cấp được xác định đúng bằng chênh lệch giữa lợi ích cận biên xã hội
và lợi ích cận biên cá nhân (tức bằng lợi ích ngoại ứng cận biên).
Nhà nước trả cho chủ thể gây ô nhiễm một khoản tiền cho mỗi đơn vị giảm thải.
Tiền trợ cấp giảm thải trong trường hợp này trở thành chi phí cơ hội của việc giảm thải
và có tác dụng khuyến khích tương tự như thuế thải.
Một số vấn đề cần chú ý khi thực hiện trợ cấp giảm thải:
+ Cần có nguồn tài chính để thực hiện
+ Có thể làm tăng lượng thải vì nó khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất mới.
+ Cần quan trắc nghiêm ngặt để biết được lượng giảm thải của mỗi nguồn. Đây
chính là khó khăn rất lớn.
W*
Mức trợ cấp giảm thải
Lượng thải Wm 0
Hình 6.8 . Mức trợ cấp và hành vi giảm thải của chủ thể gây ô nhiễm
MAC
Trợ cấp
153
6.2.3. Các công cụ khoa – giáo trong quản lý môi trường
- Giáo dục môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính
quy và không chính quy nhằm giúp con người hiểu biết và có kỹ năng tham gia vào các
hoạt động bảo vệ môi trường.
+ Mục đích của giáo dục môi trường là nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ
năng vào việc giữ gìn, bảo tồn và sử dụng môi trường theo cách bền vững cho cả thế hệ
hiện tại và tương lai.
+ Giáo dục môi trường có 3 nội dung chủ yếu: (1) Đưa giáo dục môi trường vào
trường học; (2) Cung cấp thông tin cho những người ra quyết định; và (3) Đào tạo
chuyên gia về môi trường.
- Truyền thông môi trường: được hiểu là quá trình trao đổi thông tin, ý tưởng,
tình cảm, suy nghĩ và thái độ giữa các cá nhân hoặc nhóm người về tài nguyên và bảo
vệ môi trường.
+ Mục tiêu của truyền thông môi trường nhằm: (1) Thông tin cho người bị tác
động bởi các vấn đề môi trường biết tình trạng của họ từ đó giúp họ quan tâm đến việc
tìm kiếm các giải pháp khắc phục; (2) Huy động các kinh nghiệm, kỹnăng, bí quyết địa
phương tham gia vào việc bảo vệ môi trường; (3) Thương lượng, hoà giải các xung đột,
khiếu nại, tranh chấp về môi trường giữa các tổ chức và người dân; (4) Tạo cơ hội cho
mọi thành phần trong xã hội tham gia vào việc bảo vệ môi trường, xã hội hoá công tác
bảo vệ môi trường.
+ Truyền thông môi trường có thể được thực hiện qua các cách sau: (1) Chuyển
thông tin tới từng cá nhân qua việc tiếp xúc trực tiếp, gửi thư hoặc điện thoại; (2) Chuyển
thông tin tới các nhóm thông qua hội thảo, tập huấn, họp nhóm;(3) Chuyển thông tin
qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, TV, đài, pano, áp phích, phim
ảnh; (4) Tiếp cận truyền thông thông qua những buổi biểu diễn lưu động, hội diến,
các chiến dịch, các lễ hội, ngày kỷ niệm
154
6.3. Quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam
6.3.1. Quan điểm của Đảng về quản lý và bảo vệ môi trường
Quan điểm nhất quán xuyên suốt trong các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
về BVMT đó là: “BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố
bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc
phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh
tế quốc tế của nước ta” và “Đầu tư cho BVMT là đầu tư cho phát triển bền vững”.
Nếu như tại Đại hội IX, việc xây dựng cơ sở khoa học cho việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên, BVMT, phòng tránh giảm nhẹ thiên tai được giao thành trách nhiệm
của khoa học tự nhiên và chính sách BVMT được gắn với các chính sách xã hội khác
thì đến Đại hội X, lần đầu tiên trong báo cáo về Phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010 trình Đại hội đưa ra chỉ tiêu về môi trường (độ
che phủ rừng; tỷ lệ dân cư được dùng nước sạch; chỉ tiêu về xử lý chất thải) và “tăng
cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên” được xác định là
một trong sáu nhiệm vụ thuộc “định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng”.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI một lần nữa thể hiện quan điểm
nhất quán của Đảng đối với công tác BVMT: “BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong
những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa
phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ
BVMT”.
Để cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương BVMT trong các văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc, Đảng cũng đã ban hành một hệ thống các chỉ thị, nghị quyết đồng bộ,
nhất quán tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, đổi mới trong lãnh
đạo, chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện công tác BVMT trong toàn đảng và toàn xã
hội như: Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 Bộ Chính trị (Khóa IX) “Về
BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Nghị quyết số 41-NQ/TW là
một bước quan trọng trong việc thể hiện các quan điểm của Đảng về BVMT ở nước ta
trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước.
155
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 21/1/2009, Ban Bí thư đã
ban hành Chỉ thị số 29-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41-
NQ/TW. Chỉ thị số 29-CT/TW yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện triệt để các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết số 41-
NQ/TW nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác BVMT. Chỉ thị một lần nữa
nhấn mạnh một số nhiệm vụ quan trọng cần tập trung thực hiện, trong đó có nhiệm vụ
như: “Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực
BVMT...”; “Quy định các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về BVMT; Không
phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư tiềm ẩn nguy cơ
cao đối với môi trường; Không đưa vào vận hành, sử dụng các khu công nghiệp, khu
công nghệ cao, khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất mới không đáp ứng các
yêu cầu về BVMT”.
Trước nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và những diễn biến phức
tạp của biến đổi khí hậu, Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI đã ban hành Nghị quyết số
24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên
và BVMT”. Quan điểm về BVMT một lần nữa được khẳng định “Môi trường là vấn đề
toàn cầu. BVMT vừa là mục tiêu vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững.
Tăng cường BVMT phải theo phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy
luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi
trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục
tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến
sức khỏe cộng đồng”. Đồng thời đưa ra những mục tiêu rất cụ thể về BVMT: “Không
để phát sinh và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; 70%
lượng nước thải ra môi trường lưu vực các sông được xử lý; tiêu hủy, xử lý trên 85%
chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế; tái sử dụng hoặc tái chế trên 65% rác thải sinh
hoạt. Phấn đấu 95% dân cư thành thị và 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch,
hợp vệ sinh. Kiểm soát an toàn, xử lý ô nhiễm môi trường do hậu quả chiến tranh. Nâng
cao chất lượng môi trường không khí ở các đô thị, khu vực đông dân cư. Cải thiện rõ
rệt môi trường làng nghề và khu vực nông thôn. Quản lý khai thác hợp lý, sớm chấm
dứt khai thác rừng tự nhiên, nâng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên lên trên 3 triệu
ha; nâng độ che phủ của rừng lên trên 45%”.
156
6.3.2. Mục tiêu và định hướng quản lý môi trường của Nhà nước đến năm 2020
tầm nhìn đến năm 2030
Nhằm định hướng và từng bước kiểm soát ô nhiễm đưa hoạt động bảo vệ môi
trường phát triển bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định 1261/QĐ-
TTg ngày 5/9/2012 về Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030, Bộ TN&MT đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 166/QĐ- TTg ngày 21/1/2014 về Kế hoạch thực hiện Chiến lược Bảo vệ môi
trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đến nay, sau 2 năm triển khai,
Chiến lược đã gặt hái được những kết quả quan trọng góp phần cho sự phát triển môi
trường bền vững.
- Nâng cao chất lượng giải quyết “điểm đen” ô nhiễm
Theo báo cáo của Bộ TN&MT, tới nay, Bộ đã nhận được 6 báo cáo của các Bộ,
ngành, 37 báo cáo của các địa phương gửi về tình hình triển khai thực hiện Chiến lược
và Kế hoạch Bảo vệ môi trường quốc gia. Với chức năng nhiệm vụ thực hiện 23 chỉ tiêu
bảo vệ môi trường, Bộ TN&MT đã tích cực thực hiện một số chỉ tiêu, trong đó, nổi bật
là việc đạt 100% so với mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2011 - 2015 với tỷ lệ xử lý triệt để
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ - TTg, đạt
38% mục tiêu so với tỷ lệ xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
theo Quyết định số 1788/QĐ – TTg. Ngoài ra, nâng tỷ lệ xử lý chất thải rắn y tế đạt
chuẩn từ 91% năm 2011 lên 96% năm 2015.
Sau 2 năm triển khai thực hiện Chiến lược và hơn 1 năm thực hiện Kế hoạch,
các Bộ, ngành và địa phương đã chủ động ban hành các chương trình, kế hoạch về bảo
vệ môi trường nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề môi trường cấp bách tại địa bàn.
Song, việc xây dựng và ban hành các chương trình, kế hoạch hành động nhằm cụ thể
hóa các nội dung của Quyết định số 1216/QĐ-TTg và Quyết định số 166/QĐ-TTg chưa
được triển khai đồng đều tại các Bộ, ngành và địa phương. Tính đến tháng 9/2015 mới
có khoảng 53,1% các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố đã báo cáo về xây dựng và ban
hành kế hoạch để triển khai thực hiện. Đến nay, sau gần 2 năm triển khai thực hiện, mới
có 37/63 các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành Kế hoạch triển khai
157
thực hiện (đạt tỷ lệ 58,7%), 5 Bộ, ngành đã báo cáo tình hình triển khai thực hiện các
nhiệm vụ được giao chủ trì thực hiện.
- Chủ động phòng ngừa phát sinh nguồn ô nhiễm
Nhằm nâng cao chất lượng đánh giá môi trường chiến lược, đảm bảo các yêu cầu
về bảo vệ môi trường được lồng ghép trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương
trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, nâng cao hiệu quả của đánh giá tác
động môi trường trong việc sàng lọc, ngăn ngừa công nghệ sản xuất lạc hậu, gây ô
nhiễm môi trường trong các dự án đầu tư phát triển”, thời gian qua, Bộ TN&MT đã chú
trọng nâng cao chất lượng công tác đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), đánh giá
tác động môi trường (ĐTM) góp phần phòng ngừa ô nhiễm, giảm thiếu các tác động
xấu đối với môi trường. Nội dung, quy trình, thủ tục thẩm định ĐMC, ĐTM được quy
định rõ ràng, minh bạch hơn theo hướng cải cách hành chính nhưng vẫn đảm bảo yêu
cầu về chất lượng của công tác thẩm định. Đã bổ sung một số điểm mới quan trọng
trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 như: công cụ quy hoạch bảo vệ môi trường; rà
soát lại danh mục các đối tượng phải lập ĐMC/ĐTM; quy định yêu cầu về chứng chỉ tư
vấn ĐMC/ĐTM; hình thành danh mục dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ không phải lập kế hoạch bảo vệ môi trường. Đặc biệt, đã bổ sung yêu cầu lồng
ghép nội dung về biến đổi khí hậu trong báo cáo ĐMC và nội dung đánh giá sức khỏe
cộng đồng trong ĐTM.
Để nâng cao chất lượng công tác ĐMC và ĐTM, các hướng dẫn kỹ thuật chuyên
ngành đã được xây dựng và ban hành. Bên cạnh việc triển khai các hoạt động nhằm
nâng cao chất lượng báo cáo ĐMC, ĐTM, Bộ TN&MT đã thường xuyên tổ chức các
lớp đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực ĐMC. Đã có hơn 700 cán bộ của các Bộ,
ngành, địa phương, các cơ quan tư vấn, nghiên cứu, đào tạo tham gia học tập.
Việc yêu cầu kiểm tra, xác nhận các công trình bảo vệ môi trường trước khi dự
án đi vào hoạt động tiếp tục được quy định cụ thể, rõ đối tượng hơn trong Luật Bảo vệ
môi trường năm 2014 nhằm đảm bảo các dự án phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi
trường theo báo cáo ĐTM, kế hoạch bảo vệ môi trường đã được phê duyệt, xác nhận.
Theo đó, các dự án đầu tư lớn, có nguy cơ tác động xấu đến môi trường phải được cơ
158
quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, xác nhận các công trình bảo vệ môi trường, mới
được phép đi vào hoạt động chính thức.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật
Trong những năm qua, việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật
về bảo vệ môi trường tiếp tục được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Hệ
thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã có những bước phát triển mới với Bộ TN&MT
đã xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2014, sửa
đổi và thay thế Luật BVMT năm 2005 với nhiều quy định mới đề cập đến những vấn
đề nóng đang đặt ra trong công tác bảo vệ môi trường giai đoạn hiện nay. Nhiều điểm
được bổ sung như vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy tăng trưởng xanh, cơ
sở, sản phẩm thân thiện với môi trường gắn với phát triển bền vững; xây dựng quy
hoạch môi trường; bổ sung quy định nội dung quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường,
cụ thể hóa quyền hạn và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp và cộng
đồng dân cư trong bảo vệ môi trường.
Ngay sau khi Luật BVMT năm 2014 được thông qua, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng, trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ ban hành 8 văn bản quy định chi tiết hướng dẫn, thi hành Luật; đã ban
hành theo thẩm quyền 10 trong tổng số 31 Thông tư, 2 Thông tư liên tịch dự kiến xây
dựng, ban hành để quy định chi tiết thi hành Luật. Các địa phương đã ban hành nhiều
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức triển khai Luật; xây dựng và triển khai thực hiện
các chương trình, kế hoạch về bảo vệ môi trường 5 năm và hàng năm, các quy định về
bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh, thành phố; quy hoạch mạng lưới quan trắc môi
trường trên địa bản tỉnh, thành phố.
- Đa dạng hóa nguồn đầu tư cho bảo vệ môi trường
Một trong những nhiệm vụ được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm chú
trọng đó là việc tích cực và đa dạng hóa đầu tư cho bảo vệ môi trường. Theo đó, tốc độ
tăng chi cho sự nghiệp môi trường, năm sau cao hơn năm trước, ở cả Trung ương và địa
phương, cụ thể: Năm 2011 chi ngân sách Nhà nước (NSNN) cho sự nghiệp môi trường
so với năm 2010 tăng 16,37% (năm 2010: 6.230 tỷ đồng); năm 2012 so với năm 2011
tăng 24,8%; năm 2013 so với năm 2012 tăng 8%; năm 2014 so với năm 2013 tăng 2,1%,
159
năm 2015 so với năm 2014 tăng 14,2%. Kinh phí sự nghiệp môi trường đã đáp ứng yêu
cầu hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường theo Luật BVMT, từ đó, góp phần
thực hiện Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đạt một số kết quả nhất định.
Trong các năm vừa qua, công tác xã hội hóa trong lĩnh vực sự nghiệp môi trường
bước đầu được triển khai trong một số hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải;
xử lý nước thải sinh hoạt, chăn nuôi; xử lý chất thải; vệ sinh môi trường công cộng, làng
sinh thái; cải thiện môi trường làng nghề... Tại một số địa phương, cộng đồng dân cư
thực hiện xã hội hóa bảo vệ môi trường dưới nhiều hình thức. Một số mô hình thực hiện
xã hội hóa bảo vệ môi trường trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp
đã có nhưng chưa mạnh, mặc dù, các mô hình này đã và đang được xây dựng với sự hỗ
trợ của Nhà nước, tài trợ của nước ngoài (đặc biệt là các mô hình cải tiến quản lý kết
hợp yếu tố môi trường ở các xí nghiệp công nghiệp, áp dụng sản xuất sạch hơn, xây
dựng mô hình sinh thái).
6.3.3. Bộ máy quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam hiện nay
Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay bao gồm
những nội dung sau:
- Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
môi trường.
- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách, chương trình, đề án, quy
hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc; định kỳ đánh giá hiện trạng môi
trường, dự báo diễn biến môi trường.
- Xây dựng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường; thẩm định
báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác
động môi trường và kiểm tra, xác nhận các công trình bảo vệ môi trường; tổ chức xác
nhận kế hoạch bảo vệ môi trường.
160
- Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh
học; quản lý chất thải; kiểm soát ô nhiễm; cải thiện và phục hồi môi trường. 6. Cấp, gia
hạn, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về môi trường.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường; thanh tra
trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo
vệ môi trường; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Đào tạo nhân lực khoa học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên truyền, phổ
biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường.
- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện ngân sách nhà nước
cho các hoạt động bảo vệ môi trường.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Về tổ chức bộ máy quản lý môi trường, năm 1992 Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường được thành lập, mà tiền thân của nó là Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước,
với chức năng là quản lý Nhà nước về môi trường. Các sở Khoa học - Công nghiệp -
Môi trường các địa phương sau đó được thành lập với chức năng là quản lý Nhà nước
về môi trường ở địa phương. Do yêu cầu nhiệm vụ của công tác quản lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường phù hợp với xu thế phát triển của đất nước
trong thời kỳ mới, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
nam khoá XI, ngày 05 tháng 8 năm 2002 đã quyết định thành lập Bộ tài nguyên và môi
trường trên cơ sở 3 đơn vị chủ yếu hiện có gồm cục môi trường; tổng cục địa chính và
tổng cục khí tượng thuỷ văn. Cho đến nay, ở Việt Nam đã hình thành hệ thống tổ chức
Quản lý Nhà nước về Môi trường từ trung ương đến địa phương.
161
6.3.4. Việt Nam hợp tác với quốc tế trong quản lý môi trường
Hợp tác quốc tế về môi trường là một trong những nội dung quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường (BVMT) được đề cập trong các Luật BVMT, và là giải pháp quan
trọng trong các chiến lược, kế hoạch hành động quốc gia về môi trường. Trong hơn 20
năm qua, hợp tác quốc tế về môi trường đã hình thành và phát triển mạnh mẽ, đóng góp
tích cực cho thành công chung của các hoạt động BVMT ở nước ta. Mỗi giai đoạn phát
triển, hợp tác quốc tế về môi trường có những phạm vi, đặc thù và hình thức khác nhau.
Cụ thể là, trong những năm 90 thế kỷ trước, hợp tác quốc tế về môi trường chủ yếu
được thực hiện qua các dự án hợp tác song phương với Thụy Điển, Ca-na-đa, với nội
dung tập trung vào nâng cao năng lực xây dựng thể chế và hình thức là tiếp nhận viện
trợ.
Đến nay, hợp tác đã được mở rộng thông qua nhiều đối tác song phương như:
Đan Mạch, Nhật Bản, Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Trung Quốc cũng như các tổ
chức quốc tế đa phương (Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Chương trình Môi
trường Liên hợp quốc, Quỹ Môi trường toàn cầu, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát
triển châu Á, ASEAN). Nội dung hợp tác đã đi vào chiều sâu, bao gồm hầu hết các lĩnh
vực quản lý môi trường như đánh giá tác động môi trường, kiểm soát ô nhiễm, xử lý ô
Hình 6.9. Cơ cấu tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam
162
nhiễm hóa chất tồn lưu, bảo tồn đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu Hình thức hợp tác
được chuyển đổi từ tiếp nhận viện trợ, sang quan hệ đối tác cùng hợp tác giải quyết vấn
đề
Trong giai đoạn tới, hợp tác quốc tế về môi trường có những bối cảnh mới, với
những thuận lợi, khó khăn, đòi hỏi phải có định hướng và giải pháp phù hợp với Việt
Nam; qua đó tiếp tục hội nhập sâu rộng hơn và từng bước khẳng định vị thế của nước
ta trên trường quốc tế trong lĩnh vực môi trường. Về thuận lợi, trong tiến trình hội nhập
quốc tế nói chung và hợp tác quốc tế về môi trường nói riêng luôn được coi là một nội
dung, giải pháp quan trọng được thể hiện trong các chủ trương, đường lối của Đảng,
Nhà nước và các văn bản luật, dưới luật trong lĩnh vực này. Điển hình như: Luật Bảo
vệ môi trường (năm 2014) có ba điều thuộc Chương 17, quy định nội dung hợp tác quốc
tế về bảo vệ môi trường. Trong Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 2011
- 2020, cũng nêu rõ “Thúc đẩy hội nhập và tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi
trường”...
Ngoài ra, Việt Nam có nhiều vấn đề môi trường có tính toàn cầu và khu vực, vì
vậy đã nhận được sự hỗ trợ của quốc tế để triển khai nghiên cứu, đề ra các giải pháp
trước tình trạng đa dạng sinh học tiếp tục suy giảm, biến đổi khí hậu đang ngày càng
gia tăng; ô nhiễm hóa chất, chất thải tiếp tục đe dọa hệ sinh thái và sức khỏe con người
Các vấn đề môi trường này đều là vấn đề nóng ở Việt Nam, là những chủ đề trọng tâm
cho các dự án nghiên cứu điển hình cho thế giới. Việt Nam cũng đã có kinh nghiệm và
năng lực cơ bản cần thiết để thực hiện các dự án hợp tác quốc tế
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, hiện Việt Nam cũng đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức. Nếu như giai đoạn trước đây, vai trò của Việt Nam chủ yếu
là nước nhận tài trợ và hỗ trợ, thì trong giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam cần phát huy
vị thế mới của một đối tác tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế. Thí dụ như
trong lĩnh vực hóa chất và chất thải, ngoài các nội dung nâng cao năng lực quản lý, rà
soát thể chế và chính sách, các yêu cầu của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) đối với các
đề xuất dự án đòi hỏi những kết quả cụ thể trong việc loại bỏ các hóa chất ô nhiễm hữu
cơ khó phân hủy và chất thải điện tử. Nhận thức về hợp tác quốc tế về môi trường có
lúc có nơi còn chưa thật sự đầy đủ, còn tồn tại quan điểm cho rằng hướng hợp tác quốc
163
tế đơn thuần là tìm kiếm nguồn tài trợ và chỉ tham gia hợp tác khi nguồn tài trợ rõ ràng,
cụ thể. Tư duy này, phần nào cản trở phát triển tính chủ động, tính chiến lược trong một
số hoạt động hợp tác quốc tế thời gian qua
Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về môi trường trong thời gian
tới, chúng ta thay đổi tư duy về hợp tác quốc tế, chuyển từ quan niệm thụ động tiếp
nhận viện trợ sang chủ động hội nhập, sẵn sàng cùng tham gia, chia sẻ trách nhiệm và
quyền lợi. Tăng cường đầu tư tài lực và nhân lực cho hợp tác quốc tế về môi trường; bố
trí kinh phí để thực hiện các sáng kiến, các sự kiện do Việt Nam chủ trì, tiến tới cử đại
diện Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế về môi trường. Xây dựng chiến lược hợp
tác quốc tế của ngành; xác định các định hướng hợp tác chiến lược, tập trung vào những
vấn đề vừa giải quyết nhu cầu trong nước vừa đóng góp giải quyết các vấn đề môi
trường toàn cầu và khu vực, nhất là chú trọng những vấn đề mới mà Việt Nam có lợi
thế hiện nay
164
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Barry C. Field và Nancy D. Olewiler, Environmental Economics, McGraw-
Hill Ryerson, Toronto, 2015
[2] Hoàng Xuân Cơ, Giáo trình Kinh tế môi trường, NXB Giáo dục, Hà Nội,
2005
[3] Jonathan M. Harris và Brian Roach, Environmental and Natural Resource
Economics: A contemporary approach, Routledge, New York, 2017
[4] Nguyễn Thế Chinh, Giáo trình Kinh tế và Quản lý Môi trường, NXB Thống
kê, Hà Nội, 2003
[5] Nguyễn Thị Kim Nga, Giáo trình Kinh tế tài nguyên môi trường, NXB Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_kinh_te_moi_truong_phan_2.pdf