Giáo trình Kinh tế môi trường (Phần 2)

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, hiện Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Nếu như giai đoạn trước đây, vai trò của Việt Nam chủ yếu là nước nhận tài trợ và hỗ trợ, thì trong giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam cần phát huy vị thế mới của một đối tác tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế. Thí dụ như trong lĩnh vực hóa chất và chất thải, ngoài các nội dung nâng cao năng lực quản lý, rà soát thể chế và chính sách, các yêu cầu của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) đối với các đề xuất dự án đòi hỏi những kết quả cụ thể trong việc loại bỏ các hóa chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy và chất thải điện tử. Nhận thức về hợp tác quốc tế về môi trường có lúc có nơi còn chưa thật sự đầy đủ, còn tồn tại quan điểm cho rằng hướng hợp tác quốc163 tế đơn thuần là tìm kiếm nguồn tài trợ và chỉ tham gia hợp tác khi nguồn tài trợ rõ ràng, cụ thể. Tư duy này, phần nào cản trở phát triển tính chủ động, tính chiến lược trong một số hoạt động hợp tác quốc tế thời gian qua Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về môi trường trong thời gian tới, chúng ta thay đổi tư duy về hợp tác quốc tế, chuyển từ quan niệm thụ động tiếp nhận viện trợ sang chủ động hội nhập, sẵn sàng cùng tham gia, chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi. Tăng cường đầu tư tài lực và nhân lực cho hợp tác quốc tế về môi trường; bố trí kinh phí để thực hiện các sáng kiến, các sự kiện do Việt Nam chủ trì, tiến tới cử đại diện Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế về môi trường. Xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế của ngành; xác định các định hướng hợp tác chiến lược, tập trung vào những vấn đề vừa giải quyết nhu cầu trong nước vừa đóng góp giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu và khu vực, nhất là chú trọng những vấn đề mới mà Việt Nam có lợi thế hiện nay

pdf60 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 281 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Kinh tế môi trường (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thao, du lịch. (4.6) Đến các ngành nghề: - Công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi, thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại, các ngành nghề khác... (4.7) Đến những sự cố, dự báo rủi ro có thể: - Dự báo về những sự cố có thể xảy ra, những rủi ro có thể gặp phải, những tai biến môi trường của dự án (vị trí, quy mô, công nghệ, thiết kế thi công, quá trình sản xuất, các nguyên nhân khác...) (4.8) Đánh giá và dự đoán tác động đến các nguồn? tài nguyên không tái tạo của quốc gia (các nguồn lực) - Tài nguyên rừng, tài nguyên sinh vật, hệ sinh thái, các nguồn nước, các vùng nhiên liệu, nguyên liệu, di tích lịch sử hang động, khu giải trí, khu lưu trữ, tập quán sản xuất, văn hoá, kinh tế - xã hội ... (4.9) Đánh giá tổn thất chung của dự án: 135 - Tổng hợp các chỉ tiêu. - Phân tích lợi, hại (được, mất). - Phân tích hiệu quả của dự án. (5) Kết luận: - Đánh giá chung về mức độ tin cậy của dự án về đầu tư thương mại. - Cần phải liên tục, nghiên cứu thêm những phần nào có kết luận tin cậy hơn. - Dự án cần phải điều chỉnh những gì. 5.3.3. Nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường Nội dung của ĐTM cụ thể tuỳ thuộc vào: nội dung và tính chất của hoạt động phát triển, tính chất và thành phần của môi trường chịu tác động của hoạt động phát triển, yêu cầu và khả năng thực hiện đánh giá. Không thể có một khuôn mẫu cố định về ĐTM chung cho mỗi nước trên thế giới, cũng như chung cho mọi hoạt động phát triển tại một nước. Nội dung chính của báo cáo đánh giá tác động môi trường được quy định tại Điều 22 Luật bảo vệ môi trường 2014 như sau: (1) Xuất xứ của dự án, chủ dự án, cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án; phương pháp đánh giá tác động môi trường. (2) Đánh giá việc lựa chọn công nghệ, hạng mục công trình và các hoạt động của dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường. (3) Đánh giá hiện trạng môi trường tự nhiên, kinh tế - xã hội nơi thực hiện dự án, vùng lân cận và thuyết minh sự phù hợp của địa điểm lựa chọn thực hiện dự án. (4) Đánh giá, dự báo các nguồn thải và tác động của dự án đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. (5) Đánh giá, dự báo, xác định biện pháp quản lý rủi ro của dự án đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. (6) Biện pháp xử lý chất thải. 136 (7) Các biện pháp giảm thiểu tác động đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. (8) Kết quả tham vấn. (9) Chương trình quản lý và giám sát môi trường. (10) Dự toán kinh phí xây dựng công trình bảo vệ môi trường và thực hiện các biện pháp giảm thiểu tác động môi trường. (11) Phương án tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. 5.3.4. Phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được chỉnh sửa theo yêu cầu của cơ quan thẩm định, thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan thẩm định có trách nhiệm phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; trường hợp không phê duyệt phải trả lời cho chủ dự án bằng văn bản và nêu rõ lý do. Quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường là căn cứ để cấp có thẩm quyền thực hiện các việc sau: - Quyết định chủ trương đầu tư dự án đối với các đối tượng quy định tại Điều 18 của Luật này trong trường hợp pháp luật quy định dự án phải quyết định chủ trương đầu tư; - Cấp, điều chỉnh giấy phép thăm dò, giấy phép khai thác khoáng sản đối với dự án thăm dò, khai thác khoáng sản; - Phê duyệt kế hoạch thăm dò, kế hoạch phát triển mỏ đối với dự án thăm dò, khai thác dầu khí; - Cấp, điều chỉnh giấy phép xây dựng đối với dự án có hạng mục xây dựng công trình thuộc đối tượng phải có giấy phép xây dựng; - Cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án không thuộc đối tượng quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này. 137 5.3.5. Trách nhiệm thực hiện và kiểm tra thực hiện các nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường Theo quy định, sau khi báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án được phê duyệt, bên cạnh việc chấp hành các quy định ghi trong báo cáo ĐTM; quy định tại Điều 26 và Điều 27 Luật Bảo vệ môi trường; Theo quy định tại Điều 16, Nghị định 18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính Phủ chủ dự án còn có trách nhiệm như sau: - Trong trường hợp cần thiết, điều chỉnh nội dung dự án đầu tư để bảo đảm các biện pháp, công trình bảo vệ môi trường theo yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường. - Lập kế hoạch quản lý môi trường của dự án trên cơ sở chương trình quản lý và giám sát môi trường đã đề xuất trong báo cáo đánh giá tác động môi trường và niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tham vấn ý kiến trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường. - Ngoài ra, chủ dự án có trách nhiệm: Thông báo bằng văn bản đến các tổ chức nơi tiến hành tham vấn, cơ quan đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường về kế hoạch vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải phục vụ giai đoạn vận hành (từng giai đoạn hoặc toàn bộ dự án) trước khi tiến hành vận hành thử nghiệm ít nhất mười (10) ngày làm việc. Thời gian vận hành thử nghiệm không quá sáu (06) tháng; việc kéo dài thời gian vận hành thử nghiệm phải được sự chấp thuận của cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường. - Lập, phê duyệt và thực hiện kế hoạch thu dọn vệ sinh lòng hồ trước khi tích nước trong trường hợp dự án có nội dung đầu tư xây dựng hồ chứa thủy lợi hoặc hồ chứa thủy điện; thực hiện việc tích nước sau khi được cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường kiểm tra, chấp thuận bằng văn bản. - Đối với các trường hợp quy định tại cột 4 Phụ lục II Nghị định 18/2015/NĐ- CP, chủ dự án phải báo cáo kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành dự án trên cơ sở báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt và các văn bản đề nghị điều chỉnh đã được chấp thuận (nếu có) gửi cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường để kiểm tra, xác nhận hoàn thành trước khi 138 đưa dự án vào vận hành chính thức. Đối với dự án đầu tư có nhiều giai đoạn, việc báo cáo kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành dự án được thực hiện theo từng giai đoạn của dự án; - Báo cáo bằng văn bản và chỉ được thực hiện những thay đổi liên quan đến phạm vi, quy mô, công suất, công nghệ sản xuất, các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường của dự án sau khi có ý kiến chấp thuận của cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường. Bên cạnh những trách nhiệm trên, chủ dự án còn có trách nhiệm thực hiện các nội dung quy định tại Điều 10, Thông tư số số 27/2015/TT-BTNMT, gồm: - Lập kế hoạch quản lý môi trường trên cơ sở chương trình quản lý và giám sát môi trường đã đề xuất trong báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt; trường hợp có thay đổi chương trình quản lý và giám sát môi trường thì phải cập nhật kế hoạch quản lý môi trường và gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định. - Gửi kế hoạch quản lý môi trường đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã tham vấn ý kiến trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường để được niêm yết công khai trước khi khởi công xây dựng. Mẫu văn bản của chủ dự án gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để niêm yết công khai kế hoạch quản lý môi trường thực hiện theo quy định. - Thông báo kế hoạch vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải đến các tổ chức đã tiến hành tham vấn và cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường theo mẫu quy định; tổ chức vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải đồng thời với quá trình vận hành thử nghiệm dự án. Trường hợp gây ra sự cố môi trường thì phải dừng ngay hoạt động vận hành thử nghiệm và báo cáo kịp thời tới cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để hướng dẫn giải quyết; chịu trách nhiệm khắc phục sự cố môi trường, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. - Trường hợp khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung tiếp nhận dự án đầu tư không phù hợp ngành nghề thu hút đầu tư trong báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng chưa đến mức phải lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 18/2015/NĐ- 139 CP, chủ đầu tư dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phải có văn bản giải trình gửi cơ quan đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và chỉ thực hiện các thủ tục tiếp nhận đầu tư sau khi có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của cơ quan đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường. - Trường hợp có thay đổi chủ dự án, chủ dự án mới có trách nhiệm tiếp tục thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường đã phê duyệt. 140 CHƯƠNG 6: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG 6.1. Nhận thức chung quản lý nhà nước về môi trường 6.1.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về môi trường - Tầm quan trọng của tài nguyên vì nó là yếu tố của môi trường. Tài nguyên là hữu hạn, vì vậy cần phải sử dụng tiết kiệm. Nhưng sử dụng tiết kiệm là việc khó, bất lợi cho người sử dụng nên nói chung việc sử dụng tài nguyên có xu hướng lãng phí và dễ xảy ra tranh chấp. - Bảo vệ tài nguyên và môi trường là sự nghiệp của toàn dân và lâu dài, đòi hỏi sự tham gia đồng bộ của nhiều ngành, nhiều địa phương và nhiều thế hệ nối tiếp nhau, để có sự đồng bộ đó thì chỉ có nhà nước mới có khả năng tổ chức, quản lý các hoạt động đó. - Có một số dạng môi trường mà việc bảo vệ nó không chỉ cần tính thống nhất hoạt động của cả một quốc gia mà đòi hỏi cần có sự thống nhất hành động của cả khu vực hay toàn cầu. Vì vậy chỉ có nhà nước nhân danh cộng đồng quốc gia mới có thể tham gia vào hoạt động chung của khu vực hay toàn cầu để thực hiện các chương trình chung đó. - Các vấn đề về ngoại ứng và hàng hóa công cộng là những nguyên nhân gây ra thất bại thị trường. Khi tồn tại ngoại ứng và hàng hoá công cộng giá cả của sản phẩm không phản ánh đúng giá trị xã hội của nó, vì vậy các doanh nghiệp có thể sản xuất quá nhiều hoặc quá ít, dẫn đến không hiệu quả và gây tác động xấu đến tài nguyên và môi trường. - Xem xét về sở hữu tài nguyên và thành phần môi trường chúng ta đều thừa nhận các nguồn tài nguyên và thành phần môi trường thuộc sở hữu nhà nước. Chính vì vậy nhà nước phải thực hiện nhiệm vụ quản lý môi trường. - Sự cần thiết còn bắt nguồn từ thực trạng khai thác, sử dụng tài nguyên và ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng ở nước ta cũng như trên phạm vi toàn thế giới hiện nay. 141 - Các bài học của các quốc gia trên thế giới cũng cho thấy rằng cần phải có sự quản lýnhà nước về bảo vệ môi trường. 6.1.2. Các nguyên tắc quản lý môi trường - Bảo đảm tính hệ thống: Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất hệ thống của đối tượng quản lý. Nhiệm vụ của quản lý môi trường là trên cơ sở thu thập, tổng hợp và xử lý thông tin về trạng thái hoạt động của đối tượng quản lý để đưa ra các quyết định quản lý phù hợp, thúc đẩy các phần tử hoạt động đều đặn, cân đối, hài hoà nhằm hướng tới mục tiêu đã định của hệ thống. - Bảo đảm tính tổng hợp: Nguyên tắc này xây dựng trên cơ sở tác động tổng hợp của hoạt động phát triển lên đối tượng quản lý. Các hoạt động sản xuất thường diễn ra dưới nhiều hình thái rất đa dạng. Dù dưới hình thức nào, quy mô và tốc độhoạt động ra sao, mạnh hay yếu, trực tiếp hay gián tiếp đều gây ra tác động tổng hợp lên đối tượng quản lý. Vì vậy trong quản lý môi trường khi đưa ra các quyết định cần phải tính đến các tác động tổng hợp và hậu quả của chúng. - Bảo đảm tính liên tục và nhất quán: Môi trường là một hệ thống liên tục, tồn tại, hoạt động và phát triển thông qua chu trình trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin chảy liên tục trong không gian và thời gian. Đặc tính này quy định tính nhất quán, liên tục của các tác động quản lý môi trường. - Bảo đảm tập trung dân chủ: Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý kinh tế và xã hội. Quản lý môi trường được thực hiện ở nhiều cấp khác nhau, vì thế cần đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ, tối ưu giữa tập trung và dân chủ trong quản lý môi trường. - Kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ: Các thành phần của môi trường thường do một ngành nào đó quản lý sử dụng. Tuy nhiên các thành phần môi trường này lại được phân bố, khai thác và sử dụng trên một địa bàn cụ thể thuộc quyền quản lý của một cấp địa phương tương ứng. Nếu không kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ thì sẽ làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lýmôi trường. - Kết hợp hài hoà các lợi ích: Quản lý môi trường trước hết là quản lý các hoạt động phát triển do con người tiến hành. Con người dù là tập thể hay cá nhân đều có 142 những lợi ích, nhu cầu và nguyện vọng nhất định. Do đó một trong những nhiệm cụ của quản lý môi trường là phải chú ý đến lợi ích của con người để khuyến khích có hiệu quả hành vi và thái độ ứng xử phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường. - Kết hợp hài hoà giữa quản lý tài nguyên và môi trường với quản lý kinh tế và xã hội: Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, ngay từ đầu phải kết hợp chặt chẽ và hài hoà giữa quản lý tài nguyên môi trường với quản lý kinh tế và xã hội thông qua việc hoạch định chính sách và chiến lược phát triển đúng đắn, có tầm bao quát và tổng hợp, gắn kết các đầu tư về môi trường vào kinh tế và xã hội. - Tiết kiệm và hiệu quả: Tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt liên quan chặt chẽ với nhau của quản lý môi trường làm sao để các nguồn vật chất, kỹ thuật, kinh tế và tài chính, lực lượng lao động xã hộicó thể được khai thác và sử dụng tài nguyên một cách hợp lý nhất, bảo vệ môi trường một cách tốt nhất. 6.1.3. Cơ sở đảm bảo cho việc tiến hành quản lý môi trường Khi xem xét cơ sở cho quản lý môi trường người ta dựa vào 4 yếu tố cơ bản sau: - Cơ sở triết học: Trong triết học người ta coi trọng nguyên lý thống nhất của thế giới vật chất, trong đó sự gắn bó chặt chẽ giữa tự nhiên, con người và xã hội thành một hệ thống thống nhất, trong đó yếu tố con người giữ vai trò quan trọng. Tính thống nhất của hệ thống “Tự nhiên-Con người-Xã hội” đòi hỏi việc giải quyết các vấn đề xã hội phải mang tính toàn diện và hệ thống. Trong quá trình phát triển của mình, chính con người là đã góp phần vào sự phá vỡ tất yếu khách quan là sự thống nhất biện chứng giữa tự nhiên, con người và xã hội. Chính vì vậy con người phải tìm kiếm, nắm bắt và giải quyết các mâu thuẫn, tính thống nhất của hệ thống này. - Cơ sở khoa học-kỹ thuật-công nghệ: Khoa học về môi trường là lĩnh vực khoa học mới thực sự xuất hiện và phát triển mạnh từ những năm 1960 trở lại đây làm cơ sở cho nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm, phát hiện nguyên lý, quy luật môi trường, công nghệ xử lý hay biện pháp phòng tránh ngăn ngừa ô nhiễm do hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người gây ra. - Cơ sở kinh tế: Hiện nay quản lý môi trường được hình thành trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và thực hiện điều tiết xã hội thông qua các công cụ kinh tế. Trong 143 nền kinh tế thị trường, mọi nguyên lý hoạt động được dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường, thông qua cạnh tranh nên hoạt động phát triển và sản xuất của cải vật chẩt diễn ra dưới sức ép của trao đổi hàng hoá theo giá trị. Trên cơ sở đó, nhà nước đưa ra các công cụ kinh tế để điều chỉnh và định hướng hoạt động phát triển sản xuất có lợi cho bảo vệ môi trường. - Cơ sở pháp lý: Đó chính là các văn bản và luật pháp quốc tế và quốc gia về bảo vệ môi trường. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện công tác bảo vệ môi trường. 6.2. Các công cụ quản lý môi trường 6.2.1. Công cụ pháp lý Đây là công cụ điều chỉnh vĩ mô bao gồm các văn bản về luật quốc tế và luật quốc gia, các văn bản dưới luật, quy hoạch, kế hoạch và chính sách môi trường quốc gia, các ngành kinh tế và các địa phương. Công cụ này còn gọi là công cụ pháp lý. 6.2.1.1. Luật pháp - Thông thường hệ thống luật bảo vệmôi trường của một quốc gia bao gồm hai bộ phận chính là luật chung (Luật Bảo vệ môi trường) và luật về sử dụng hợp lý các thành phần của môi trường (luật thuỷ sản, luật rừng, luật đất đai, luật khoáng sản) hoặc bảo vệ môi trường cụ thể ở một địa phương. - Quy định là những văn bản dưới luật nhằm cụ thể hoá hoặc hướng dẫn thực hiện các nội dung của luật, quy định có thể do chính phủ trung ương hay địa phương, cơ quan lập pháp hay hành pháp ban hành. - Một trong những công cụ luật pháp được đề cập đến nhiều chính là tiêu chuẩn môi trường, nằm trong nhóm công cụ mệnh lệnh và kiểm soát (CAC). Đây là công cụ quan trọng và được áp dụng ởhầu hết các nước trên thế giới. - Ở Việt nam, Luật bảo vệ môi trường đầu tiên đã được Quốc hội thông qua ngày 27/12/1993 và có hiệu lực từ ngày 10/01/1994. Các luật có liên quan bao gồm: Luật bảo vệ và phát triển rừng, luật tài nguyên nước, luật đất đai, luật khoáng sản, luật dầu khí, luật hàng hải, luật thuỷsản, pháp lệnh đê điều 6.2.1.2. Quy hoạch, kế hoạch hoá bảo vệ môi trường 144 Bảo vệ môi trường là công tác được tiến hành trên quy mô lãnh thổ rộng lớn, trong thời gian dài, có quan hệ đến nhiều ngành, nhiều người thuộc nhiều đối tượng trong xã hội. Vì vậy công tác này chỉ có thể được thực hiện tốt trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch hoá. 6.2.2. Các công công cụ kinh tế Công cụ kinh tế hay còn gọi là công cụ thị trường hay các cách tiếp cận thị trường đựơc dùng rất rộng rãi trên thế giới. Đây chính là các công cụ sử dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái. Công cụ kinh tế là những chính sách, biện pháp nhằm thay đổi lợi ích, chi phí của những hành động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường. Các công cụ kinh tế được xây dựng trên nền tảng các quy luật kinh tế thị trường nhằm tác động đến hành vi của người gây ô nhiễm. Các công cụ kinh tế cho phép cân nhắc, tính toán một cách kỹ lưỡng cái gì được, cái gì mất để lựa chọn phương án phát triển có lợi cho mình và cho môi trường. Nói một cách khác, các công cụ kinh tế là các khuyến khích về tài chính nhằm làm cho người gây ô nhiễm tựthực hiện các hoạt động có lợi hơn cho môi trường. (a) Thuế và phí Các loại thuế và phí môi trường: - Thuế, phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm - Thuế, phí đánh vào sản phẩm mà trong và sau khi sử dụng có thể gây ô nhiễm. - Thuế và phí cấp sai: là cấp kinh phí hoặc ưu đãi về thuế cho các sản phẩm có ích hoặc không làm tổn hại môi trường. - Phí hành chính để trả cho các hoạt động thực thi, giám sát, cấp giấy phép, đăng ký Thuế ô nhiễm tối ưu (thuế Pigou): - Theo cách tiếp cận ô nhiễm tối ưu thứ nhất là người gây ô nhiễm phải giảm sản lượng về mức tối ưu xã hội. Để tạo động cơ kinh tế cho người gây ô nhiễm thay đổi mức sản lượng của mình cần phải buộc họ chịu đầy đủ chi phí xã hội của việc sản xuất bao gồm cả chi phí cá nhân và chi phí ngoại ứng môi trường. 145 - Pigou (1877-1959 là GS kinh tế chính trị tại trường ĐH Cambridge từ 1908 đến 1944, ý tưởng về thuế ô nhiễm được đề cập lần đầu tiên vào năm 1920 trong tác phẩm Kinh tế học phúc lợi) đã đưa ra ý tưởng về việc đánh thuế đối với những người gây ô nhiễm. - Đánh thuế thế nào để người sản xuất thực hiện mức sản lượng Q*: + Mục đích của người sản xuất là tối đa hoá lợi nhuận: MC = MR hoặc MC = P. Nói cách khác người sản xuất sẽ sản xuất ở mức sản lượng mà tại đó MNPB = MR – MC = 0. + Nếu đánh thuế t cho mỗi đơn vị sản phẩm, người sản xuất sẽ tối đa hoá lợi nhuận khi MNPBt = MR – MC – t = 0 hay MNPB – t = 0. + Để MNPB – t = 0 tại Q* cần đánh thuế t = MEC tại Q* - Trong trường hợp không có ngoại ứng : NSB = TB – TC Trong đó: NSB là lợi ích ròng xã hội TB là tổng lợi ích do tiêu dùng hàng hoá Hình 6.1. Thuế Pigou đối với ngoại ứng môi trường 146 TC là tổng chi phí cá nhân của việc sản xuất Điều kiện để tối đa hoá NSB là MB = MC sẽ đạt được tại sản lượng QM (MB thể hiện đường cầu và MC thểhiện đường cung đối với hàng hoá đó). - Nếu có ngoại ứng, phúc lợi xã hội thay đổi : NSB = TSB – TSC Vì không có lợi ích ngoại ứng nên TSB = TB Do có chi phí ngoại ứng nên TSC = TC + TEC Như vậy chúng ta muốn Max NSB = TB – (TC + TEC) (1) Mục tiêu này sẽ đạt được nếu 𝑑𝑁𝑆𝐵 𝑑𝑄 = 𝑑𝑇𝐵 𝑑𝑄 − 𝑑𝑇𝐶 𝑑𝑄 − 𝑑𝑇𝐸𝐶 𝑑𝑄 = 0 Tức là MB – MC – MEC = 0 Hay MB = MC + MEC (2) Khi điều kiện này thoả mãn, chúng ta sẽ đạt được mức sản lượng tối ưu xã hội Q*, vì thế có thể viết lại phương trình (2) như sau: MB(Q*) = MC(Q*) + MEC(Q*) = MSC(Q*) (3) Nếu đánh thuế t*= MEC(Q*), khi đó phương trình (3) sẽ trở thành: MB(Q*) = MC(Q*) + t* (4) Và mục tiêu max NSB vẫn đạt được. Sau khi đánh thuế, đường cung sẽdịch chuyển vào trong, điều này được thểhiện trên đường cung mới St = MC + t* cắt đường cầu tại điểm E tương đương với mức sản lượng Q*. Như vậy thuế Pigou là thuế tối ưu đánh trên mỗi đơn vị sản phẩm/ô nhiễm bằng thiệt hại ngoại ứng cận biên ở mức ô nhiễm hiệu qủa xã hội/mức ô nhiễm tối ưu. Thuế thải/phí thải: - Thuế/phí thải là loại phí đánh vào lượng chất thải thực tế của người sản xuất. Để xác định mức phí tính trên mỗi đơn vị chất thải người ta phải căn cứ vào chi phí cần thiết để giảm đơn vị ô nhiễm đó tức là MAC. Khi áp dụng phí thải, người gây ô nhiễm sẽ có phản ứng phù hợp nhằm tối thiểu hoá chi phí của mình. 147 Như vậy, theo cách tiếp cận ô nhiễm thứ hai, mức phí tối ưu (hay mức phí có hiệu quả) sẽ được xác định tại mức thải W*, tại đó F = MAC = MDC. Tuy nhiên do không có đủ thông tin về MAC và MDC nên mức quy định có thể cao hơn hoặc thấp hơn F*, vì thế kết quả là mức thải cuối cùng không trùng với mức tối ưu W*. Ví dụ : Một doanh nghiệp có đường MAC = 72 – 3Q (trong đó Q là lượng phát thải), sẽ phản ứng thế nào với mức phí F = 30. Hình 6.2. Xác định mức phí thải tối ưu Hình 6.3. Ví dụ về phí thải và hành vi của doanh nghiệp 148 + Khi chưa có sự can thiệp của Nhà nước, doanh nghiệp thải 24 đơn vị chất thải mà không phải chi phí một đồng nào cho việc giảm thải. + Giả sử Nhà nước yêu cầu phải giảm thải triệt để 24 đơn vị và yêu cầu nộp phí 30$/đơn vị chất thải. Doanh nghiệp sẽ có những phương án lựa chọn sau đây: Bảng 6.1. Các lượng chọn giảm thải và chi phí của doanh nghiệp Phương án Tổng chi phí giảm thải Tổng chi phí Tổng chi phí môi trường Phương án 1: Không thực hiện giảm thải, đóng thuế/phí thải hoàn toàn 0 30$*24=720$ 720$ Phương án 2: giảm thải toàn bộ để không phải đóng thuế/phí thải 72$*24=864$ 0 864$ Phương án 3: Nộp phí 14 đơn vị (tại mức MAC = F) và thực hiện giảm thải 10 đơn vị (30$*10)/2=150$ 30$*14=420$ 570$ + Ở mức thải nhỏ hơn 14 đơn vị, do MAC > 30 là mức phí nên doanh nghiệp sẽ lựa chọn nộp phí chứ không bỏ tiền ra xử lýchất thải. + Ở mức thải trên 14 đơn vị, doanh nghiệp sẽ thực hiện giảm thải vì chi phí cận biên của việc giảm thải thấp hơn mức phí phải nộp. 149 - Mức thuế hiệu quả xã hội: Trong tình trạng có cạnh tranh, mức thuế càng cao thì phát thải giảm càng nhiều nhưng cụ thể là cần phải định ra một mức thuế là bao nhiêu? Nếu chúng ta biết hàm thiệt hại biên và hàm giảm ô nhiễm biên câu trả lời sẽ là định mức thuế sao cho có được mức phát thải hiệu quả, như có thể thấy ở hình 4.7. + Chi phí thực thi thuế bao gồm hai phần: chi phí tư nhân và chi phí xã hội. Trong đó chi phí thực thi tư nhân gồm tổng chi phí giảm ô nhiễm cộng với thuế. Chính là diện tích d cộng với diện tích (a + b). Nhưng chi phí thực thi tư nhân không đại diện cho chi phí nguồn lực xã hội phải gánh chịu khi áp dụng chính sách thuế. Chi phí thực thi xã hội chỉ bao gồm những nguồn lực cần thiết để đạt mục tiêu môi trường nghĩa là không bao gồm tiền thuế. Thuế thực sự là khoản thanh toán chuyển F O W* WM MAC Ô nhiễm > W* : MAC F → Nộp thuế giao, là khoản thanh toán các tác nhân gây ô nhiễm trả cho khu vực công cộng và cuối cùng là cho xã hội, những người thụ hưởng lợi ích từ chi tiêu công, trong đó người gây ô nhiễm cũng có thể là người thụ hưởng những lợi ích này. Như vậy chi phí thực thi xã hội là diện tích c, là tổng chi phí giảm ô nhiễm của người gây ô nhiễm. + Xã hội cũng quan tâm đến lợi ích xã hội ròng của chính sách thuế, được định nghĩa là tổng thiệt hại giảm được trừ đi chi phí thực thi xã hội. Hình 6.4. Hành vi của chủ thể gây ô nhiễm 150 Tổng thiệt hại giảm được chính là diện tích dưới đường MDC giới hạn bởi mức phát thải ban đầu và mức phát thải hiệu quả xã hội E*= Diện tích (c + d) Tổng chi phí giảm ô nhiễm TAC = Diện tích (c) Lợi ích ròng xã hội = Tổng thiệt hại giảm được - Tổng chi phí giảm ô nhiễm = Diện tích (c + d) - diện tích (c) = Diện tích (d) Thuế thải luôn đạt hiệu quả chi phí vì nguyên tắc cân bằng cận biên luôn thoả mãn đối với mỗi chủ thể gây ô nhiễm (MAC = t). Nguyên tắc cân bằng cận biên luôn thoả mãn với mọi mức thuế, ngay cả khi người quản lý không biết được MAC của mỗi chủ thể gây ô nhiễm. Các chủ thể gây ô nhiễm sẽ tự điều chỉnh theo mức thuế để đạt MAC = MDC (tối đa hoá lợi ích). Bất kỳ nhà sản xuất nào cũng điều chỉnh sản lượng theo mức thuế để tối đa hoá lợi ích. Các nhà quản lý đưa ra một mức thuế nào đó, qua một thời gian sẽ biết được hiệu quả của thuế vì vậy có thể điều chỉnh tăng hay giảm. MAC, MDC Lượng thải (E) MAC MDC T0 0 E0 Hình 6.5. Thuế phát thải hiệu quả xã hội 151 Thuế thải và động cơ khuyến khích đổi mới công nghệ: Một trong những ưu điểm chính của thuế thải là nó tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc đầu tư công nghệ mới nhằm giảm chi phí giảm ô nhiễm biên (MAC). Cốt lõi của phương pháp thuếlà tạo ra động cơ khuyến khích kinh tế để các đối tượng gây ô nhiễm tự tìm phương cách tốt nhất nhằm cắt giảm mức phát thải, thay vì để các nhà quản lý quyết định việc này cần phải được thực hiện như thế nào. Hình 6.6. Thuế thải đạt hiệu quả theo nguyên tắc cân bằng biên Lượng thải T1 MAC2 E2 Mức thuế Lượng thải E1 0 Hình 6.7 . Khuyến khích đầu tư công nghệ kiểm soát ô nhiễm mới dưới tác động của thuế thải MAC1 Emax a b c d e 152 (b) Trợ cấp Trợ cấp thường được sử dụng trong những trường hợp và khu vực khó khăn về kinh tế. Trợ cấp của nhà nước có thể áp dụng cho các hoạt động tạo ra ngoại ứng tích cực như trồng rừng, xử lý ô nhiễmNguyên nhân dẫn đến trợ cấp là do trong các hoạt động này lợi ích cá nhân thường nhỏ hơn lợi ích xã hội, do đó chi phí mà các cá nhân chấp nhận bỏ ra để tiến hành các hoạt động trên không đạt mức cần thiết đối với xã hội. Nhà nước có thể điều chỉnh mức độ hoạt động cá nhân về mức hiệu quả xã hội thông qua mức trợ cấp được xác định đúng bằng chênh lệch giữa lợi ích cận biên xã hội và lợi ích cận biên cá nhân (tức bằng lợi ích ngoại ứng cận biên). Nhà nước trả cho chủ thể gây ô nhiễm một khoản tiền cho mỗi đơn vị giảm thải. Tiền trợ cấp giảm thải trong trường hợp này trở thành chi phí cơ hội của việc giảm thải và có tác dụng khuyến khích tương tự như thuế thải. Một số vấn đề cần chú ý khi thực hiện trợ cấp giảm thải: + Cần có nguồn tài chính để thực hiện + Có thể làm tăng lượng thải vì nó khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất mới. + Cần quan trắc nghiêm ngặt để biết được lượng giảm thải của mỗi nguồn. Đây chính là khó khăn rất lớn. W* Mức trợ cấp giảm thải Lượng thải Wm 0 Hình 6.8 . Mức trợ cấp và hành vi giảm thải của chủ thể gây ô nhiễm MAC Trợ cấp 153 6.2.3. Các công cụ khoa – giáo trong quản lý môi trường - Giáo dục môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy nhằm giúp con người hiểu biết và có kỹ năng tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường. + Mục đích của giáo dục môi trường là nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào việc giữ gìn, bảo tồn và sử dụng môi trường theo cách bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. + Giáo dục môi trường có 3 nội dung chủ yếu: (1) Đưa giáo dục môi trường vào trường học; (2) Cung cấp thông tin cho những người ra quyết định; và (3) Đào tạo chuyên gia về môi trường. - Truyền thông môi trường: được hiểu là quá trình trao đổi thông tin, ý tưởng, tình cảm, suy nghĩ và thái độ giữa các cá nhân hoặc nhóm người về tài nguyên và bảo vệ môi trường. + Mục tiêu của truyền thông môi trường nhằm: (1) Thông tin cho người bị tác động bởi các vấn đề môi trường biết tình trạng của họ từ đó giúp họ quan tâm đến việc tìm kiếm các giải pháp khắc phục; (2) Huy động các kinh nghiệm, kỹnăng, bí quyết địa phương tham gia vào việc bảo vệ môi trường; (3) Thương lượng, hoà giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp về môi trường giữa các tổ chức và người dân; (4) Tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia vào việc bảo vệ môi trường, xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường. + Truyền thông môi trường có thể được thực hiện qua các cách sau: (1) Chuyển thông tin tới từng cá nhân qua việc tiếp xúc trực tiếp, gửi thư hoặc điện thoại; (2) Chuyển thông tin tới các nhóm thông qua hội thảo, tập huấn, họp nhóm;(3) Chuyển thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, TV, đài, pano, áp phích, phim ảnh; (4) Tiếp cận truyền thông thông qua những buổi biểu diễn lưu động, hội diến, các chiến dịch, các lễ hội, ngày kỷ niệm 154 6.3. Quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam 6.3.1. Quan điểm của Đảng về quản lý và bảo vệ môi trường Quan điểm nhất quán xuyên suốt trong các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về BVMT đó là: “BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta” và “Đầu tư cho BVMT là đầu tư cho phát triển bền vững”. Nếu như tại Đại hội IX, việc xây dựng cơ sở khoa học cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, BVMT, phòng tránh giảm nhẹ thiên tai được giao thành trách nhiệm của khoa học tự nhiên và chính sách BVMT được gắn với các chính sách xã hội khác thì đến Đại hội X, lần đầu tiên trong báo cáo về Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010 trình Đại hội đưa ra chỉ tiêu về môi trường (độ che phủ rừng; tỷ lệ dân cư được dùng nước sạch; chỉ tiêu về xử lý chất thải) và “tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên” được xác định là một trong sáu nhiệm vụ thuộc “định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI một lần nữa thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng đối với công tác BVMT: “BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ BVMT”. Để cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương BVMT trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng cũng đã ban hành một hệ thống các chỉ thị, nghị quyết đồng bộ, nhất quán tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện công tác BVMT trong toàn đảng và toàn xã hội như: Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 Bộ Chính trị (Khóa IX) “Về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Nghị quyết số 41-NQ/TW là một bước quan trọng trong việc thể hiện các quan điểm của Đảng về BVMT ở nước ta trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước. 155 Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 21/1/2009, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 29-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41- NQ/TW. Chỉ thị số 29-CT/TW yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện triệt để các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết số 41- NQ/TW nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác BVMT. Chỉ thị một lần nữa nhấn mạnh một số nhiệm vụ quan trọng cần tập trung thực hiện, trong đó có nhiệm vụ như: “Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực BVMT...”; “Quy định các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về BVMT; Không phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư tiềm ẩn nguy cơ cao đối với môi trường; Không đưa vào vận hành, sử dụng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất mới không đáp ứng các yêu cầu về BVMT”. Trước nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và những diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu, Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT”. Quan điểm về BVMT một lần nữa được khẳng định “Môi trường là vấn đề toàn cầu. BVMT vừa là mục tiêu vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Tăng cường BVMT phải theo phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng”. Đồng thời đưa ra những mục tiêu rất cụ thể về BVMT: “Không để phát sinh và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; 70% lượng nước thải ra môi trường lưu vực các sông được xử lý; tiêu hủy, xử lý trên 85% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế; tái sử dụng hoặc tái chế trên 65% rác thải sinh hoạt. Phấn đấu 95% dân cư thành thị và 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh. Kiểm soát an toàn, xử lý ô nhiễm môi trường do hậu quả chiến tranh. Nâng cao chất lượng môi trường không khí ở các đô thị, khu vực đông dân cư. Cải thiện rõ rệt môi trường làng nghề và khu vực nông thôn. Quản lý khai thác hợp lý, sớm chấm dứt khai thác rừng tự nhiên, nâng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên lên trên 3 triệu ha; nâng độ che phủ của rừng lên trên 45%”. 156 6.3.2. Mục tiêu và định hướng quản lý môi trường của Nhà nước đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030 Nhằm định hướng và từng bước kiểm soát ô nhiễm đưa hoạt động bảo vệ môi trường phát triển bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định 1261/QĐ- TTg ngày 5/9/2012 về Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Bộ TN&MT đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 166/QĐ- TTg ngày 21/1/2014 về Kế hoạch thực hiện Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đến nay, sau 2 năm triển khai, Chiến lược đã gặt hái được những kết quả quan trọng góp phần cho sự phát triển môi trường bền vững. - Nâng cao chất lượng giải quyết “điểm đen” ô nhiễm Theo báo cáo của Bộ TN&MT, tới nay, Bộ đã nhận được 6 báo cáo của các Bộ, ngành, 37 báo cáo của các địa phương gửi về tình hình triển khai thực hiện Chiến lược và Kế hoạch Bảo vệ môi trường quốc gia. Với chức năng nhiệm vụ thực hiện 23 chỉ tiêu bảo vệ môi trường, Bộ TN&MT đã tích cực thực hiện một số chỉ tiêu, trong đó, nổi bật là việc đạt 100% so với mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2011 - 2015 với tỷ lệ xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ - TTg, đạt 38% mục tiêu so với tỷ lệ xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 1788/QĐ – TTg. Ngoài ra, nâng tỷ lệ xử lý chất thải rắn y tế đạt chuẩn từ 91% năm 2011 lên 96% năm 2015. Sau 2 năm triển khai thực hiện Chiến lược và hơn 1 năm thực hiện Kế hoạch, các Bộ, ngành và địa phương đã chủ động ban hành các chương trình, kế hoạch về bảo vệ môi trường nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề môi trường cấp bách tại địa bàn. Song, việc xây dựng và ban hành các chương trình, kế hoạch hành động nhằm cụ thể hóa các nội dung của Quyết định số 1216/QĐ-TTg và Quyết định số 166/QĐ-TTg chưa được triển khai đồng đều tại các Bộ, ngành và địa phương. Tính đến tháng 9/2015 mới có khoảng 53,1% các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố đã báo cáo về xây dựng và ban hành kế hoạch để triển khai thực hiện. Đến nay, sau gần 2 năm triển khai thực hiện, mới có 37/63 các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành Kế hoạch triển khai 157 thực hiện (đạt tỷ lệ 58,7%), 5 Bộ, ngành đã báo cáo tình hình triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao chủ trì thực hiện. - Chủ động phòng ngừa phát sinh nguồn ô nhiễm Nhằm nâng cao chất lượng đánh giá môi trường chiến lược, đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường được lồng ghép trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, nâng cao hiệu quả của đánh giá tác động môi trường trong việc sàng lọc, ngăn ngừa công nghệ sản xuất lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường trong các dự án đầu tư phát triển”, thời gian qua, Bộ TN&MT đã chú trọng nâng cao chất lượng công tác đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), đánh giá tác động môi trường (ĐTM) góp phần phòng ngừa ô nhiễm, giảm thiếu các tác động xấu đối với môi trường. Nội dung, quy trình, thủ tục thẩm định ĐMC, ĐTM được quy định rõ ràng, minh bạch hơn theo hướng cải cách hành chính nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu về chất lượng của công tác thẩm định. Đã bổ sung một số điểm mới quan trọng trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 như: công cụ quy hoạch bảo vệ môi trường; rà soát lại danh mục các đối tượng phải lập ĐMC/ĐTM; quy định yêu cầu về chứng chỉ tư vấn ĐMC/ĐTM; hình thành danh mục dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không phải lập kế hoạch bảo vệ môi trường. Đặc biệt, đã bổ sung yêu cầu lồng ghép nội dung về biến đổi khí hậu trong báo cáo ĐMC và nội dung đánh giá sức khỏe cộng đồng trong ĐTM. Để nâng cao chất lượng công tác ĐMC và ĐTM, các hướng dẫn kỹ thuật chuyên ngành đã được xây dựng và ban hành. Bên cạnh việc triển khai các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng báo cáo ĐMC, ĐTM, Bộ TN&MT đã thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực ĐMC. Đã có hơn 700 cán bộ của các Bộ, ngành, địa phương, các cơ quan tư vấn, nghiên cứu, đào tạo tham gia học tập. Việc yêu cầu kiểm tra, xác nhận các công trình bảo vệ môi trường trước khi dự án đi vào hoạt động tiếp tục được quy định cụ thể, rõ đối tượng hơn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 nhằm đảm bảo các dự án phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo báo cáo ĐTM, kế hoạch bảo vệ môi trường đã được phê duyệt, xác nhận. Theo đó, các dự án đầu tư lớn, có nguy cơ tác động xấu đến môi trường phải được cơ 158 quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, xác nhận các công trình bảo vệ môi trường, mới được phép đi vào hoạt động chính thức. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật Trong những năm qua, việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường tiếp tục được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã có những bước phát triển mới với Bộ TN&MT đã xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2014, sửa đổi và thay thế Luật BVMT năm 2005 với nhiều quy định mới đề cập đến những vấn đề nóng đang đặt ra trong công tác bảo vệ môi trường giai đoạn hiện nay. Nhiều điểm được bổ sung như vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy tăng trưởng xanh, cơ sở, sản phẩm thân thiện với môi trường gắn với phát triển bền vững; xây dựng quy hoạch môi trường; bổ sung quy định nội dung quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, cụ thể hóa quyền hạn và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường. Ngay sau khi Luật BVMT năm 2014 được thông qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 8 văn bản quy định chi tiết hướng dẫn, thi hành Luật; đã ban hành theo thẩm quyền 10 trong tổng số 31 Thông tư, 2 Thông tư liên tịch dự kiến xây dựng, ban hành để quy định chi tiết thi hành Luật. Các địa phương đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức triển khai Luật; xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch về bảo vệ môi trường 5 năm và hàng năm, các quy định về bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh, thành phố; quy hoạch mạng lưới quan trắc môi trường trên địa bản tỉnh, thành phố. - Đa dạng hóa nguồn đầu tư cho bảo vệ môi trường Một trong những nhiệm vụ được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm chú trọng đó là việc tích cực và đa dạng hóa đầu tư cho bảo vệ môi trường. Theo đó, tốc độ tăng chi cho sự nghiệp môi trường, năm sau cao hơn năm trước, ở cả Trung ương và địa phương, cụ thể: Năm 2011 chi ngân sách Nhà nước (NSNN) cho sự nghiệp môi trường so với năm 2010 tăng 16,37% (năm 2010: 6.230 tỷ đồng); năm 2012 so với năm 2011 tăng 24,8%; năm 2013 so với năm 2012 tăng 8%; năm 2014 so với năm 2013 tăng 2,1%, 159 năm 2015 so với năm 2014 tăng 14,2%. Kinh phí sự nghiệp môi trường đã đáp ứng yêu cầu hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường theo Luật BVMT, từ đó, góp phần thực hiện Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đạt một số kết quả nhất định. Trong các năm vừa qua, công tác xã hội hóa trong lĩnh vực sự nghiệp môi trường bước đầu được triển khai trong một số hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải; xử lý nước thải sinh hoạt, chăn nuôi; xử lý chất thải; vệ sinh môi trường công cộng, làng sinh thái; cải thiện môi trường làng nghề... Tại một số địa phương, cộng đồng dân cư thực hiện xã hội hóa bảo vệ môi trường dưới nhiều hình thức. Một số mô hình thực hiện xã hội hóa bảo vệ môi trường trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp đã có nhưng chưa mạnh, mặc dù, các mô hình này đã và đang được xây dựng với sự hỗ trợ của Nhà nước, tài trợ của nước ngoài (đặc biệt là các mô hình cải tiến quản lý kết hợp yếu tố môi trường ở các xí nghiệp công nghiệp, áp dụng sản xuất sạch hơn, xây dựng mô hình sinh thái). 6.3.3. Bộ máy quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam hiện nay Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay bao gồm những nội dung sau: - Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường. - Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách, chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi trường. - Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc; định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường. - Xây dựng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường; thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và kiểm tra, xác nhận các công trình bảo vệ môi trường; tổ chức xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường. 160 - Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học; quản lý chất thải; kiểm soát ô nhiễm; cải thiện và phục hồi môi trường. 6. Cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về môi trường. - Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường; thanh tra trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. - Đào tạo nhân lực khoa học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường. - Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. - Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện ngân sách nhà nước cho các hoạt động bảo vệ môi trường. - Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Về tổ chức bộ máy quản lý môi trường, năm 1992 Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường được thành lập, mà tiền thân của nó là Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, với chức năng là quản lý Nhà nước về môi trường. Các sở Khoa học - Công nghiệp - Môi trường các địa phương sau đó được thành lập với chức năng là quản lý Nhà nước về môi trường ở địa phương. Do yêu cầu nhiệm vụ của công tác quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá XI, ngày 05 tháng 8 năm 2002 đã quyết định thành lập Bộ tài nguyên và môi trường trên cơ sở 3 đơn vị chủ yếu hiện có gồm cục môi trường; tổng cục địa chính và tổng cục khí tượng thuỷ văn. Cho đến nay, ở Việt Nam đã hình thành hệ thống tổ chức Quản lý Nhà nước về Môi trường từ trung ương đến địa phương. 161 6.3.4. Việt Nam hợp tác với quốc tế trong quản lý môi trường Hợp tác quốc tế về môi trường là một trong những nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường (BVMT) được đề cập trong các Luật BVMT, và là giải pháp quan trọng trong các chiến lược, kế hoạch hành động quốc gia về môi trường. Trong hơn 20 năm qua, hợp tác quốc tế về môi trường đã hình thành và phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực cho thành công chung của các hoạt động BVMT ở nước ta. Mỗi giai đoạn phát triển, hợp tác quốc tế về môi trường có những phạm vi, đặc thù và hình thức khác nhau. Cụ thể là, trong những năm 90 thế kỷ trước, hợp tác quốc tế về môi trường chủ yếu được thực hiện qua các dự án hợp tác song phương với Thụy Điển, Ca-na-đa, với nội dung tập trung vào nâng cao năng lực xây dựng thể chế và hình thức là tiếp nhận viện trợ. Đến nay, hợp tác đã được mở rộng thông qua nhiều đối tác song phương như: Đan Mạch, Nhật Bản, Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Trung Quốc cũng như các tổ chức quốc tế đa phương (Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc, Quỹ Môi trường toàn cầu, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, ASEAN). Nội dung hợp tác đã đi vào chiều sâu, bao gồm hầu hết các lĩnh vực quản lý môi trường như đánh giá tác động môi trường, kiểm soát ô nhiễm, xử lý ô Hình 6.9. Cơ cấu tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam 162 nhiễm hóa chất tồn lưu, bảo tồn đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu Hình thức hợp tác được chuyển đổi từ tiếp nhận viện trợ, sang quan hệ đối tác cùng hợp tác giải quyết vấn đề Trong giai đoạn tới, hợp tác quốc tế về môi trường có những bối cảnh mới, với những thuận lợi, khó khăn, đòi hỏi phải có định hướng và giải pháp phù hợp với Việt Nam; qua đó tiếp tục hội nhập sâu rộng hơn và từng bước khẳng định vị thế của nước ta trên trường quốc tế trong lĩnh vực môi trường. Về thuận lợi, trong tiến trình hội nhập quốc tế nói chung và hợp tác quốc tế về môi trường nói riêng luôn được coi là một nội dung, giải pháp quan trọng được thể hiện trong các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và các văn bản luật, dưới luật trong lĩnh vực này. Điển hình như: Luật Bảo vệ môi trường (năm 2014) có ba điều thuộc Chương 17, quy định nội dung hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. Trong Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 2011 - 2020, cũng nêu rõ “Thúc đẩy hội nhập và tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường”... Ngoài ra, Việt Nam có nhiều vấn đề môi trường có tính toàn cầu và khu vực, vì vậy đã nhận được sự hỗ trợ của quốc tế để triển khai nghiên cứu, đề ra các giải pháp trước tình trạng đa dạng sinh học tiếp tục suy giảm, biến đổi khí hậu đang ngày càng gia tăng; ô nhiễm hóa chất, chất thải tiếp tục đe dọa hệ sinh thái và sức khỏe con người Các vấn đề môi trường này đều là vấn đề nóng ở Việt Nam, là những chủ đề trọng tâm cho các dự án nghiên cứu điển hình cho thế giới. Việt Nam cũng đã có kinh nghiệm và năng lực cơ bản cần thiết để thực hiện các dự án hợp tác quốc tế Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, hiện Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Nếu như giai đoạn trước đây, vai trò của Việt Nam chủ yếu là nước nhận tài trợ và hỗ trợ, thì trong giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam cần phát huy vị thế mới của một đối tác tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế. Thí dụ như trong lĩnh vực hóa chất và chất thải, ngoài các nội dung nâng cao năng lực quản lý, rà soát thể chế và chính sách, các yêu cầu của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) đối với các đề xuất dự án đòi hỏi những kết quả cụ thể trong việc loại bỏ các hóa chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy và chất thải điện tử. Nhận thức về hợp tác quốc tế về môi trường có lúc có nơi còn chưa thật sự đầy đủ, còn tồn tại quan điểm cho rằng hướng hợp tác quốc 163 tế đơn thuần là tìm kiếm nguồn tài trợ và chỉ tham gia hợp tác khi nguồn tài trợ rõ ràng, cụ thể. Tư duy này, phần nào cản trở phát triển tính chủ động, tính chiến lược trong một số hoạt động hợp tác quốc tế thời gian qua Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về môi trường trong thời gian tới, chúng ta thay đổi tư duy về hợp tác quốc tế, chuyển từ quan niệm thụ động tiếp nhận viện trợ sang chủ động hội nhập, sẵn sàng cùng tham gia, chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi. Tăng cường đầu tư tài lực và nhân lực cho hợp tác quốc tế về môi trường; bố trí kinh phí để thực hiện các sáng kiến, các sự kiện do Việt Nam chủ trì, tiến tới cử đại diện Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế về môi trường. Xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế của ngành; xác định các định hướng hợp tác chiến lược, tập trung vào những vấn đề vừa giải quyết nhu cầu trong nước vừa đóng góp giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu và khu vực, nhất là chú trọng những vấn đề mới mà Việt Nam có lợi thế hiện nay 164 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Barry C. Field và Nancy D. Olewiler, Environmental Economics, McGraw- Hill Ryerson, Toronto, 2015 [2] Hoàng Xuân Cơ, Giáo trình Kinh tế môi trường, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005 [3] Jonathan M. Harris và Brian Roach, Environmental and Natural Resource Economics: A contemporary approach, Routledge, New York, 2017 [4] Nguyễn Thế Chinh, Giáo trình Kinh tế và Quản lý Môi trường, NXB Thống kê, Hà Nội, 2003 [5] Nguyễn Thị Kim Nga, Giáo trình Kinh tế tài nguyên môi trường, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_moi_truong_phan_2.pdf