Bài tập 6
a. Theo lý thuyết nhận thức sai lầm của công nhân và thông tin không hoàn hảo thì nền kinh tế
lâm vào suy thoái khi giá cả thấp hơn mức dự kiến. Theo thời gian, người ta sẽ nhận thấy
điều này và điều chỉnh kỳ vọng về giá cả và nền kinh tế sẽ trở lại mức sản lượng tự nhiên.
Theo lý thuyết tiền lương cứng nhắc, suy thoái là do tiền lương danh nghĩa không đổi trong
khi mức giá giảm làm cho tiền lương thực tế quá cao và cầu lao động quá thấp. Theo thời
gian, khi tiền lương danh nghĩa giảm, làm tiền lương thực tế, cuối cùng nền kinh tế sẽ trở lại
mức sản lượng tự nhiên.
Theo lý thuyết giá cả cứng nhắc, nền kinh tế lâm vào suy thoái là do không phải giá cả mọi
hàng hóa đều giảm đủ mạnh. Theo thời gian, khi các doanh nghiệp điều chỉnh giá cả đủ mạnh
thì nền kinh tế sẽ trở lại trạng thái toàn dụng.
b. Tốc độ phục hồi kinh tế phụ thuộc vào tốc độ điều chỉnh kỳ vọng về giá cả (lý thuyết nhận
thức sai lầm và thông tin không hoàn hảo), tiền lương (lý thuyết tiền lương cứng nhắc), và
giá cả (lý thuyết giá cả cứng nhắc).
Bài tập 7
a. Đây là một cú sốc cung bất lợi, ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế là sản lượng và việc làm
giảm, trong khi mức giá tăng.
b. Kích cầu thông qua kênh tài khóa và tiền tệ sẽ giúp phục hồi kinh tế: Tăng sản lượng và việc
làm, nhưng đồng thời sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn.
c. Thắt chặt tài khóa và tiền tệ sẽ giúp ổn định mức giá, nhưng lại đẩy nền kinh tế lún sâu hơn
vào suy thoái.
d. Chính phủ nên giảm hoặc thậm chí miễn thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng có giá quốc
tế tăng cao. Điều này sẽ làm dịu bớt tác động bất lợi của cú sốc cung ngoại sinh đến chi phí
sản xuất. Trên đồ thị đường tổng cung ngắn hạn sẽ dịch chuyển sang bên phải. Điều này sẽ
làm giảm áp lực lạm phát và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
51 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 297 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình môn Kinh tế học vĩ mô - Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hung (tổng cầu) giảm, sản lượng cũng
giảm và lạm phát chững lại.
Hình 5.26. Sự dịch chuyển đường tổng cầu (b)
Trên đồ thị cho thấy, do tổng cầu của nền kinh tế tăng từ AD0 đến AD1, sản lượng Y1
vượt quá mức sản lượng tiềm năng Y* (hình 5.27), do đó giá tăng từ P0 đến P1 và gây
ra lạm phát. Để chống lạm phát, Chính phủ đã sử dụng chính sách tài khóa để can
thiệp vào nền kinh tế bằng cách cắt giảm chi tiêu (G) hoặc tăng thuế (T). Do đó, tổng
cầu của nền kinh tế giảm, đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 xuống AD0, điểm cân
bằng dịch chuyển từ E1 xuống E0, sản lượng cân bằng giảm từ Y1 xuống Y*, giá
giảm từ P1 xuống P0, lạm phát cũng chững lại nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng dài
hạn tại E0.
5.5. Mối quan hệ giữa các mô hình AD-AS và IS-LM trong ngắn hạn và dài hạn
5.5.1. Trong ngắn hạn
Để giải thích những biến động kinh tế trong ngắn hạn, phần lớn các nhà kinh tế đều dựa
trên giả thiết là giá cả không hoàn toàn linh họat. Thực tế cho thấy giá một số hàng hóa
hoàn toàn cứng nhắc, chúng không hề phản ứng trước bất kỳ sự thay đổi nào của cung và
cầu. Có nhiều chứng cứ cho thấy giá cả không linh họat lắm trong ngắn hạn. Ví dụ: Các
nhà hàng không thay đổi giá các món ăn trong ngày: Không tăng giá vào buổi trưa khi
đông khách và giảm giá vào giữa chiều khi vắng khách. Các nhà hàng in sẵn các thực
đơn trong đó giá các món ăn được xác định trước. Hợp đồng lao động quy định trước
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
146
tiền lương cho tháng hay năm. Do đó, mô hình về nền kinh tế trong ngắn hạn dựa trên
giả thiết giá cả cứng nhắc.
Trong ngắn hạn, nhiều loại giá cả chưa phản ứng kịp với những thay đổi trong chính
sách tiền tệ. Sự cắt giảm cung tiền không được thực hiện phản ứng ngay lập tức dẫn đến
việc tất cả các doanh nghiệp đều cắt giảm tiền công mà họ đang trả, các cửa hàng đều
muốn thay đổi giá cả ghi trên cataloge. Như vậy, giá cả thay đổi ít, nhiều loại giá cả có
tính cức nhắc. Tính cứng nhắc của giá cả trong ngắn hạn hàm ý ảnh hưởng ngắn hạn của
sự thay đổi trong cung tiền không giống như ảnh hưởng của nó trong dài hạn.
Hình 5.27. Cân bằng của nền kinh tế trong ngắn hạn
Giả định tất cả giả cả đều cố định trong ngắn hạn, tính cứng nhắc này của giá cả hàm ý
đường tổng cung trong ngắn hạn SRAS là đường nằm ngang. Khi có sự gia tăng cung
tiền, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải. Trạng thái cân bằng của nền kinh tế thay
đổi từ E1 đến E2. Do giá cả cứng nhắc, không đổi, nên chỉ có sự thay đổi sản lượng. Sản
lượng gia tăng từ Y1 đến Y2, được mô tả trên hình 5.28.
5.5.2. Trong dài hạn
Sự điều chỉnh từng bước của mức giá sẽ làm cho nền kinh tế di chuyển từ ngắn hạn sang
dài hạn. Điều này thể hiện như sau:
Bảng 5.1. Sự thay đổi mức giá
Cân bằng trong
ngắn hạn, nếu
Sau đó theo thời gian, mức
giá sẽ
Y > Y* Tăng
Y < Y* Giảm
Y = Y* Vẫn cố định
Giả sử có cú sốc ngược chiều của đường IS như: Chi tiêu của Chính phủ giảm, hoặc thuế
tăng, hoặc tiêu dùng của dân cư giảm, hoặc đầu tư giảm, khi đó đường IS sẽ dịch chuyển
sang trái (hình 5.29). Trong mô hình IS-LM, lãi suất và thu nhập của nền kinh tế đều
giảm. Theo mô hình AD-AS, theo thời gian, giá sẽ giảm đều đặn, đường tổng cung trong
ngắn hạn dịch chuyển xuống dưới (sang phải). Cung tiền thực tế (M/P) tăng lên, đường
LM dịch chuyển xuống dưới (sang phải). Nếu mức sản lượng thực tế vẫn nhỏ hơn sản
lượng tiềm năng (Y < Y*) thì mức giá sẽ càng giảm (M/P) sẽ càng tăng, đường LM sẽ
càng dịch chuyển sang phải. Quá trình này tiếp diễn xảy ra cho đến khi nền kinh tế đạt
được cân bằng dài hạn Y = Y*.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
177
Y*
Mức lãi suất
Sản lượng (Y)
Mức giá (P)
ASL
P1
0
0
Sản lượng (Y)
ASL
P2
Y*
LM(P1)
LM(P2)
ASS1
ASS2
AD1
AD2
IS1
IS2
Hình 5.28. Ảnh hưởng của cú sốc đường IS trong ngắn hạn và dài hạn
5.5.3. Chu kỳ kinh tế và khoảng cách sản lượng
a. Khái niệm chu kỳ kinh tế
Nền kinh tế thị trường của các nước công nghiệp phát triển tiêu biểu thường phải chống
đối với vấn đề chu kỳ kinh tế. Liên quan đến chu kỳ kinh tế là sự đình trệ sản xuất, thất
nghiệp và lạm phát. Chu kỳ kinh tế là sự dao động của GNP thực tế xung quanh xu
hướng tăng lên của sản lượng tiềm năng. Độ lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng
thực tế gọi là sự thiếu hụt sản lượng.
Khoảng cách sản lượng = Sản lượng tiềm năng – Sản lượng thực tế.
Nghiên cứu sự thiếu hụt sản lượng giúp cho việc tìm ra những biện pháp chống lại chu
kỳ kinh tế - nhằm ổn định kinh tế. Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự
biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng
thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh
chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng).
Chu kỳ kinh tế
Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy
định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp
thì mới gọi là suy thoái.
Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái.
Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền
kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
146
lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới
gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Hình 5.29. Chu kỳ kinh tế
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền
kinh tế đã sang pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế
đổi chiều giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách
nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một
số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:
Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh
nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo
theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế
giảm sút.
Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống
tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi
nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh
trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khóan thường giảm theo
khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn
cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại.
Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái,
khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng
hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng
loạt,v.v không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền
kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ở Việt Nam cho đến đầu thập niên
1990, trong một số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế
thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Nay
không còn thấy cách gọi này nữa.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
179
b. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh
tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo
chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc
biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều
khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường
từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn,... thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực
về kinh tế, xã hội. Chu kỳ kinh tế khiến cho kế họach kinh doanh của khu vực tư nhân và
kế họach kinh tế của nhà nước gặp khó khăn. Việc làm và lạm phát cũng thường biến
động theo chu kỳ kinh tế. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội
phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kỳ là nhiệm vụ được
nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, vì cách lý giải nguyên nhân gây ra chu kỳ giữa các trường
phái kinh tế học vĩ mô không giống nhau, nên biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất
cũng khác nhau.
Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo,
khiến cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng
chính sách quản lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các chính sách tài
chính và chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi nền kinh tế khuếch trương thì lại chuyển
hướng các chính sách đó sang thắt chặt.
Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới thì cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do
sự can thiệp của Chính phủ hoặc do những cú sốc cung ngoài dự tính. Vì thế, để
không xảy ra chu kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng điều chỉnh sau các cú sốc
cung, Chính phủ không nên can thiệp gì cả.
Một số lý thuyết chính lý giải nguyên nhân của chu kỳ kinh tế là:
Lý thuyết tiền tệ: Cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt của chính
sách tiền tệ và tín dụng. Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt
giải Nobel kinh tế năm 1976, người đứng đầu trường phái Chicago Milton Friedman.
Lý thuyết này tỏ ra phù hợp với cuộc suy thoái của kinh tế Mỹ 1981-1982 khi Cục
Dự trữ Liên bang tăng lãi suất danh nghĩa tới 18% để chống lạm phát.
Mô hình gia tốc - số nhân: Do Paul Samuelson đưa ra, mô hình này cho rằng các biến
động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc trong đầu
tư tạo ra những dao động có tính chu kỳ của GDP.
Lý thuyết chính trị: Đại diện là các nhà kinh tế học William Nordhaus và Michał
Kalecki. Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh
tế vì họ hướng các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng cử.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: Với những đại diện như Robert Lucas, Jr.,
Robert Barro và Thomas Sargent phát biểu rằng những nhận thức sai lầm về sự vận
động của giá cả, tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều hoặc quá ít dẫn
đến các chu kỳ của sản lượng và việc làm. Một trong những phiên bản của lý thuyết
này là tỷ lệ thất nghiệp cao trong suy thoái là do mức lương thực tế của công nhân
cao hơn mức cân bằng của thị trường lao động.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: Lập luận rằng những biến động tích cực hay
tiêu cực về năng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong nền kinh tế và
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
146
gây ra những dao động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý thuyết này là nhà kinh
tế học đoạt giải Nobel trong năm 2004 gồm Edward Prescott, Charles Prosser.
Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, không có lý thuyết nào tỏ
ra đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi. Ngày nay, quan sát các chu kỳ kinh tế ở các nền kinh tế
công nghiệp phát triển, người ta phát hiện ra hiện tượng pha suy thoái càng ngày càng
ngắn về thời gian và nhẹ về mức độ thu hẹp của GDP thực tế. Một trong những nguyên
nhân quan trọng là Chính phủ các nước này đã hiểu biết và vận dụng tốt hơn những hiểu
biết về kinh tế vĩ mô. Bằng cách kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ,
nhà nước có thể ngăn chặn một cuộc suy thoái biến thành khủng hoảng. Chu kỳ kinh
doanh khốc liệt tàn phá chủ nghĩa tư bản trong những thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản
đã được chế ngự.
c. Dự báo chu kỳ kinh tế
Các chuyên gia kinh tế đã tìm cách xây dựng và phát triển công cụ dự báo những thay
đổi trong nền kinh tế. Những mô hình đơn giản nhất dựa trên số liệu dễ thu thập như sản
lượng một số tư liệu sản xuất quan trọng (thép,...), khối lượng hàng hóa vận chuyển... rồi
công thức hóa số liệu thống kê để đưa ra chỉ số có tính chất dự báo. Dần dần, với sự phát
triển của công nghệ thông tin, người ta đã xây dựng những mô hình kinh tế lượng phức
tạp với hàng chục nghìn biến số cùng những hệ phương trình phức tạp để dự báo. Đi tiên
phong trong sự phát triển công cụ dự báo là những nhà kinh tế học Jan Tinbergen (giải
Nobel năm 1969), Lawrence Klein (giải Nobel năm 1980). Nhờ đó, dự báo biến động
kinh tế vĩ mô đã có độ tin cậy lớn hơn mặc dù nó chưa đạt độ chính xác cao khi có
những thay đổi về những chính sách lớn.
5.6. Hai nguyên nhân gây ra biến động kinh tế
5.6.1. Cú sốc cầu
Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu sẽ
gây ra sự dao động của sản lượng và mức giá. Sự dao động của sản lượng xung quanh
mức tự nhiên được gọi là chu kỳ kinh doanh. Điều này thường được coi là tốn kém và
không mong muốn. Vì Chính phủ có thể tác động đến tổng cầu thông qua các chính sách
kinh tế vĩ mô, do đó Chính phủ có thể cân nhắc việc sử dụng các chính sách này để ổn
định nền kinh tế.
Ví dụ, giả sử nền kinh tế Việt Nam ban đầu ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm
năng. Nếu các nhà đầu tư và các hộ gia đình bi quan về triển vọng phát triển của nền
kinh tế và chi tiêu ít hơn, thì điều này sẽ làm giảm tổng cầu. Trên hình 5.31, đường tổng
cầu dịch chuyển sang trái từ AD1 đến AD2. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc
từ A đến B theo đường tổng cung ngắn hạn ban đầu AS1. Khi nền kinh tế chuyển từ A
đến B, sản lượng giảm từ Y* xuống Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống P2. Sự suy giảm
sản lượng cho thấy nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. Các doanh nghiệp phản ứng
lại sự giảm sút doanh số bán ra và sản xuất bằng cách cắt giảm việc làm.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
181
P1
P2
P3
P
A
B
C
AS1
AS2
LRAS
AD1
AD2
Y2 Y* Y0
Hình 5.30. Ảnh hưởng của sự cắt giảm tổng cầu đến sản lượng và mức giá
Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc từ điểm A đến điểm B theo đường tổng cung
ngắn hạn ban đầu AS1. Khi nền kinh tế chuyển từ A đến B, sản lượng giảm từ Y* xuống
Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống P2. Sự suy giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế lâm vào
tình trạng suy thoái. Các nhà họach định chính sách nên làm gì khi đối mặt với một cuộc
suy thoái như vậy? Một khả năng là thực hiện các biện pháp để kích thích tổng cầu, làm
cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Nếu các nhà họach định chính sách hành
động kịp thời và chính xác, họ có thể triệt tiêu sự dịch chuyển ban đầu của đường tổng
cầu, đẩy nó trở về AD1 và đưa nền kinh tế về điểm A.
Ngay cả khi các nhà họach định chính sách không can thiệp gì cả thì cuộc suy thoái cũng
sẽ tự hồi phục sau một khoảng thời gian. Do tổng cầu giảm, mức giá giảm xuống. Có
thể, kỳ vọng bắt kịp thực tế và mức giá dự kiến cũng giảm. Do sự giảm sút của mức giá
dự kiến làm thay đổi nhận thức, tiền lương và giá cả, nên nó làm cho đường tổng cung
ngắn hạn dịch sang phải, từ AS1 sang AS2 như trong đồ thị trên. Theo thời gian, quá
trình hiệu chỉnh này của kỳ vọng cho phép nền kinh tế tiến dần đến điểm C, điểm mà
đường tổng cầu mới (AD2) cắt đường tổng cung dài hạn. Tại điểm cân bằng dài hạn C,
sản lượng trở lại mức tự nhiên. Mặc dù làn sóng bi quan làm giảm tổng cầu, nhưng sự
giảm sút của mức giá (đến P3) đủ để bù đắp sự thay đổi của tổng cầu. Như vậy, trong dài
hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu được phản ánh hoàn toàn trong mức giá mà
không hề có một ảnh hưởng nào tới sản lượng. Nói cách khác, ảnh hưởng dài hạn của sự
dịch chuyển đường tổng cầu là làm thay đổi các biến danh nghĩa (mức giá thấp hơn) chứ
không phải làm thay đổi các biến thực tế (sản lượng như cũ).
5.6.2. Cú sốc cung
Các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các
nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc cung bất
lợi. Ngược lại, các cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú sốc cung có lợi. Các ví dụ
về cú sốc cung bất lợi như: Thời tiết xấu làm giảm sản xuất lương thực; do sức ép của
công đoàn làm tăng tiền lương; Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) hạn chế sản
lượng khai thác làm tăng giá dầu trên thị trường thế giới.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
146
Đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. Trong ngắn hạn, nền
kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của nền
kinh tế giảm từ Y* xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Do nền kinh tế vừa rơi
vào suy thoái (sản lượng giảm), vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng này
được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát. Các cú sốc cung bất lợi làm tăng chi phí sản xuất.
Ở mỗi mức giá cho trước, các hãng muốn bán ra ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Trên hình
5.32, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. Trong ngắn hạn,
nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của
nền kinh tế giảm từ Y* xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Do nền kinh tế vừa
rơi vào suy thoái (sản lượng giảm), vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng
này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát.
P3
P2
P1
P
C
B
A
AS2
AS1
ASL
AD2
AD1
Y2 Y* Y0
Hình 5.31. Cú sốc bất lợi và chính sách điều tiết phù hợp
Các nhà họach định chính sách nên làm gì khi đối mặt với hiện tượng suy thoái đi kèm
lạm phát? Quả là không có những lựa chọn dễ dàng trong trường hợp này. Một trong
những khả năng là các nhà họach định chính sách có thể muốn triệt tiêu tác động của sự
dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn đến sản lượng bằng cách tăng tổng cầu. Trong
trường hợp này, thay đổi trong chính sách làm đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến
AD2 vừa đủ để duy trì mức sản lượng ban đầu. Nền kinh tế chuyển đến điểm C. Sản
lượng trở về mức tiềm năng và mức giá tiếp tục tăng lên P3. Trong trường hợp này, các
nhà họach định chính sách đã thích ứng với sự dịch chuyển của tổng cung bởi họ cho
phép sự tăng lên trong chi phí ảnh hưởng đến giá cả một cách lâu dài.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
183
Nghiên cứu điển hình thắt chặt tiền tệ hợp lý khi dầu tăng giá
Giá dầu leo thang, chính sách tiền tệ phải "thắt chặt” vừa đủ để giúp kiềm chế lạm phát,
cũng phải "nới lỏng" vừa đủ nhằm tránh những tác động không cần thiết tới tăng trưởng
kinh tế.
Đợt tăng giá dầu lần thứ 4 (năm 2004), hoặc các đợt tăng giá xăng dầu năm 2007 – 2008,
gây nhiều lo ngại về ảnh hưởng tới kinh tế vĩ mô và những vấn đề mà chính sách tiền tệ
phải đối mặt. Nếu như 3 đợt khủng hoảng dầu trước (1973 – 74; 1979 – 80; 1990 – 91)
xảy ra đều thuần túy do nguồn cung giảm mạnh, xuất phát từ các cuộc chiến của các
nước thuộc khu vực dầu mỏ, thì nguyên nhân của đợt tăng giá dầu hiện tại chủ yếu do
cầu về xăng dầu tăng cao.
Trước tiên, hãy xem xét giá dầu gia tăng tác động đến lạm phát theo cơ chế nào. Sơ đồ
sau có thể được xem như một kiểu mô hình tiêu chuẩn cho việc xác định lạm phát, nơi
mà lạm phát được khống chế bởi 3 nhân tố: Kỳ vọng, chênh lệch cung cầu và các loại
cú sốc khác nhau, trong trường hợp này là sốc về giá dầu.
Tác động của giá dầu đến lạm phát
Thứ nhất, giá dầu tác động gia tăng lạm phát qua 2 cách: Trực tiếp và gián tiếp. Về tác
động trực tiếp, khi giá dầu tăng cũng có nghĩa là các nhóm hàng hóa nhất định trong
thành phần của CPI mà chủ yếu là nhóm xăng, dầu nhiên liệu gia tăng; về tác động gián
tiếp, giá dầu gia tăng làm tăng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp và do đó làm tăng
giá bán thành phẩm.
Thứ hai, giá dầu tác động tới lạm phát qua kênh chênh lệch cung cầu của nền kinh tế:
Về nguyên lý nếu tổng cầu gia tăng và tổng cung cũng gia tăng một lượng tương ứng,
có nghĩa là cung vẫn đáp ứng đủ cầu thì sẽ không gây nên lạm phát (chênh lệch tổng
cầu và tổng cung lúc này sẽ bằng không). Nhưng nếu sự gia tăng của tổng cầu lớn hơn
sự gia tăng của tổng cung có nghĩa là cung không đáp ứng đủ cầu sẽ tạo ra áp lực lạm
phát (chênh lệch tổng cầu lúc này sẽ lớn hơn 0) và trong trường hợp ngược lại sẽ là
giảm phát.
Do đó, hiểu một cách đơn giản nhất là khi giá dầu tăng dẫn đến chi phí sản xuất của
doanh nghiệp tăng làm lợi nhuận doanh nghiệp bị co lại, dẫn đến sản xuất suy giảm,
tổng cung của nền kinh tế vì vậy sẽ suy giảm. Mặt khác, khi giá dầu tăng cũng làm tăng
phần chi tiêu cho các sản phẩm về dầu và phần chi tiêu cho các sản phẩm ngoài dầu
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
146
đương nhiên sẽ bị giảm xuống khiến tổng cầu nền kinh tế cũng giảm.
Như vậy, một sự tăng lên trong giá dầu sẽ đồng thời làm cả tổng cung và tổng cầu đều
suy giảm. Cả hai tác động này cùng làm sản xuất suy giảm dẫn đến tăng trưởng kinh tế
suy giảm nhưng lại tác động ngược chiều đến lạm phát: Trong khi tác động của tổng
cung suy giảm đẩy giá lên thì tác động của tổng cầu suy giảm lại đẩy giá xuống. Tuy
nhiên, thực nghiệm cho thấy sự tăng lên trong giá dầu có xu hướng trùng với sự gia
tăng lạm phát, đây là lý do hợp lý để giả định rằng tác động của bên cung sẽ mạnh hơn
tác động bên cầu.
Thứ ba, giá dầu tăng tác động gia tăng lạm phát qua lạm phát kỳ vọng: Một sự gia tăng
của giá dầu sẽ nhanh chóng lan tỏa tới các loại giá khác của nền kinh tế. Sự lan tỏa
càng cao thì lạm phát kỳ vọng càng lớn. Ngược lại, khi lạm phát kỳ vọng càng lớn thì
tác động lan tỏa sang các nhóm hàng hóa khác càng nhiều. Mức độ lan tỏa của sự thay
đổi giá dầu đến các giá khác và tác động lên lạm phát kỳ vọng phụ thuộc phần lớn vào
sự điều hành chính sách tiền tệ và lòng tin vào chính sách này.
Phân tích trên cho thấy, giá dầu tăng cùng lúc có xu
hướng đẩy lạm phát gia tăng và làm tăng trưởng kinh tế
suy giảm, nên thường gây khó khăn cho chính sách tiền
tệ. Ngân hàng Trung ương chỉ có một công cụ là lãi
suất chủ chốt và có thể sử dụng nó để tác động lên tổng
cầu (hay tăng trưởng kinh tế) và lạm phát theo cùng
một hướng (đối với Việt Nam, lãi suất đã được tự do
hóa, do đó lãi suất thị trường sẽ bị tác động thông qua việc các công cụ chính sách tiền
tệ tác động lên mức cung tiền). Khi lãi suất được cắt giảm, tổng cầu trong nền kinh tế
tăng lên tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời cũng làm lạm phát tăng lên, và
khi lãi suất tăng lên thì tăng trưởng kinh tế và lạm phát cùng giảm.
Như vậy, nếu có một cú sốc tác động vào tăng trưởng kinh tế và lạm phát theo hướng
ngược nhau như cú sốc về giá dầu thì Ngân hàng Trung ương sẽ gặp khó khăn trong
việc cùng lúc phải ổn định lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ thắt
chặt nhằm hướng tới việc giảm mạnh lạm phát thì điều này sẽ khiến tăng trưởng kinh tế
cũng sẽ suy giảm hơn nữa. Nếu thay vào đó Ngân hàng Trung ương cân nhắc khuyến
khích tăng cầu thì trong một phạm vi nào đó nhằm trung hòa bớt sự suy giảm của tăng
trưởng kinh tế (do cả tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế đều đã suy giảm trước sự
gia tăng của giá dầu) bằng Chính sách tiền tệ nới lỏng thì kết quả sẽ là lạm phát tăng
lên, và một khi lạm phát gia tăng thì kỳ vọng cũng tăng lên theo do đó sẽ khó khăn hơn
nữa trong việc kiểm soát lạm phát.
Như vậy, khi giá dầu tăng cao thì một chính sách tiền tệ linh họat cần thiết phải được
thực hiện, đó là chính sách tiền tệ “thắt chặt” vừa đủ để tránh sự thúc đẩy lạm phát hơn
nữa từ việc giá dầu tăng cao nhằm kiềm chế việc lan tỏa tới tiền lương, giá các nhóm
hàng hóa khác và lạm phát kỳ vọng; và chính sách tiền tệ “nới lỏng” vừa đủ để tránh
những tác động tiêu cực không cần thiết tới tăng trưởng kinh tế. Đây là quy tắc họach
định chính sách linh họat, nhưng cũng khó để có thể nói cụ thể hơn. Câu hỏi về việc
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
185
chính sách nào sẽ là thích hợp nhất phải được xác định trong từng trường hợp, phụ
thuộc vào môi trường kinh tế vĩ mô hiện tại, đặc biệt là những nhân tố khác tác động
vào lạm phát hiện tại và những dự báo về giá dầu trong tương lai.
Tuy nhiên, đối với các quốc gia theo đuổi lạm phát mục tiêu, thường thì khi giá dầu
tăng dẫn đến sức ép lạm phát trong dài hạn sẽ gia tăng hơn mức vốn có. Điều này có
nghĩa là chính sách tiền tệ thắt chặt hơn một cách vừa phải là cần thiết để đưa lạm phát
trở về với mức lạm phát mục tiêu.
Bài viết của Th.s Nguyễn Thu, Trưởng phòng Phân tích kinh tế (Ngân hàng Nhà nước).
Nghiên cứu trường hợp nền kinh tế Mỹ: Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ năm 2001
Trong năm 2001, nền kinh tế Mỹ lâm vào tình trạng suy thoái ở mức báo động. Dự
kiến có khoảng 2,1 triệu người mất việc làm, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3,9% đến 5,8%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá thấp, chỉ 0,8%, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế
giai đoạn 1994–2000 là 3,9%. Có 3 nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng suy thoái
kinh tế này:
Thị trường chứng khoán giảm dẫn đến tiêu dùng của các hộ gia đình giảm.
Vụ khủng bố ngày 11/9 làm tăng tính bất ổn định về chính trị và kinh tế, làm giảm
niềm tin trong kinh doanh và tiêu dùng.
Các vụ việc liên quan đến hợp nhất của các tập đoàn: Enron, WorldCom,v.v.
Từ các nguyên nhân đó đã gây ra sự sụt giảm của giá chứng khoán, không khuyến
khích đầu tư, chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư giảm, đường IS dịch chuyển sang trái.
Để đưa nền kinh tế thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó, chính phủ Mỹ đã thực hiện hàng
loạt các biện pháp liên quan đến chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ như: Đối với
chính sách tài khóa: Chính phủ Mỹ đã cắt giảm thuế trong giai đoạn 2001–2003 và
tăng chi tiêu của Chính phủ như: Đầu tư vào lĩnh vực hàng không, xây dựng lại NYC,
và tăng chi tiêu cho chiến tranh ở Afghanistan war. Kết quả là đường IS dịch chuyển
sang phải. Đối với chính sách tiền tệ: Chính phủ hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mua
trái phiếu để tăng cung tiền, kết quả là đường LM dịch chuyển sang phải.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng đã làm tăng thu nhập của nền kinh tế
Mỹ, đưa nền kinh tế Mỹ dần thoát khỏi cuộc khủng hoảng trong các năm tiếp theo.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
146
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Thị trường hàng hóa cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi suất cho
trước. Khi lãi suất thay đổi đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu nhập mới. Như
vậy, nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của
thị trường hàng hóa sẽ được một đường gọi là đường IS.
Đường IS có độ dốc âm. Độ dốc của đường IS sẽ phụ thuộc vào độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư
và nhu cầu tiêu dùng tự định đối với lãi suất. Nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định càng
bị giảm xuống do lãi suất tăng, khi lãi suất tăng sẽ càng làm giảm mức thu nhập cân bằng và độ
dốc của đường IS càng thoải. Phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác
động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát
trong nền kinh tế như thế nào. Hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường IS xảy ra là
do lãi suất thay đổi. Bất kỳ các yếu tố tự định (các yếu tố của tổng cầu không phụ thuộc vào thu
nhập thay đổi) đều làm cho đường IS dịch chuyển song song sang vị trí mới.
Các điểm nằm dưới đường IS biểu thị tình trạng thiếu hàng (dư cầu), các điểm nằm bên ngoài
đường IS biểu thị tình trạng thừa hàng (dư cung).
Đường LM là đường bao gồm tập hợp tất cả các điểm phản ánh mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lãi
suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng. Đường LM có độ dốc dương. Nếu độ nhạy cảm
của cầu tiền với lãi suất (h) càng lớn thì đường LM càng thoải; nếu độ nhạy cảm của cầu tiền và
thu nhập (k) càng lớn thì đường LM càng dốc và ngược lại. Phân tích độ dốc của đường LM cho
chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập,
lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào. Khi thu nhập tăng lên đòi hỏi một
lượng cầu tiền tăng thêm dẫn đến tăng lãi suất do cung tiền không đổi. Như vậy, khi thu nhập
thay đổi, xảy ra hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM. Khi cầu tiền nhạy
cảm với thu nhập và kém nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ rất dốc. Nếu mức cung tiền
giảm xuống, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái.
Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hóa với các tổ hợp khác nhau
giữa lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ cũng
của những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa hai thị trường ấn định mức lãi suất và thu nhập cân
bằng đồng thời cho cả hai thị trường tại một điểm (r0, Y0).
Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, bằng việc tăng
chi tiêu của Chính phủ thêm một lượng là G, khi đó tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng, tổng cầu
tăng, đường IS dịch chuyển sang phải, do tổng cầu tăng thêm một lượng là
1
G
1 MPC(1 t)
, cầu tiền tăng, đẩy lãi suất tăng. Lãi suất tăng là nguyên nhân làm giảm
đầu tư (đây chính là hiện tượng tháo lui đầu tư).
Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tùy thuộc vào các công cụ mà Chính
phủ đưa ra, phụ thuộc vào độ dốc của đường IS và đường LM, đồng thời phụ thuộc vào mức độ
phản ứng, mức độ tác động của hai chính sách này.
Hiện nay, phần lớn các nhà kinh tế đều dựa vào mô hình tổng cầu và tổng cung để phân tích các
tác động của các chính sách vĩ mô đến sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, của nền kinh tế.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
187
Hiểu mô hình và biết cách vận dụng mô hình này để phân tích ảnh hưởng của các cú sốc và
chính sách của chính phủ là rất quan trọng đối với các nhà kinh tế.
Hiệu ứng Pigou: Với mức giá thấp hơn, lượng tiền mà các hộ gia đình đang nắm giữ trở nên có giá
trị hơn. Các hộ gia đình cảm thấy giàu có hơn và chi tiêu nhiều hơn, làm tăng tiêu dùng.
Hiệu ứng Keynes: Với mức giá thấp hơn, các hộ gia đình cần giữ ít tiền hơn để mua lượng hàng
hóa như cũ. Họ cho vay một phần số tiền thừa, làm cho lãi suất giảm đi và có tác dụng kích thích
đầu tư.
Hiệu ứng tỷ giá hối đoái: Việc giảm giá trong nước làm cho hàng hóa nội địa trở nên rẻ một cách
tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu
và làm tăng thành phần xuất khẩu ròng trong tổng cầu.
Đường tổng cầu được rút ra từ mô hình IS-LM cho thấy mối quan hệ giữa mức tổng cầu thực tế
và mức giá. Bất cứ sự thay đổi nào trong các yếu tố tác động tới đường IS và LM cũng ảnh
hưởng tới đường AD. Ví dụ, bất kỳ sự gia tăng nào trong mức chi tiêu thực tế của Chính phủ
được tài trợ bằng trái phiếu mà làm dịch chuyển đường IS về phía phải, thì cũng làm cho đường
AD dịch chuyển về phía phải. Sự gia tăng trong khối lượng tiền tệ danh nghĩa – điều làm cho
đường LM dịch chuyển về phía phải đối với mọi mức giá – cũng làm cho đường AD dịch chuyển
về phía phải.
Đường tổng cung cổ điển được thiết lập trên cơ sở giả định về sự cân bằng thị trường và quá
trình điều chỉnh tiền lương thực tế. Các phân tích hiện đại về tổng cung đều có chung kết luận là
đường tổng cung ngắn hạn có độ dốc dương. Phương trình cơ bản về đường tổng cung ngắn hạn
của chúng ta là: * eY Y (P P ) , trong đó, là một số dương và eP biểu diễn kỳ vọng về
mức giá.
Có bốn mô hình khác nhau giải thích về đường tổng cung ngắn hạn: (1) mô hình tiền lương cứng
nhắc, (2) mô hình nhận thức sai lầm của công nhân, (3) mô hình thông tin không hoàn hảo, và
(4) mô hình giá cả cứng nhắc. Các mô hình này có một số đặc điểm chung, và mỗi mô hình chỉ
giải thích được một số khía cạnh nhất định của thực tế.
Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu (cú sốc cầu)
sẽ gây ra sự dao động của sản lượng và mức giá. Điều này thường được coi là tốn kém và không
mong muốn.
Các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các nguồn lực
trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc cung bất lợi. Ngược lại, các
cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú sốc cung có lợi. Các ví dụ về cú sốc cung bất lợi như:
Thời tiết xấu làm giảm sản xuất lương thực; do sức ép của công đoàn làm tăng tiền lương; OPEC
hạn chế sản lượng khai thác làm tăng giá dầu trên thị trường thế giới. Các cú sốc cung bất lợi làm
tăng chi phí sản xuất. Khi xảy ra cú sốc cung, mức giá tăng lên, sản lượng của nền kinh tế giảm
xuống, xảy ra hiện tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
146
BÀI TẬP THỰC HÀNH
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tại sao đường tổng cầu dốc xuống?
2. Phân tích cách thức xây dựng đường tổng cầu dựa trên mô hình IS – LM.
3. Phân tích tác động chính sách tài khóa đến đường tổng cầu.
4. Phân tích tác động của chính sách tiền tệ mở rộng đến đường tổng cầu.
5. Hãy phân tích mô hình tiền lương cứng nhắc.
6. Phân tích nguyên nhân gây ra biến động kinh tế từ các cú sốc cầu và động thái của các nhà
họach định chính sách.
7. Phân tích nguyên nhân gây ra biến động kinh tế từ các cú sốc cung
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Nếu MPC tăng lên thì đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.
2. Nếu cầu tiền rất nhạy cảm với thu nhập thì đường LM sẽ dịch chuyển song song sang trái.
3. Nếu cầu tiền nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ dịch chuyển song song sang phải.
4. Khi chi tiêu tự định của Chính phủ tăng lên thì đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.
5. Chính phủ tăng tỷ suất thuế ròng (t) là nguyên nhân làm cho đường IS sẽ dịch chuyển song
song sang trái.
6. Khi tiêu dùng tự định tăng lên thì đường IS sẽ thay đổi độ dốc.
7. Khi cung tiền thực tế thay đổi thì đường LM sẽ thay đổi độ dốc.
8. Khi đầu tư tự định thay đổi thì đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.
9. Khi thu nhập quốc dân tăng lên đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.
10. Độ dốc của đường IS và đường LM có thể chỉ ra được mức độ tác động của các chính sách
tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế.
11. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh thì chính phủ có thể điều chỉnh nền kinh tế bằng việc
sử dụng chính chính tài khóa nới lỏng phối hợp với chính sách tiền tệ nới lỏng.
12. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì chính phủ có thể điều chỉnh nền kinh tế bằng
việc áp dụng phối hợp chính sách tài khóa chặt với chính sách tiền tệ chặt.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Đường IS cho biết điều gì?
A. Thị trường hàng hóa cân bằng.
B. Thị trường tiền tệ cân bằng.
C. Sản lượng càng tăng, lãi suất càng giảm.
D. Sản lượng càng tăng, lãi suất giữ nguyên.
2. Đường LM cho biết điều gì?
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
189
A. Lãi suất và sản lượng phụ thuộc lẫn nhau.
B. Thị trường tiền tệ cân bằng.
C. Thị trường hàng hóa cân bằng.
D. Thị trường lao động cân bằng.
3. Trong mô hình AS-AD, sự dịch chuyển sang trái của đường AD có thể là do nguyên nhân nào?
A. Giảm thuế.
B. Tăng niềm tin của người tiêu dùng và các doanh nghiệp vào triển vọng phát triển của nền
kinh tế trong tương lai.
C. Giảm chi tiêu chính phủ.
D. Tăng cung tiền danh nghĩa.
4. Theo mô hình IS-LM trong nền kinh tế đóng, chính sách tài khóa mở rộng được thể hiện
bằng sự dịch chuyển nào trên đồ thị đường IS – LM?
A. Sang phải của đường IS.
B. Sang trái của đường IS.
C. Sang phải của đường LM.
D. Sang trái của đường LM.
5. Khi Chính phủ tăng thuế đánh vào hàng tiêu dùng nhập khẩu, đường nào sẽ dịch chuyển?
A. Đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
B. Đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
C. Đường tổng cung dịch chuyển sang trái.
D. Đường tổng cung dịch chuyển sang phải.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài tập 1
Trong nền kinh tế mở, giả định tỷ giá hối đoái là cố định không tác động đến các biến số kinh tế
khác, có số liệu sau: (Đơn vị: tỷ USD)
C = 50 + 0,75YD T = 0,2Y MD = 0,2Y – 10r
I = 140 – 8r IM = 40 + 0,1Y MS = 137,5
G = 200 X = 200
a. Hãy viết phương trình của đường IS và đường LM
b. Xác định lãi suất cân bằng và mức thu nhập cân bằng đồng thời của nền kinh tế. Tình trạng
của NS chính phủ tại mức thu nhập cân bằng.
c. Để thực hiện tăng chi tiêu của Chính phủ về hàng hóa và dịch vụ thêm 100 tỷ, thì mức thu
nhập cân bằng và lãi suất cân bằng mới là bao nhiêu? Cho biết tác động của chính sách tài
khóa trong trường hợp này và minh họa bằng đồ thị.
Bài tập 2
Giả sử trong nền kinh tế đóng có số liệu như sau: Hàm tiêu dùng C = 200 + 0,75YD. Hàm đầu tư
I = 200 - 25r, với r là mức lãi suất danh nghĩa; chi tiêu của Chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ G
= 100, thuế T = 100, hàm cầu tiền MD = Y - 100r. Cung tiền MS = 500.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
146
a. Xây dựng phương trình đường IS và phương trình đường LM.
b. Mức thu nhập và lãi suất cân bằng là bao nhiêu?
c. Giả sử chi tiêu của Chính phủ tăng từ 100 lên 150. Viết lại phương trình đường IS và tính lãi
suất và thu nhập cân bằng mới là bao nhiêu?
d. Giả sử cung ứng tiền tệ tăng từ 500 lên 600, hãy viết lại phương trình đường LM và tính thu
nhập và lãi suất cân bằng mới.
Bài tập 3
Trong mô hình giá cả cứng nhắc, hãy cho biết hình dáng của đường tổng cung trong các trường
hợp đặc biệt sau đây:
a. Không có doanh nghiệp nào có giá cả linh họat.
b. Giá cả mong muốn không phụ thuộc vào tổng cầu sản lượng.
Bài tập 4
Hãy xem xét những thay đổi sau trong mô hình tiền lương cứng nhắc:
a. Giả sử các hợp đồng lao động quy định tiền lương danh nghĩa áp dụng chỉ số trượt giá toàn
phần theo lạm phát. Nghĩa là tiền lương danh nghĩa được điều chỉnh để bù lại toàn bộ những
thay đổi trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Chỉ số trượt giá toàn phần này làm thay đổi đường
tổng cung trong mô hình như thế nào?
b. Giả sử bây giờ chỉ số trượt giá chỉ mang tính chất từng phần. Nghĩa là mỗi khi CPI tăng, tiền
lương danh nghĩa tăng theo nhưng với tỷ lệ phần trăm nhỏ hơn. Chỉ số trượt giá từng phần
làm thay đổi đường tổng cung trong mô hình như thế nào?
Bài tập 5
Giả sử rằng các công nhân và hãng đột nhiên tin rằng lạm phát có thể sẽ tăng cao trong năm tới.
Cũng giả sử rằng, nền kinh tế ban đầu ở trạng thái cân bằng dài hạn và đường tổng cầu không
dịch chuyển.
a. Điều gì sẽ xảy ra với tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế?
b. Sử dụng đồ thị tổng cầu và tổng cung, hãy chỉ ra tác động của sự thay đổi kỳ vọng đến mức
giá và sản lượng cả trong dài hạn và ngắn hạn.
c. Việc dự tính lạm phát cao có đúng không? Hãy giải thích.
Bài tập 6
Đối với mỗi trong bốn lý thuyết giải thích đường tổng cung ngắn hạn, dốc lên hãy giải thích
những điều sau:
a. Làm thế nào mà một nền kinh tế phục hồi từ suy thoái về trạng thái cân bằng dài hạn mà
không có bất kỳ sự can thiệp nào của Chính phủ?
b. Điều gì quyết định tốc độ phục hồi kinh tế?
Bài tập 7
Giả sử nền kinh tế Việt Nam ban đầu ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm năng. Trong
năm 2018, giá nhập khẩu các nguyên liệu chủ yếu (dầu, thép, phân bón, nhựa,) tăng mạnh trên
thị trường thế giới.
a. Hãy giải thích và minh họa bằng đồ thị AS – AD tác động của sự kiện trên đến nền kinh tế
Việt Nam trong ngắn hạn trên ba phương diện: mức giá, sản lượng và việc làm.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
191
b. Nếu các nhà họach định chính sách quyết định can thiệp để đưa sản lượng trở lại mức tiềm
năng, họ sẽ cần sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để điều tiết tổng cầu như thế nào? Hãy
cho biết ưu điểm và nhược điểm của giải pháp này.
c. Nếu các nhà họach định chính sách quyết định can thiệp để đưa mức giá trở về giá trị ban
đầu, thì họ sẽ cần sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để điều tiết tổng cầu như thế nào?
Hãy cho biết ưu điểm và nhược điểm của giải pháp này.
d. Đối phó với cú sốc trên giải pháp mà Chính phủ Việt Nam có thể sử dụng để góp phần kiềm
chế lạm phát, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế?
Bài tập 8
Hãy giải thích xem mỗi biến cố sau đây làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn, đường tổng
cầu, cả hai, hay không đường nào. Trong mỗi trường hợp, hãy cho biết ảnh hưởng ngắn hạn đến
sản lượng và mức giá của nền kinh tế.
a. Các hộ gia đình quyết định sẽ tiết kiệm một tỷ lệ ít hơn trong thu nhập.
b. Các vườn cà phê ở Tây Nguyên trải qua một đợt hạn hán kéo dài.
c. Nhiều lao động trẻ có cơ hội ra nước ngoài làm việc.
d. Một đợt suy thoái ở nước ngoài làm người nước ngoài mua hàng hóa Việt Nam ít hơn.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
146
ĐÁP ÁN
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường IS sẽ thay đổi độ dốc, nó càng thoải hơn trước.
2. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường LM thay đổi độ dốc.
3. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường LM sẽ thay đổi độ dốc.
4. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Tổng cầu tăng, đường IS dịch chuyển sang phải.
5. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường IS sẽ thay đổi độ dốc.
6. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.
7. Đáp án đúng là: Sai.
Đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.
8. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường IS dịch chuyển song song.
9. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Chỉ xảy ra sự di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM.
10. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Đường IS càng dốc thì tác động của chính sách tiền tệ càng kém hiệu quả.
11. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Cần sử dụng sự phối hợp chính sách ngược lại.
12. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Cần sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Đáp án đúng là: A. Thị trường hàng hóa cân bằng.
Vì: Theo khái niệm về đường IS là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp
giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường hàng hóa cân bằng.
2. Đáp án đúng là: B. Thị trường tiền tệ cân bằng.
Vì: Theo khái niệm về đường LM là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp
giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng.
3. Đáp án đúng là: C Giảm chi tiêu Chính phủ.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
193
Vì: Khi giảm G, tổng cầu giảm (do AD = C + I + G + NX), đường AD dịch chuyển sang trái.
4. Đáp án đúng là: A. Sang phải của đường IS.
Vì: Theo khái niệm về đường IS là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp
giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường hàng hóa cân bằng. Nó thể hiện các sự thay đổi của
chính sách tài khóa. Do đó, chính sách tài khóa mở rộng sẽ làm cho đường IS dịch chuyển
sang phải.
5. Đáp án đúng là: B. Đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
Vì: Khi Chính phủ tăng thuế đánh vào hàng tiêu dùng nhập khẩu, hàng ngoại nhập trở nên
đắt hơn, hàng trong nước trở nên rẻ một cách tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác
dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và làm tăng thành phần xuất khẩu ròng
trong tổng cầu. Tổng cầu tăng lên, đường Tổng cầu dịch chuyển sang phải.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài tập 1
a. Phương trình của đường IS và LM:
rIS = 68,75 – 0,0625Y hay Y = 1000 – 16r
rLM = 0,02Y – 13,75 hay Y = 687,5 – 50r
b. Thu nhập cân bằng và lãi suất cân bằng đồng thời của nền kinh tế:
Y0 = 1000 tỷ, r0 = 6,25%
B = T – G = 0: Ngân sách chính phủ cân bằng.
c. Nếu tăng chi tiêu của Chính phủ thêm 100 tỷ:
r’IS = 81,25 – 0,0625Y
Y0’ = 1151,51 tỷ r0 = 9,28%
Khi Chính phủ tăng chi tiêu, tổng cầu tăng, đường IS dịch chuyển sang phải, đã làm cho sản
lượng cân bằng và lãi suất cân bằng đều tăng.
Bài 2
a. Đường IS là Y = 1700 – 100 và đường LM là r = 0,01Y – 5.
b. Y = 1100 và r = 6 (%).
c. Đường IS là Y = 1900 – 100r; Y = 1200 và r = 7 (%).
d. Đường LM là r = 0,01Y – 6; Y = 1150 và r = 5,5 (%).
Bài 3
Trong bài tập này, ta xét hai trường hợp đặc biệt về mô hình tiền lương cứng nhắc. Trong mô
hình tiền lương cứng nhắc, tất cả các doanh nghiệp có mức giá mong muốn p và p phụ thuộc vào
mức giá chung P và tổng cầu Y Y * , trong đó Y* là mức sản lượng tiềm năng. Công thức về sự
liên hệ này là:
p P (Y Y*)
Có hai loại doanh nghiệp. Tỷ lệ (l s) trong số các doanh nghiệp có giá cả linh họat và đặt giá
dựa theo công thức trên. Phần còn lại có giá cả cứng nhắc. Họ thông báo giá cả dựa vào tình hình
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
146
kinh tế mà họ kỳ vọng trong tương lai. Ta giả sử các doanh nghiệp dự kiến sản lượng ở mức tự
nhiên nên eY Y* 0 . Vì vậy, các doanh nghiệp này đặt giá cả bằng với mức giá dự kiến: eP P
Mức giá chung được tính theo công thức:
eP sP (l s) P (Y Y*)
hay eP P (l s) / s (Y Y*)
a. Nếu không có doanh nghiệp nào có giá cả linh hoạt, thì s = l. Công thức trên cho ta biết
eP P .
Tức là mức giá chung được cố định ở mức giá dự kiến và đường tổng cung sẽ nằm ngang
trong ngắn hạn.
b. Nếu giá cả mong muốn hoàn toàn không phụ thuộc vào mức sản lượng thì 0 . Một lần
nữa ta lại có eP P : Đường tổng cung là nằm ngang trong ngắn hạn.
Bài tập 4
Trong mô hình tiền lương cứng nhắc, ta giả thiết rằng tiền lương không thay đổi ngay tức khắc
khi có thay đổi trong thị trường lao động. Điều đó dẫn đến đường tổng cung dốc lên và có dạng:
eY Y* (P P )
Trong bài tập này, ta xét tác động của việc cho phép các hợp đồng điều chỉnh theo lạm phát.
a. Trong mô hình đơn giản về tiền lương cứng nhắc, tiền lương danh nghĩa W bằng tiền lương
thực tế dự kiến ω nhân với mức giá dự kiến eP : eW P . Tuy nhiên, việc điều chỉnh
hoàn toàn làm cho tiền lương thực tế phụ thuộc vào mức giá thực tế. Có nghĩa là hợp đồng
xác định cụ thể tiền lương thực tế mong muốn và tiền lương danh nghĩa được điều chỉnh
hoàn toàn khi có thay đổi trong mức giá. Do đó: W P hay W/P . Điều đó có nghĩa
là những thay đổi đột ngột trong mức giá không ảnh hưởng đến tiền lương thực tế và số lao
động sử dụng hay sản lượng được sản xuất. Do đó, đường tổng cung là thẳng đứng
tại Y Y * .
b. Nếu chỉ điều chỉnh một phần thì đường tổng cung sẽ dốc hơn so với nếu không có điều
chỉnh, nhưng không phải là đường thẳng đứng. Trong mô hình tiền lương cứng nhắc, việc
mức gia tăng lên đột ngột làm giảm tiền lương thực tế do tiền lương danh nghĩa không bị tác
động. Với việc điều chỉnh một phần, mức giá tăng lên làm tăng tiền lương danh nghĩa. Do sự
điều chỉnh chỉ là một phần, tiền lương danh nghĩa tăng ít hơn mức giá, do đó, tiền lương thực
tế giảm. Điều đó làm cho các doanh nghiệp sử dụng lao động nhiều hơn và tăng sản xuất.
Tuy nhiên, tiền lương thực tế không giảm nhiều như trường hợp không có sự điều chỉnh, do
đó, sản lượng cũng sẽ tăng ít hơn.
Điều đó tương tự như việc làm cho hệ số trở nên nhỏ đi trong phương trình tổng cung. Có
nghĩa là những biến động trong sản lượng trở nên ít nhạy cảm hơn đối với những thay đổi bất
ngờ nào trong mức giá.
Bài tập 5
a. Công nhân sẽ yêu cầu tăng tiền lương danh nghĩa. Nếu mức giá không tăng nhiều như tiền
lương danh nghĩa thì tiền lương thực tế sẽ tăng.
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ECO102_Bai5_v2.0018102208
195
b. Với kỳ vọng về tiền lương danh nghĩa cao hơn, đường AS ngắn hạn sẽ dịch chuyển sang trái.
Trong ngắn hạn, nền kinh tế có sản lượng thấp hơn và mức giá cao hơn. Trong dài hạn,
đường AS ngắn hạn dịch chuyển về vị trí ban đầu.
c. Việc dự kiến lạm phát cao hơn chỉ phần nào đúng trong ngắn hạn nhưng sai trong dài hạn.
Bài tập 6
a. Theo lý thuyết nhận thức sai lầm của công nhân và thông tin không hoàn hảo thì nền kinh tế
lâm vào suy thoái khi giá cả thấp hơn mức dự kiến. Theo thời gian, người ta sẽ nhận thấy
điều này và điều chỉnh kỳ vọng về giá cả và nền kinh tế sẽ trở lại mức sản lượng tự nhiên.
Theo lý thuyết tiền lương cứng nhắc, suy thoái là do tiền lương danh nghĩa không đổi trong
khi mức giá giảm làm cho tiền lương thực tế quá cao và cầu lao động quá thấp. Theo thời
gian, khi tiền lương danh nghĩa giảm, làm tiền lương thực tế, cuối cùng nền kinh tế sẽ trở lại
mức sản lượng tự nhiên.
Theo lý thuyết giá cả cứng nhắc, nền kinh tế lâm vào suy thoái là do không phải giá cả mọi
hàng hóa đều giảm đủ mạnh. Theo thời gian, khi các doanh nghiệp điều chỉnh giá cả đủ mạnh
thì nền kinh tế sẽ trở lại trạng thái toàn dụng.
b. Tốc độ phục hồi kinh tế phụ thuộc vào tốc độ điều chỉnh kỳ vọng về giá cả (lý thuyết nhận
thức sai lầm và thông tin không hoàn hảo), tiền lương (lý thuyết tiền lương cứng nhắc), và
giá cả (lý thuyết giá cả cứng nhắc).
Bài tập 7
a. Đây là một cú sốc cung bất lợi, ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế là sản lượng và việc làm
giảm, trong khi mức giá tăng.
b. Kích cầu thông qua kênh tài khóa và tiền tệ sẽ giúp phục hồi kinh tế: Tăng sản lượng và việc
làm, nhưng đồng thời sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn.
c. Thắt chặt tài khóa và tiền tệ sẽ giúp ổn định mức giá, nhưng lại đẩy nền kinh tế lún sâu hơn
vào suy thoái.
d. Chính phủ nên giảm hoặc thậm chí miễn thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng có giá quốc
tế tăng cao. Điều này sẽ làm dịu bớt tác động bất lợi của cú sốc cung ngoại sinh đến chi phí
sản xuất. Trên đồ thị đường tổng cung ngắn hạn sẽ dịch chuyển sang bên phải. Điều này sẽ
làm giảm áp lực lạm phát và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bài tập 8
a. Đường AD dịch chuyển sang phải do C tăng. Kết quả là cả Y và P đều tăng.
b. Đường AS ngắn hạn dịch chuyển sang trái. Kết quả là Y giảm và P tăng.
c. Cả đường AS (do lao động giảm) và AD (do số người mua hàng giảm) đều dịch chuyển sang
trái. Kết quả là Y giảm, còn ảnh hưởng đến P thì chưa đủ thông tin để kết luận.
d. Đường AD dịch chuyển sang trái do xuất khẩu giảm. Kết quả là cả Y và P đều giảm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_mon_kinh_te_hoc_vi_mo_bai_5_mo_hinh_tong_cau_va_t.pdf