Trong binh pháp cũng đề cao võ đức “Bổn đức tôn đạo – dùng đức làm nền gốc, lấy đạo
làm cao quý: An mục an ư nhẫn nhục; tiên mạc tiên ư tu đức; lạc mạc lạc ư hiếu thiện; thần mạc
thần ư chí thành nghĩa là chẳng có gì yên bằng nhẫn nhục, chẳng có gì cần trước hơn là tu đức,
chẳng gì vui bằng mến điều lành, chẳng có gì mầu nhiệm hơn lòng chí thành ” (Thái Công
Binh pháp)
“Dùng mưu trí hàng phục thiên hạ mà thiên hạ chịu khuất phục mưu trí của minhdthì̀
mưu trí ấy cũng chưa phải là tối thắng. Dùng hình pháp để chế ngự thiên hạ mà thiên hạ chịu
theo hình pháp của mình thì hình pháp ấy cũng chẳng có gì hay. Dùng mưu trí hay hình pháp đều
chẳng phải là điều hay nhất trong những điều hay. Ngày xưa Thánh Võ giữ thế mà chẳng vây
thành, chẳng đánh lũy, chẳng bày trận, đó là nhờ nương náu ở chỗ hư không. Hun đúc trong thế
không tranh mà được vậy”. (Binh Thư Yếu Lược – Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn).
Tài năng của tướng súy là “Đạo chi dĩ đức; tề chi dĩ lễ; tri kỳ cơ hàn; sát kỳ lao khổ; thử
chi vị nhân tướng Dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ nghi để sắp đặt yên ổn cho
người, hiểu biết việc đói rét của họ, đó là hạng tướng có lòng nhân ái ” (Binh pháp – Khổng
Minh Gia Cát Lượng)
Sách Luận ngữ chép: “Làm việc chánh dùng lấy đức ví như sao Bắc Thần đứng một chỗ
mà các vì sao khác đều qui chầu tất cả” và Trương Cửu Thành thì: “Người biết đạo tất không
khoe, người biết nghĩa tất không tham, người biết đức tất không thích tiếng tăm lừng lẫy”.
Với võ thuật cổ truyền, giữ được lòng tự trọng dân tộc Việt Nam là giữ được tinh thần võ
đức cao cả và luôn gắn liền với 5 chữ “ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”
30 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 908 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình môn võ thuật cổ truyền, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
– 2003,
ASEAN Para Games 2 – 2003 và ASIAN Indoor Games lần III năm 2009. Qua hoạt động thực
tiễn, Uỷ ban Olympic Việt Nam đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp phát triển Thể thao
Olympic của nước nhà, tạo ra những chuyển biến tích cực của Phong trào Olympic Việt Nam
trên 3 lĩnh vực chiến lược: Thể thao cho mọi người, Thể thao đỉnh cao và Quan hệ Quốc tế trong
lĩnh vực Thể thao.
Thành tích tại Đại hội Thể thao Olympic: Cho đến nay, Thể thao Việt Nam đã đạt được 2
huy chương bạc tại các kỳ Olympic.
- Tại Đại hội Olympic Sydney 2000, nữ võ sỹ Taekwondo Trần Hiếu Ngân đạt tấm huy chương
đầu tiên cho thể thao Việt Nam sau 5 kỳ tham dự Đại hội Olympic. Đây được ghi nhận là thành
tích có ý nghĩa lịch sử của thể thao Việt Nam trên đấu trường Olympic.
- Tại Đại hội Olympic Bắc Kinh 2008, Lực sĩ cử tạ Hoàng Anh Tuấn đã làm nức lòng người hâm
mộ thể thao khi vượt qua mọi áp lực để giành chiếc HCB Olympic thứ hai trong lịch sử thể thao
Việt Nam.
Thành tích tại Đại hội Thể thao Châu Á (ASIAD):
- New Delhi 1982: 1 HC đồng (Bắn súng)
- Hiroshima 1994: 1 HC vàng (Trần Quang Hạ - Taekwondo) & 2 HC bạc (karatedo).
- Bangkok 1998: 1 HCV (Hồ Nhất Thống - Taekwondo), 5 HCB & 11 HCĐ.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 9
- Busan 2002: 4 HCV (Vũ Kim Anh, Nguyễn Trọng Bảo Ngọc - karatedo, Lý Đức- thể hình, Trần
Đình Hòa- billards), 7 HCB & 7 HCĐ.
- Doha 2006: 3HCV (2 cầu mây, Vũ Nguyệt Ánh- karatedo), 13 HCB & 7HCĐ.
- Guangzhou 2010: 1 HCV (Lê Bích Phương-karatedo), 17 HCB và 15 HCĐ
Thành tích tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á (SEA Games):
- Kualar Lumpur -1989: 3 HCV - 11 HCB - 5 HCĐ. Hạng 7/9 đoàn tham dự.
- Manila 1991: 7 HCV - 12 HCB - 10 HCĐ. Hạng 7/9.
- Singapore 1993: 9 HCV - 6 HCB - 19 HCĐ. Hạng 6/9.
- Chiangmai 1995: 10 HCV - 18 HCB - 24 HCĐ. Hạng 6/10.
- Jakatar 1997: 35 HCV - 48 HCB - 50 HCĐ. Hạng 6/10
- Brunei Sarussalam 1999: 17 HCV - 20 HCB - 27 HCĐ. Hạng 6/10.
- Kuala Lumpur 2001: 33 HCV - 35 HCB - 64 HCĐ. Hạng 4/10.
- Việt Nam 2003: 156 HCV - 91 HCB - 93 HCĐ. Hạng 1.
- Philippin 2005: 71 HCV - 68 – 89. Hạng 3.
- Thailand 2007: 64 HCV - 54 HCB - 83 HCĐ. Hạng 3.
- Lào 2009: 83 HCV, 75 HCB, 57 HCB. Hạng 2.
1.2. Ý nghĩa của việc tâp luyện TDTT :
LỢI ÍCH CỦA THỂ DỤC THỂ THAO
Tổ chức y tế thế giới (WHO, 1946) đưa ra quan
điểm sức khỏe là “Trạng thái toàn diện về thể chất, tinh
thần và sự thịnh vượng xã hội” (a complete state of
physical, mental and social prosperity). Định nghĩa này
cho thấy quan điểm sức khỏe không chỉ là không bệnh
tật. Trạng thái khỏe mạnh không phải là bất biến, một số yếu tố nhất định có thể duy trì hay làm
tăng tình trạng sức khỏe và cũng có những yếu tố làm suy giảm sức khỏe. Trong đó, việc tập
luyện TDTT là những hoạt động có lợi cho sức khỏe.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 10
Trong quá khứ, thể thao không phải là mục tiêu phát triển sức khỏe, cho đến cuối thế kỷ 19
với câu châm ngôn của Juvenal “mens sana in corpore sano” có nghĩa: “Một tinh thần khỏe
mạnh trong 1 cơ thể cường tráng” đã hình thành một quan điểm mới về tập luyện TDTT khi
những lợi ích của TDTT được thừa nhận. Quan điểm này ngày càng chứng tỏ rõ ràng hơn khi
hiện tượng cơ giới hóa và tự động hóa của xã hội xuất hiện, có nghĩa là các hoạt động thể chất
trong lúc lao động bị giảm sút và lối sống ít vận động bắt đầu biểu lộ một số tác hại.
Tham gia vào tất cả các hoạt động mà cơ thể phải tiêu hao năng lượng nhiều hơn trạng
thái nghỉ ngơi, vận động thể chất bao gồm không chỉ là thể thao mà còn là các trò chơi vận động,
đi bộ, khiêu vũ, bơi lội
Đã có rất nhiều nghiên cứu về vai trò, lợi ích của tập luyện TDTT đối với sức khỏe (thể
chất và tinh thần) con người, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống. Sau đây là một số tổng kết:
1. Tuổi thọ: Từ thế kỷ 19, các nhà khoa học đã nghiên cứu tác động của TDTT đến việc
kéo dài tuổi thọ. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy việc tham gia hoạt động TDTT ở đại đa số
các môn đều có thể làm tăng tuổi thọ. Thí dụ: Theo Bouchard (1994): các VĐV môn chèo thuyền
ở ĐH Cambridge và Oxford, cũng như VĐV trượt tuyết Phần Lan có tuổi thọ cao hơn người
không tập luyện. Một nghiên cứu khác của Paffenbarger và cộng sự (1986) trên hơn 15.000 cựu
sinh viên ĐH Harvard cho thấy những người tham gia hoạt động TDTT, đặc biệt là đi bộ, thì tuổi
thọ tăng lên gần 2 năm so với người bình thường.
2. Bệnh tật:
Báo cáo của WHO (2002, 2003), ước lượng trên toàn cầu, không vận động thể chất là
nguyên nhân chính gây ra 1.9 triệu người chết hàng năm, trong đó có 250.000 người Mỹ. Lối
sống ít vận động ở Mỹ là nguyên nhân gây bịnh, chiếm 18% các ca bịnh tim mạch, 22% các ca
ung thư ruột kết, tiêu tốn 3.5% chi phí dành cho sức khỏe toàn liên bang (US Department of
Health,1996). Ở Canada, 21.000 trường hợp chết yểu do không vận động, tiêu tốn 2.1 tỷ USD
trong năm 1999, chiếm 2.5 % quỹ chăm sóc sức khỏe (Katzmarzyk et al., 2000). Rất nhiều
nghiên cứu đã cho thấy cái giá phải trả cho lối sống ít vận động và lợi ích của tập luyện TDTT,
dẫn đến việc thúc đẩy mạnh các chương trình hoạt động TDTT ngày càng rộng lớn trên thế giới.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 11
Béo phì: Cho dù lượng calory tiêu thụ trung bình không tăng trong thế kỷ 20 nhưng số
lượng người bịnh béo phì lại tăng cao ở các nước phát triển. Năm 1850, 1/3 năng lượng được
dùng trong lao động ở các nhà máy và nông trường, trong khi ước lượng hiện nay chỉ khoảng 1
%. Lối sống đô thị hóa, sử dụng thường xuyên xe hơi, ít đi bộ, thời gian ngồi trước tivi ngày
càng tăng, lười vận động, ít tập TDTT là những yếu tố góp phần vào việc tăng số lượng người
béo phì ngày nay (Prentice & Jebb, 1995).
Bệnh tim mạch: Một trong những tác động có hại dễ thấy nhất của rối loạn chức năng vận
động là các bệnh tim mạch. Từ 1953, nghiên cứu của Morris (1953) về các nhân viên làm việc tại
công ty xe bus London cho thấy các tài xế bị bệnh tim mạch gấp 2 người bán vé (có đi lại). Đây
là lần đầu tiên lợi ích của hoạt động vận động được chứng minh bằng tỉ lệ bệnh tim mạch. Các
nghiên cứu tiếp tục được tiến hành từ 1968 đến 1978, trên 16.882 người, Morris khẳng định tỉ lệ
bịnh tim mạch xảy ra ít hơn đối với nhóm có hoạt động TDTT, 3.1 % so với 6.9 % ở nhóm
không TDTT (1980). Một nghiên cứu trên 16.936 cựu sinh viên Harvard cho thấy: những người
có tham gia TDTT nhưng ít, 1 lần/tuần, có nguy cơ bị tim mạch cao hơn 64% so với nhóm tham
gia TDTT cường độ cao (Paffenbarger et al., 1978).
Phân tích các kết quả nghiên cứu tại Mỹ, nghiên cứu tất cả các yếu tố liên quan đến bịnh
tim mạch trên 12.866 người từ 35 đến 57 tuổi, cho thấy: tỉ lệ tử vong ở nhóm tập luyện TDTT
45phút/ngày thấp hơn đáng kể nhóm chỉ tập 15 phút / ngày (Leon & Connett, 1988). Nhiều
nghiên cứu khác cũng cho thấy rõ tập luyện TDTT sẽ làm giảm nguy cơ bịnh tật, đặc biệt là tim
mạch. Vận động thể chất có xu hướng làm giảm triglyceride và cholesterol (tác nhân gây nghẽn
động mạch), nâng cao độ nhạy insulin, nâng cao chức năng cơ tim, giúp máu lưu thông đến tim
dễ dàng và giúp hạn chế sự hình thành máu cục. phòng chống bịnh loãng xương và tiểu đường,
làm giảm căng thẳng và lo âu.
Bệnh Parkinson: Một nghiên cứu của trường ĐH Harvard trên 48.000 người đàn ông, kết
quả cho thấy: hầu hết những ai vận động ít thì phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh và phát triển
bệnh kinh phong (Parkinson) 50% so với những người thường xuyên vận động.
Ung thư tuyến tiền liệt: Một nghiên cứu kéo dài 14 năm tại Đại học Harvard nhận thấy
rằng những người nào trên 65 tuổi thực hiện việc chạy bộ, đạp xe hay đi bơi ít nhất 3 lần/tuần thì
rủi ro mắc bệnh bị ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn 70% so với người không tập luyện TDTT.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 12
Bệnh giảm trí nhớ: Một nghiên cứu ở ĐH Honolulu cho thấy: những người đi bộ ít hơn
400 mét/ngày hầu như có nguy cơ giảm trí nhớ gấp 2 lần so với người có vận động thường
xuyên.
3. Hình thành nhân cách, đặc biệt là đối với trẻ em.
Cái quý nhất của mỗi con người là sức khỏe và trí tuệ. Có sức khỏe tốt sẽ tạo điều kiện
cho trí tuệ phát triển được tốt hơn và ngược lại. TDTT giúp người tập có được sức khỏe tốt, từ đó
hiệu quả học tập, công tác và tham gia các hoạt động ở nhà trường, xã hội đạt hiệu quả cao hơn.
Khi tham gia các hoạt động TDTT đòi hỏi phải có tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần đoàn kết và
trách nhiệm trước tập thể, tác phong nhanh nhẹn, sự cố gắng, tính thật thà, trung thực... Đây
chính là quá trình giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách trẻ em, giúp người tập có một nếp
sống lành mạnh, vui tươi, học tập và làm việc khoa học.
Trong quá trình tập luyện và thi đấu TDTT, nếu thất bại, người tập sẽ học được cách chấp
nhận thất bại và tìm cách vượt qua, có nghĩa là đang học cách để thành công. Ngoài ra, quá trình
tập luyện thể thao sẽ tạo cho người tập phong cách riêng, không còn mắc cở, rụt rè trước đám
đông, mạnh mẽ trong thể hiện năng lực... chính phong cách này sẽ góp phần giúp người tập tự tin
hơn trong cuộc sống.
4. Sức khỏe thể chất: Tổng kết nhiều nghiên cứu cho thấy tập luyện TDTT có thể cải
thiện hoạt động các hệ thống cơ xương, tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, nâng cao khả năng thích
nghi của cơ thể đối với môi trường bên ngoài.
- Tập luyện TDTT thường xuyên, đúng khoa học sẽ làm cho hệ cơ xương phát triển hài hòa. Cơ
bắp nở nang, rắn chắc, tạo ra vẻ đẹp hình thể và dáng đi khỏe mạnh của con người. Sức mạnh,
sức nhanh, sức bền, năng lực mềm dẻo và linh hoạt của cơ tăng lên.
- Tập luyện TDTT với lượng vận động phù hợp có tác dụng kích thích tích cực đến sự phát triển
chiều dài và chu vi của xương, nói cách khác, có tác dụng kích thích phát triển chiều cao và chất
lượng xương đối với thiếu niên (Mc Ardle, 2000). Những môn như chạy, đi bộ, nâng tạ đều có
thể giúp phòng tránh loãng xương khi lớn tuổi.
-Tập TDTT sẽ làm nhịp tim tăng lên, tăng cường sức co bóp của cơ tim, dung lượng máu trong
tim tăng lên, tỷ lệ hấp thụ oxy của cơ thể tăng lên. Sự tăng cường hoạt động của tim sẽ giúp làm
chậm quá trình suy thoái của tim, giảm tỷ lệ sơ cứng mạch máu, huyết áp cao.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 13
- Tập TDTT giúp hô hấp có phản xạ thở sâu, thở nhanh hơn, tăng hoạt động của các cơ hô hấp,
tăng lượng oxy cung cấp cho tế bào, giúp cơ thể khỏe mạnh hơn do khả năng chịu đựng sự mệt
mỏi tăng lên.
- Tập TDTT đều đặn có khả năng tăng hàm lượng hồng cầu trong máu, sức đề kháng cơ thể cũng
tăng lên, ít bệnh tật hơn.
- Tập TDTT sẽ cải thiện kỹ năng vận động như đi, đứng, chạy, nhảy, leo trèo giúp ích rất
nhiều cho các vận động sinh hoạt, làm việc hàng ngày.
5. Làm tinh thần sảng khoái, giảm stress.
Trong cuộc sống hiện đại, với cường độ làm việc căng thẳng, nhiều áp lực trong cuộc
sống, ngày càng có nhiều người bị stress. Nhiều nghiên cứu cho thấy, tập luyện TDTT là một
trong những biện pháp hữu hiệu để giải tỏa stress nhanh và hiệu quả nhất, đặc biệt trong chữa
bệnh trầm cảm. Nhiều nghiên cứu cho thấy, tập luyện TDTT thường xuyên, kể cả chỉ 30 phút
mỗi ngày, cũng có tác dụng làm bớt nóng nảy, buồn rầu, người tập cảm thấy sảng khoái, lạc
quan, yêu đời hơn. Những thay đổi về tâm lý này có thể xảy ra do sự thay đổi của endorphin,
tăng hóc môn senotonin sẽ cải thiện tâm trạng, giúp thư giãn, yêu đời hơn.
6. Cải thiện chức năng não bộ
TS John Ratey, một trong những nhà tâm lý hàng đầu của ĐH Y khoa Harvard, cho rằng:
chính tập luyện TDTT, chứ không phải dầu cá hay trò chơi sudoku, là một trong những phương
tiện hữu hiệu nhất giúp bạn luôn lạc quan và tin tưởng vào trí tuệ của bản thân. Thường xuyên
tập luyện TDTT không chỉ tốt cho cơ thể mà còn giúp cải thiện não bộ, tăng cường khả năng học
hỏi, tăng trí nhớ, giảm stress, giảm sự lão hóa của não bộ. Kết quả nghiên cứu của Ratey cho
thấy: càng hào hứng với tập luyện thì não bộ càng làm việc hiệu quả. Quá trình luyện tập sẽ huy
động tối đa các hợp chất trong máu mà khi được vận chuyển tới não bộ sẽ hỗ trợ tối đa cho các tế
bào nơron. Một trong những hợp chất hóa này là protein BDNF, được xem là có tác động rất lớn
tới sự phát triển của não bộ.
Nghiên cứu này cũng cho thấy việc luyện tập có thể làm đảo ngược sự tác động của tuổi tác đối
với não bộ. Bước vào tuổi 40, thể tích não bộ sẽ giảm 5% sau từng thập kỷ. Điều này xảy ra do
các khớp thần kinh, vùng giữa các tế bào não có nhiệm vụ truyền các tín hiệu thần kinh, bị mòn
thậm chí là bị đứt. Các mao mạch dẫn truyền dưỡng chất cho não cũng sẽ co hẹp cùng với tuổi
tác, giảm lưu lượng máu tới não và kết quả là làm suy giảm các chức năng não bộ. Đây chính là
nguyên nhân vì sao càng lớn tuổi càng hay quên. Tập luyện TDTT sẽ khích thích một loạt các
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 14
phản ứng có tính chất trẻ hóa và kích thích các tế bào não, bảo vệ não bộ khỏi những tác hại của
stress và lão hóa.
7. Kỹ năng sống
Quá trình tập luyện TDTT là quá trình làm việc, giao tiếp với một tập thể gồm huấn luyện
viên, giảng viên, đồng đội, người tập chung. Qua đó, người tập có thể học hỏi những kỹ năng
sống có giá trị như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm cũng như kỹ năng lãnh đạo. Sự tự
tin sẽ tăng lên khi giành chiến thắng và đạt được mục tiêu. Trong môi trường TDTT, bạn sẽ có
cơ hội gặp gỡ, kết bạn với những người có cùng sở thích, có điều kiện có thêm nhiều bạn mới,
mở rộng mối quan hệ xã hội.
ĐI BỘ - HÌNH THỨC TẬP LUYỆN ĐƠN GIẢN VÀ PHỔ BIẾN NHẤT
Tổng kết nhiều công trình nghiên cứu cho thấy,
hoạt động thể chất phổ biến nhất là đi bộ có 8 lợi ích
sau:
1. Tốt cho tim: Chỉ cần đi bộ nhanh 30 phút/ngày
sẽ làm giảm hội chứng chuyển hóa (metabolic
syndrome) – là hội chứng dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh
tim mạch, tiểu đường và đột quỵ. Một nghiên cứu ở Anh
cho biết hoạt động thường xuyên (có thể kết hợp giữa đi bộ và đi xe đạp) có thể giảm 11% nguy
cơ mắc các bệnh tim mạch, đặc biệt là đối với phụ nữ).
2. Giảm nguy cơ mắc bịnh ung thư vú: Theo công bố trên tạp chí Hội y học Mỹ, đi bộ
vài giờ / tuần có ý nghĩ đặc biệt trong việc giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, đồng thời còn
giảm béo. Kết quả nghiên cứu trên 74.000 phụ nữ ở tuổi mãn kinh (50 -79 tuổi) cho thấy nguy cơ
mắc bịnh ung thư vú giảm đi 30% và thừa cân giảm 10 – 20% so với nhóm người có thể trạng
bình thường. Các nghiên cứu trên phụ nữ trẻ hơn cũng cho kết quả tương tự.
3. Giúp ngủ ngon: Theo tổ chức giấc ngủ Mỹ, đi bộ nhanh vào buổi chiều giúp người tập
có giấc ngủ ngon hơn.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 15
4. Làm giảm sự đau nhức cơ thể: đặc biệt là môn đi bộ nhanh (Chiwalking – kết hợp
Thái cực quyền, yoga và pilates (một môn thể dục mềm dẻo). Vì người tập thư giãn có ý thức,
làm cơ thể trở nên cân bằng qua việc vận động cánh tay, giảm áp lực lên chân trong khi đi, kết
quả làm giảm đau nhức cơ thể.
5. Làm tinh thần sảng khoái, hạnh phúc hơn: Đi bộ làm giảm sự buồn chán, lo âu và
stresss. Theo các nhà nghiên cứu thuộc ĐH Texas thì chỉ cần đi bộ 30 phút tâm trạng sẽ khá hơn.
Kết quả nghiên cứu của ĐH Temple (Mỹ) cho thấy đi bộ 90 phút, 5 lần/tuần có thể duy trì tâm
trạng tốt nhất. Theo nhiều nhà nghiên cứu: đi bộ giúp cơ thể sản sinh ra endorphin, tăng hóc môn
senotonin sẽ cải thiện tâm trạng, giúp thư giãn, yêu đời hơn.
6. Giữ vóc dáng mảnh mai: Đi bộ 30 phút mỗi ngày có thể tránh tăng cân ở hầu hết
những người ít vận động tự nhiên. Ở phụ nữ, nếu đi bộ 60 phút/ngày, 5 lần / tuần sẽ tiêu hao
khoảng 1500 Kcal/ngày và giảm 11 kg thừa / năm.
7. Duy trì trí nhớ cho người cao tuổi: nhiều nghiên cứu ở nhóm người cao tuổi cho thấy
đi bộ thậm chí 45 phút/tuần sẽ giảm nguy cơ bịnh Alzheimer, trong khi đi bộ trí não được tập
luyện và trở nên minh mẫn hơn.
8. Bảo vệ xương: Khi đi bộ đòi hỏi sử dụng 95% hệ cơ, giúp hệ xương khỏe mạnh và rắn
chắc hơn.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 16
1.3. Chấn thương trong thể thao :
CHẤN THƯƠNG TRONG HOẠT ĐỘNG TDTT
Trong những nǎm gần đây cùng với sự phát triển về
kinh tế xã hội, nhu cầu tập luyện thể thao của người dân ngày
một tǎng. Tập luyện TDTT mang lại lợi ích to lớn trong việc
duy trì, tǎng cường sức khỏe, phòng chống bệnh tật cho người
tập. Tuy nhiên cùng với những vai trò tích cực đó, tập luyện
TDTT kể cả TDTT quần chúng và thể thao thành tích cao cũng
đặt ra những vấn đề hết sức bức xúc đó là còn nhiều trường
hợp chấn thương và tai nạn đáng tiếc xảy ra kể cả tai nạn chết
người trong quá trình luyện tập và thi đấu thể thao.
Khái niệm: Chấn thương trong thể dục thể thao (TDTT)
là những tổn thương về thực thể hoặc chức năng do tập luyện và thi đấu thể thao gây nên.
Vài con số về chấn thương và tại nạn trong TDTT
Các công ty bảo hiểm ở Pháp ước tính tai nạn trong hoạt động TDTT chiếm tỉ lệ khoảng
5% trong tổng số các tai nạn xảy ra tại Pháp. Hai cuộc điều tra toàn quốc về các tại nạn từ 1987 –
1995 cho thấy có vấn đề về tai nạn thể thao, đặc biệt là đối với thanh thiếu niên (Garry,1999).
Hàng năm xảy ra 850.000 ca tai nạn thể thao ở thanh niên. Trong các ca tai nạn thể thao, bóng đá
chiếm 29%, bóng chuyền và bóng ném: 19%, bóng bầu dục: 6%, thể dục: 6%, trượt tuyết: 6%, xe
đạp:6%, điền kinh:4%. Tỉ lệ tai nạn cao ở các môn bóng được cho rằng do là môn tập thể, số
lượng VĐV tham gia thi đấu đông, sự va chạm đối kháng là thường xuyên.
Một nghiên cứu tại Bỉ về 3.203 tại nạn thể thao thuộc chương trình “Hệ thống giám sát
tại nạn giải trí Châu Âu (EHLASS) cho thấy ¾ ca do té ngã (41%) hay bị va đập (36%)
(Vandercammen, 2003). Các môn TT có nguy cơ chấn thương cao là bóng tường, hốc cây, bóng
bầu dục,đua mô tô và bóng chuyền. Các môn ít xảy ra chấn thương là quần vợt, bơi lội, xe đạp và
điền kinh. Các yếu tố khởi động không phù hợp, thiếu trang phục ấm, trang thiết bị dụng cụ
không phù hợp, thể lực không đảm bảo cũng góp phần làm tăng nguy cơ chấn thương. Ngoài ra,
áp lực tâm lý cũng là yếu tố làm tăng nguy cơ chấn thương ở các VĐV chuyên nghiệp.
Nhiều nghiên cứu đưa ra những con số phí tổn vì chấn thương và tai nạn thể thao. Ở
Pháp, riêng năm 1995 phí tổn chăm sóc y tế cho tai nạn TT ước lượng khoảng 2.96 tỉ frances
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 17
(450 triệu bảng Anh) (Garry, 1999). Tại Úc, phí tổn cho chấn thương TT là 1.5 tỉ đô la Úc hàng
năm (Medibank, 2003). Các môn nguy hiểm nhất tại Úc là Bóng đá kiểu Mỹ (21.6%), đua xe đạp
(10%), bóng đá (8%), bóng bầu dục (7.8%) và cricket (7.3%).
Trong quá trình tập luyện, nếu người tập nỗ lực quá sức thì lại có hại cho sức khỏe. Tất
cả các nghiên cứu đều cho thấy tác động có lợi của TDTT đều biến mất khi tập luyện quá sức.
Đã có rất nhiều trường hợp người tập “sụp đổ” khi vượt quá giới hạn chịu đựng của cơ thể, như
trường hợp gần đây, VĐV Tom Simpson đã đột quỵ và chết trong cuộc đua Tour de france.
Nguyên nhân chính gây ra chấn thương.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước, các nhà
khoa học đã tổng kết một số nguyên nhân chính dẫn đến chấn thương trong tập luyện và thi đấu
thể thao sau:
1. Sai lầm trong phương pháp giảng dạy và huấn luyện:
Là nguyên nhân dẫn tới 30-60% trường hợp chấn thương ở các môn thể thao khác nhau.
Các chấn thương này liên quan đến việc chưa tuân thủ các nguyên tắc huấn luyện cơ bản như:
tập luyện chưa hợp lý, chưa thường xuyên và liên tục, tǎng lượng vận động, độ khó của động tác
đột ngột, cũng như chưa tuân thủ nguyên tắc đối xử cá biệt trong tập luyện TDTT. Nguyên nhân
này trong hoạt động thể thao cho mọi người còn cao hơn, bởi không phải ở đâu người tập cũng
có sự hướng dẫn của huấn luyện viên (HLV) hay hướng dẫn viên. Thí dụ, nhiều khi chỉ do không
khởi động hoặc khởi động không tốt cũng có thể dẫn đến những chấn thương đáng tiếc.
2. Thiếu sót trong tổ chức tập luyện và thi đấu
Là nguyên nhân dẫn tới 4-8% các trường hợp chấn thương. Những chấn thương này xảy
ra là do việc bố trí người tập bất hợp lý, không đảm bảo kỷ luật trật tự, duy trì tổ chức tập luyện
lộn xộn, mật độ người tập quá đông, sự phối hợp tập luyện giữa các nhóm vận động viên (VĐV)
có trình độ, đẳng cấp, hạng cân thi đấu không đều, tổ chức bảo hiểm không tốt, hoặc tổ chức tập
luyện và thi đấu không có mặt của HLV và giáo viên TDTT.
3. Không đáp ứng đầy đủ yêu cầu vật chất, trang thiết bị, dụng cụ tập luyện của buổi tập.
Nguyên nhân này dẫn đến tới 25% các ca chấn thương. Cụ thể là chất lượng trang thiết bị
dụng cụ, sân bãi thi đấu và trang phục cá nhân kém, các phương tiện bảo vệ, bảo hiểm không có,
thiếu hoặc không đúng tiêu chuẩn. Nguyên nhân này rất dễ nhận thấy khi ta quan sát bất kỳ một
sân chơi nào, bởi chúng ta còn thiếu hiểu biết hoặc do tâm lý coi thường hay tùy tiện trong việc
chọn địa điểm và các phương tiện, giày dép và trang bị tập luyện.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 18
4. Điều kiện khí hậu và điều kiện vệ sinh không phù hợp:
Là nguyên nhân gây ra 2-6% các trường hợp chấn thương. Thí dụ như: sân bãi, dụng cụ
thi đấu tập luyện không được vệ sinh sạch sẽ, ánh sáng không đảm bảo (tối hoặc chói sáng),
thông gió kém, nhiệt độ của phòng tập, môi trường tập không đúng yêu cầu vệ sinh, độ ẩm môi
trường tập quá cao...
5. Hành vi không đúng đắn của người tập.
Là nguyên nhân gây ra 5-15% các trường hợp chấn thương. Đó là sự vội vàng, thiếu tập
trung chú ý, ý thức tổ chức kỷ luật kém hoặc phạm luật bằng các động tác bị nghiêm cấm, đặc
biệt trong các môn đối kháng trực tiếp.
6. Vi phạm các nguyên tắc kiểm tra y học.
Dẫn đến 2 - 10% các trường hợp chấn thương. Đó là các trường hợp cho phép tập luyện
và thi đấu thể thao không qua kiểm tra y học, kiểm tra sức khỏe, không thực hiện chỉ dẫn của bác
sĩ. Đây là một trong những khâu rất yếu của y học thể thao nước ta hiện nay. Hiện nay, nước ta
chưa có hệ thống y học thể thao rộng khắp để có thể tư vấn và hướng dẫn cho mọi người là mình
có được phép tập luyện hay không hoặc tập luyện ở mức độ nào thì có lợi cho sức khỏe của mỗi
người.
7. Tham gia tập luyện và thi đấu thể thao trong tình trạng chuẩn bị thể lực chưa tốt, chưa
đáp ứng được yêu cầu thực hiện các động tác khó, hoặc có biểu hiện rối loạn về khả nǎng định
hình động lực trong không gian, giảm sút các phản ứng bảo vệ và độ tập trung chú ý, có thể do
quá cǎng thẳng hoặc tập luyện quá sức cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến nguy cơ
chấn thương cao.
Các loại chấn thương thường gặp trong TDTT:
1. Trầy, xây sát da.
2. Vết thương: rách da và tổ chức dưới da (cơ, mạch máu), chảy máu.
3. Vết đụng dập: Do va chạm gây nên, tuy không rách da nhưng bị chảy máu trong do đứt
các mao mạch, nhanh chóng bị sưng tấy và bầm tím, tuy có đau, nhưng vẫn cử động được cơ,
khớp.
4. Bong gân: Là tổn thương thường gặp nhất đặc biệt là khớp cổ chân, khớp gối, cổ tay
và ngón tay. Khi có tác động mạnh, khớp sẽ bị vặn mạnh, khe khớp bị mở rộng, các dây chằng bị
kéo căng, giãn mạnh hoặc đứt hẳn. Đồng thời làm tổn thương bao khớp, gây chảy máu trong
nhiều, cảm giác rất đau.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 19
5. Tổn thương cơ (giãn, rách hoặc đứt cơ): Khi cơ co mạnh đột ngột có thể gây rách hoặc
đứt cơ, cảm giác đau dữ dội, chảy máu trong nhiều tạo thành các vết bầm tím.
6. Gãy xương: Là chấn thương nặng trong thể thao, có thể phân loại: gãy xương kín, gãy
xương hở, gãy hoàn toàn và gãy xương không hoàn toàn.
7. Sai khớp (trật khớp): là sự sai lệch các diện khớp, thay đổi vị trí giải phẫu của khớp do
đầu xương rời khỏi ổ khớp.
8. Chấn thương cột sống: Ít xảy ra trong TDTT, nhưng khi xảy ra thì gây hậu quả rất
nghiêm trọng.
9. Chấn thương sọ não: Thường gặp trong sinh hoạt cũng như trong hoạt động TDTT,
thường ở mức độ nhẹ, tỷ lệ chấn thương nặng chỉ chiếm khoảng 2% ở các môn Thể dục dụng cụ,
nhảy cầu, võ thuật, bóng đá.
Sơ cứu
Tùy theo tình hình chấn thương sẽ có những biện pháp sơ cứu khác nhau. Với các chấn
thương trầy da, chảy máu cần làm sạch vết thương, sát trùng và cầm máu. Khi vết thương chảy
máu nhiều và nghiêm trọng, cần đưa đi bệnh viện kịp thời. Đối với các chấn thương nghiêm
trọng như: gãy xương hở, chấn thương cột sống, chấn thương sọ não cần cấm không cho ai
đụng đến bệnh nhân, giữ nguyên tư thế, gọi cấp cứu càng sớm càng tốt.
Với chấn thương phần mềm như đụng dập, bong gân, tổn thương cơ, sai khớp việc sơ
cứu ban đầu đúng phương pháp là rất cần thiết, giúp chỗ tổn thương ổn định và mau lành. Sử
dụng phương pháp RICE (Rest: ngưng tập luyện; Ice: chườm đá, Compression: băng ép cố định
chỗ chấn thương và Elevation: nâng cao chỗ chấn thương). Thực hiện bốn bước sau đây ngay sau
khi chấn thương xảy ra:
- Ngưng tập luyện: ngay sau khi bị chấn thương, cần ngưng ngay tập luyện hoặc thi đấu.
- Chườm lạnh: Có tác dụng làm co các mao mạch, mạch máu bị tổn thương, làm giảm phù nề do
lượng máu chảy ra giảm. Dùng túi đá ướp chườm lạnh ngay tại chỗ 10-15 phút, mỗi lần cách
nhau khoảng 1 giờ, lặp lại nhiều lần trong ngày. Có thể chườm lạnh trong 1-3 ngày đầu sau khi
bị thương. Không nên chườm một lần quá lâu hoặc chườm lạnh trực tiếp vì da sẽ bị bỏng.
- Băng ép: Dùng băng thun quấn ép vùng tổn thương nhằm cố định khớp, giảm chảy máu, sưng
bầm và đau nhức.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 20
- Kê cao vùng bị thương: Làm giảm sưng, đau. Rất hiệu quả khi vùng bị chấn thương được nâng
cao hơn độ cao của tim. Thí dụ, khi bị chấn thương gối hay cổ chân, khi nằm nên kê cao gối hay
cổ chân cao lên.
Lưu ý: Khi bị chấn thương, có thể dùng thuốc giảm đau, nhưng tuyệt đối không nên xoa
các loại dầu nóng. Nhiều người làm vậy vì lầm tưởng loại thuốc mà các vận động viên được xịt
khi bị chấn thương là dầu nóng. Thực ra, đó là một loại khí lạnh dễ bốc hơi, có công dụng giống
như chườm lạnh. Hoặc theo quan niệm xưa, bị đau thì xức dầu nóng. Khi mới bị chấn thương,
không được chườm nóng hoặc xoa bóp. Việc chườm nóng, xức dầu nóng hay xoa bóp sẽ làm tổn
thương nghiêm trọng hơn, các mao mạch vùng chấn thương nở lớn khiến máu chảy nhiều hơn,
gây phù nề nhiều hơn.
Thông thường, nếu tổn thương nhẹ, bệnh nhân sẽ hoàn toàn phục hồi sau khi điều trị
được 2-3 ngày. Nếu là chấn thương nặng hoặc đã qua sơ cứu mà hoạt động vẫn còn khó khăn,
nên đến khám ở các bệnh việc chuyên khoa để được điều trị càng sớm càng tốt.
Giải pháp phòng ngừa
Để hạn chế và giảm thiểu tình trạng này, người tập TDTT cần lưu ý thực hiện một số giải
pháp sau:
1. Phải kiểm tra sức khỏe để phát hiện bệnh tật trước khi tham gia tập luyện TDTT.
2. Lựa chọn môn thể thao phù hợp với sức khỏe bản thân.
3. Tuân thủ hướng dẫn của HLV, Giáo viên về tổ chức, nguyên tắc và phương pháp tập
luyện trong quá trình tập luyện và thi đấu.
4. Tuân thủ các quy định về trang phục, giầy vớ, dụng cụ và vệ sinh tập luyện.
5. Luôn khởi động và thả lỏng đúng và đủ.
6. Không mạo hiểm khi không cần thiết với các động tác quá khó hay các dụng cụ thiết bị
tập luyện lạ.
7. Nêu cao tinh thần trung thực cao thượng và fair play trong thi đấu thể thao.
8. Tuân thủ chế độ dinh dưỡng, nghỉ ngơi và hồi phục hợp lý khi tham gia tập luyện và
thi đấu thể thao.
9. Nắm kiến thức về nguyên nhân, biện pháp sơ cứu các chấn thương trong hoạt động
TDTT.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 21
II. LÝ THUYẾT CHUYÊN MÔN :
2.1.Nguồn gốc của môn Võ Thuật Cổ Truyền :
Con người nguyên thủy từ thời Cổ Ðại, sinh sống dựa trên thu lượm, nhặt hái các thức ăn
có trong ở thiên nhiên và săn bắt thú rừng là chủ yếu. Những động tác, cách thức rình rập, rượt
đuổi đánh giết dần trở thành quen thuộc hàng ngày.
Tiếp đến là những trường hợp phải xử trí trong quan hệ giữa người và vật trong săn bắn,
giữa người và người để tự vệ, để chiến đấu gìn giữ các vật thực do thành quả lao động, hoặc
quyền sở hữu miếng đất, khoảnh rừng đang sinh sống. Tất cả các động tác, các cách thế đó, từ
đơn giản đến phức tạp, đã là cội nguồn của các đòn thế, bài bản của các trường phái võ thuật trên
thế giới.
Qua quá trình gian khổ dựng nước và giữ nước, từ thời khai nguyên dân tộc và kháng
chiến chống quân xâm lược, giữ yên bờ cõi, bảo vệ sự toàn vẹn lảnh thổ. Người dân Việt trưởng
thành từ vùng đất châu thổ sông Hồng đã tự hình thành, phát triển và đúc kết được những kinh
nghiệm quý báu về kỷ thuật chiến đấu cá nhân và những cách thức, sách lược trong vận dụng và
huy động lực lượng quân sự vào cuộc chiến đấu tập thể "chiến tranh".
Kỹ thuật chiến đấu cá nhân, cơ sở cho một đội quân tự vệ quốc gia đó chính là nguồn gốc
sâu xa,đích thực của một nền võ học cổ truyền phong phú và đa dạng của đất nước Việt Nam anh
hùng, bất khuất. Ðặc thù của võ học cổ truyền Việt Nam.
Thời Pháp mới chiếm Việt Nam, các hệ phái võ thuật cổ truyền bị thực dân Pháp cấm lưu
hành vì những người đứng đầu các phong trào khởi nghĩa chống Pháp đều là người giỏi võ Việt
Nam. Khoảng năm 1925, võ cổ truyền Việt Nam được khôi phục song song với các môn võ
ngoại quốc khác được đưa vào Việt Nam, như: Quyền Anh (Boxing, Boxe), Thiếu Lâm
(Kungfu)...
Trong giai đoạn này, nhiều võ sư huyền thoại đã để lại danh tiếng: ba võ sư được mệnh
danh là "Tam Nhựt" gồm: Hàn Bái, Bá Cát, Bảy Mùa vì có công lớn trong việc khôi phục truyền
thống võ Việt Nam trong thời gian này. Mãi đến khi Pháp rời khỏi Việt Nam, chính quyền Ngô
Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam đã tiếp tục duy trì sự phục hồi võ Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Tổng Cục Quyền thuật Việt Nam. Ba võ sư có công lớn trong giai đọan này là: Trương
Thanh Đăng ( sư tổ của võ phái Bình Định Sa Long Cương ), Quách Văn Kế và Vũ Bá Oai
(được mệnh danh là "Tam Nguyệt") tiếp nối việc khôi phục và phát triển võ Việt Nam.
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 22
Tuy nhiên, tại miền Nam Việt Nam, từ năm 1960 đến năm 1963, Ngô Đình Diệm lại tiếp
tục cấm các đoàn võ thuật phát triển (trong đó có võ Việt Nam), vì năm 1960, trong lực lượng
tham gia đảo chính Ngô Đình Diệm thất bại đoàn võ sĩ Judo do võ sư Phạm Lợi chỉ huy. Năm
1964, võ thuật được tiếp tục họat động, trong đó có võ Việt Nam. Trong giai đoạn này, võ thuật
Việt Nam đã lớn mạnh, sánh vai ngang hàng với võ thuật các nước trong khu vực, như: Thái
Lan, Indonesia, Hồng Kông, Đài Loan, Lào, Cam bốt... Nhiều võ sĩ Việt Nam đã chiến thắng vẻ
vang trước nhà vô địch của các nước bạn trong trong khu vực. Bốn võ sư đã có công đào tạo
nhiều võ sĩ ưu tú cho làng quyền thuật Việt Nam, nhất là đào tạo nhiều võ sĩ giỏi đại diện cho
màu cờ sắc áo Việt Nam chiến thắng vẻ vang nhiều nhà vô địch của các nước bạn, chính là: Từ
Thiện Hồ Văn Lành, Trần Xil, Xuân Bình và Lý Huỳnh. Bốn võ sư này đã được Tổng Nha
Thanh Niên trao tặng Bằng Khen về các thành tích vẻ vang cho đất nước, và từ đó, giới võ thuật
gọi bốn võ sư này là "Tứ Tú" (bốn ngôi sao sáng), nối tiếp "Tam Nhựt" (ba mặt trời) và "Tam
Nguyệt" (ba mặt trăng) trong việc khôi phục và phát huy truyền thống võ thuật Việt Nam.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, do tình hình trật tự an ninh còn hỗn loạn, võ thuật Việt
Nam tạm ngừng phát triển một thời gian. Năm 1979, nhân sự kiện quân đội Bắc Kinh và quân
đội Khmer Đỏ tấn công Việt Nam, nhà nước Việt Nam đã cho khôi phục hoạt động võ thuật,
trong đó có võ thuật cổ truyền Việt Nam, để tập hợp thanh niên rèn luyện tinh thần bất khuất sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Sau đó, các Liên đoàn võ thuật hình thành để quản lý phong trào
võ thuật, trong đó có Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam hình thành ngày 19 tháng 8 năm
1991. Tuy nhiên, do nhiều lý do, từ đó cho đến năm 2007, võ thuật Việt Nam vẫn chưa được nhà
nước Việt Nam quan tâm phát triển như những môn võ thuật có thi đấu quốc tế như: Taekwondo,
Judo, Karatedo, Wushu, Pencat Silat, Boxing, Vovinam...
Trong khi đó, ở nước ngoài, nhiều người Việt đã âm thầm phát triển võ thuật Việt Nam
dưới nhiều tên gọi khác nhau, như: Vivodo (Australia), Võ Việt, Võ Thuật (Nguyễn Văn Trung,
Pháp quốc), Võ Việt Nam (Nguyễn Đức Mộc, Pháp quốc),Lâm sơn Võ Đạo, Quán Khí Đạo
(Phạm Xuân Tòng, Pháp quốc), Thanh Long (Nguyen Dan Phu)...
Một nhược điểm lớn nhất của võ thuật cổ truyền Việt Nam là mỗi một võ sư đều muốn
trở thành chưởng môn nhân của một môn phái độc lập, mà quên mất đi nhiệm vụ cấp thiết là
cùng nhau xây dựng một "thương hiệu" có uy tín cho võ thuật Việt Nam, để sánh vai cùng các
môn võ thuật khác trong giới võ lâm quốc tế, điều này có nghĩa dù là võ đường nào đi nữa nhưng
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 23
nên cùng nhau thống nhất một cội nguồn là cùng một "môn phái võ thuật Việt Nam" đó là "Võ
Thuật Cổ Truyền Việt Nam".
2.2. Sự hình thành và phát triển môn Võ Thuật Cổ Truyền :
ĐẶC ĐIỂM CHUNG :
Có lẽ không một người dân Việt nào “chưa nhìn thấy” hoặc “chưa nghe nói” đến Võ cổ truyền
của dân tộc mình. Bởi nó gắn liền với cuộc sống và đi theo suốt chiều dài của lịch sử. Tuy có lúc
thăng, lúc trầm nhưng nó đã tồn tại và thấm sâu vào máu thịt, vào tư tưởng, vào hành động của
mọi người, là một mảng văn hóa tinh thần đầy tự hào của nhiều thế hệ người Việt Nam.
Lịch sử đã ghi chép, chứng minh biết bao gương hy sinh dũng cảm đã nêu cao tinh thần thượng
võ, biết vận dụng tài năng, trí tuệ, đạo đức, lối sống để xây dựng môn võ thành triết lý sống cho
dân tộc mình.
Từ khi loài người thông qua lao động cần cù, sáng tạo cùng với sự tồn tại và phát triển, sống
mưu sinh thoát hiểm chống lại thú dữ, thiên tai, địch họa, những động tác luyện tập, các công cụ
sử dụng đã tạo nên những bài võ đích thực và dần hoàn chỉnh theo thời gian.
Soi rọi vào công lao, trí tuệ của tiền nhân chúng ta thấy chạnh lòng và vô cùng cảm phục, để tiếp
bước các thế hệ hiện tại và sau này phải gìn giữ phát huy, tài bồi cho nền võ học nước nhà thêm
cường thịnh vì mỗi dân tộc trên thế giới đều có những bản sắc, đặc thù của dân tộc mình, trong
đó có những môn truyền thống gắn liền với lịch sử, với lao động, với văn hóa lâu đời.
Dân tộc ta, đất nước ta, trải qua các thời kỳ giữ nước và dựng nước, môn Võ cổ truyền đã có quá
trình hình thành, phát triển, được các thế hệ tiếp tục truyền bá, học tập tài bồi. Nó là món ăn tinh
thần, là giấc ngủ yên bình, là sự sống còn, là sự cảm thông chia sẻ thì hiển nhiên là của quốc gia
dân tộc, không có gì để luận bàn mà phải trân trọng bảo lưu với niềm tự hào đầy kiêu hãnh. Có
điều vốn quý phải được mài dũa như thế nào? dùng vào thời điểm thích hợp để có hiệu quả cao
nhất. Dân tộc ta vốn sống có hiếu đạo, làm việc trượng nghĩa, càng thấm nhuần đạo lý: Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Do vậy, Võ cổ truyền Việt Nam chính là của người Việt Nam.
“Việc tu dưỡng, rèn luyện võ thuật là một cuộc trường chinh để tự thắng chính mình, đưa con
người đến sự giản dị, điềm đạm, khiêm tốn, đạt đến Chân - Thiện - Mỹ trong cuộc sống.
Võ là văn hóa, vì võ dạy cho con người biết nuôi dưỡng nhân tính, sống theo đạo lý làm người
trong một tôn chỉ giáo dục và rèn luyện nhân cách cao xa. Chỉ có những ai không đi hết trọn con
đường mới tự quảng cáo, khoe khoang, biện bạch.”
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 24
Để tổng kết những hoạt động của môn võ cho cụ thể, rõ ràng hơn sau chặn đường 30 năm kể từ
ngày đất nước thống nhất (1975 – 2008) có thể chia làm 3 giai đoạn:
A. GIAI ĐOẠN I :
1975 – 1985: Sau ngày đất nước thống nhất, mọi hoạt động võ thuật dường như rơi vào sự im
lặng, nhưng thực tế luôn sục sôi với khí thế mới ở một số Tỉnh, Thành như: TP. Hồ Chí Minh,
Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Huế, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nội,
Hải Phòng, Cần Thơ, An Giang, Tiền Giang, Cà Mau v.v đã có những hoạt động mang tính
tập hợp lại như: Tham gia hội diễn, huấn luyện nhiều môn võ trong cùng một câu lạc bộ. Các
phòng VHTT và các trung tâm bước đầu có sự quản lý chặt chẽ có kế hoạch phổ cập cơ bản, đã
có bộ môn theo dõi các hoạt động và hướng dẫn phong trào.
Các võ sư, HLV đều mong ước được học tập, mở lớp huấn luyện nhằm truyền bá và đáp ứng các
yêu cầu thực tế của xã hội và cả sự khao khát yêu mến võ thuật của quần chúng.
B. GIAI ĐOẠN II :
Đến năm 1987 : Tổng cục TDTT cho phép các môn võ hoạt động chính thức. Thêm một
bước ngoặc lịch sử ra đời, đánh dấu một thời kỳ hưng thịnh mới, một nền võ học hoạt động theo
chiều hướng đoàn kết, tập hợp trí tuệ, sức lực để xây dựng nền tảng võ học, võ thuật cho mọi
người.
Các ban chuyên môn ra đời nhằm bước đầu ổn định tổ chức, xây dựng chương trình kế
hoạch và định hướng phát triển – các cuộc hội diễn toàn Tỉnh, Thành được tổ chức, các võ phái
hăng say tập luyện, biểu diễn, thi tài cống hiến cho quần chúng những nét đẹp võ thuật. Bởi sự
ganh đua có tổ chức có mục đích rõ ràng là nhằm đáp ứng yêu cầu hưởng thụ của nhân dân, bảo
lưu phát triển, nâng tầm nền võ học tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc. Có lẽ chưa bao giờ
tâm tư giới võ mở rộng và mong muốn có những hoạt động mang tính đặc thù, có sự đoàn kết
nhất trí cao như trong giai đoạn này, họ có rất nhiều kỳ vọng ước mơ nhưng tựu trung phải có
được hệ thống huấn luyện thống nhất, có quy chế hoạt động, có tổ chức vững mạnh mới thực
hiện được một nền võ thuật võ học đúng tầm trong chế độ xã hội mới Xã Hội Chủ Nghĩa.
Từ những thực tế đó, năm 1989 các Hội võ cổ truyền được thành lập. Ở một số địa
phương có phong trào võ sớm phát triển nhằm tăng cường nhân lực, có đủ trình độ, điều kiện để
tiến lên theo định hướng.
Đến năm 1991, Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam ra đời, đây là một thời điểm quan
trọng để đánh giá, rút kinh nghiệm tổng kết các hoạt động võ thuật tại các Tỉnh, Thành phố nhằm
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 25
đóng góp cho Liên đoàn những thành tựu để làm cơ sở cho Liên đoàn nghiên cứu lập kế hoạch,
xây dựng chuyên môn trên phạm vi cả nước.
Việc đầu tiên là cần rà soát và biên soạn lại hệ thống đai, đẳng cấp cho môn võ mà nhiều
thập kỷ qua chưa có hoặc có nhưng chưa đầy đủ là điều kiện tất yếu. Ban biên soạn đã tham khảo
ý kiến các vị võ sư lão thành, các nhà học giả và dựa theo hệ thống giáo dục văn hóa để đưa ra
một hệ thống từ sơ cấp đến cao cấp bao gồm 18 cấp.
5 màu đai: đen, xanh, vàng, đỏ, trắng.
5 bậc: bậc học viên, bậc hướng dẫn viên, bậc HLV, chuẩn võ sư, võ sư.
Bên cạnh đó, một chương trình huấn luyện thống nhất được Hội đồng võ sư cả nước
tuyển chọn, giới thiệu những bài võ có đầy đủ lý luận cơ bản, có quá trình tập luyện lâu năm, có
nhiều dòng võ biết đến, thực áp dụng được cho tất cả các môn sinh theo học võ cổ truyền ở hiện
tại và là tư liệu quan trọng cho sau này. Khi hệ thống đai, đẳng cùng với chương trình huấn luyện
thống nhất hình thành thì quy chế hoạt động chuyên môn phải phù hợp với mục đích yêu cầu để
giúp cho việc quản lý nhân sự, trình độ chuyên môn mới được xuyên suốt trong hệ thống huấn
luyện, quản lý và nghiên cứu ứng dụng cho các cấp theo trình tự từ thấp đến cao.
Tất cả các công trình tâm huyết trên là nguyên nhân của sự thành công, đẩy lùi được
những khó khăn mà bản thân môn võ gánh chịu. Ngoài ra, còn là tiền đề cho ý chí thống nhất, cơ
sở cho việc thi lên đai đẳng, thi tài trong các cuộc hội thi, hội diễn. Đặc biệt, qua những chương
trình này đã tập hợp được sự say mê tập luyện của nhiều người. Đây là nhân tố chính để góp
phần phát triển võ thuật rộng khắp trong cả nước và nước ngoài.
Từ đó, các cuộc hội diễn khu vực, toàn quốc đã trở thành các giải thi đấu chính thức
trong hệ thống thi đấu cấp quốc gia.
Đến năm 1993, Hội nghị chuyên môn toàn quốc lần đầu tiên được tổ chức tại TP. Hồ Chí
Minh, với mục đích quy tụ các võ phái trong cả nước, đưa ra định hướng hoạt động chuyên môn
nhằm xây dựng và tuyển chọn các bài võ hiện đang có nhiều võ phái tập luyện. Những năm về
sau, các Hội nghị liên tục tổ chức các lớp tập huấn trọng tài, chỉnh sửa tài liệu, Luật thi đấu luôn
luôn được Liên đoàn quan tâm và thực hiện triệt để. Đến nay đã có sách giáo khoa với chương
trình huấn luyện căn bản và 10 bài võ tiêu biểu.
Về quan hệ quốc tế, một số chuyên gia được cử đi huấn luyện ở một số nước trên thế
giới, đến nay vẫn tiếp tục truyền bá Võ cổ truyền Việt Nam, tạo được mối quan hệ giao lưu tốt
cho Liên đoàn và cho môn võ học nước nhà. Các VĐV xuất sắc được cử đi biểu diễn nhiều nơi
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 26
trong nước và tham dự các ký đại hội võ thuật truyền thống thế giới. Đây là dịp giới thiệu một
nền võ học dân tộc, gắn liền với bản sắc văn hóa tốt đẹp có truyền thống lâu đời, bền vững.
C. GIAI ĐOẠN III:
Từ năm 1995 đến năm 2008 : Các Hội, cùng với Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam tiếp
tục hoàn thiện và nâng cao về mọi mặt: hệ thống thi đấu, nội dung thi đấu, các phương tiện phục
vụ thi đấu đảm bảo đúng thời gian, an toàn và hiệu quả. Các lớp chuyên môn nghiệp vụ nâng cao
trình độ cho các cấp từ học viên đến HLV cao cấp được tổ chức hằng năm, chất lượng ngày càng
cao. Các cuộc hội thảo thường xuyên hơn, các võ sư, HLV có dịp trao đổi học hỏi lẫn nhau nên
rất cảm thông nhau, giúp cho mọi sinh hoạt vào nề nếp xuyên suốt từ trên xuống dưới. Đến năm
2002, Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ IV là lần đầu tiên có môn Võ cổ truyền thi đấu, góp phần
làm phong phú thêm cho Đại hội quan trọng này. Năm 2006, Festival Võ cổ truyền lần thứ I tổ
chức tại Bình Định đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của võ cổ truyền Việt Nam.
Cùng với những thành tựu trên, sách về giáo trình huấn luyện cơ bản được ấn hành, Luật
thi đấu được Bộ trưởng chủ nhiệm UBTDTT ký ban hành chính thức, cũng có ý nghĩa là hệ
thống thi đấu của môn võ được công nhận và gắn kết giữa lao động sáng tạo với tinh thần hiếu
học, ý chí quật cường, lòng yêu nước của dân tộc ta. Nó đã cùng chúng ta góp phần bảo vệ an
ninh trật tự xã hội, bảo vệ giá trị đạo đức, tôn vinh ý tưởng cao đẹp, tăng cường sức khỏe cho
mọi người, xứng đáng là một trong những vốn quý mà không một dân tộc nào không tự hào khi
sở hữu được.
Năm 2007, nhiệm kỳ III Ban chấp hành Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam tiếp tục
được củng cố về nhân sự, về định hướng phát triển, cùng với Điều lệ sửa đổi và bổ sung Liên
đoàn đã ban hành nhiều quyết định, quy chế quan trọng. Từ đó dấy lên một phong trào thi đua
thực hiện Nghị quyết của Ban chấp hành: tiêu biểu là các lớp tập huấn, huấn luyện viên, trọng tài
các giải khu vực và toàn quốc. Đặc biệt là Giải Quốc tế Võ cổ truyền lần thứ I từ ngày 21 đến
24/07/2008 tại TP. Hồ Chí Minh và Festival Quốc tế Võ cổ truyền lần thứ II tháng 08 năm 2008
tại Bình Định đã thành công rực rỡ, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp về đất nước và giới Võ cổ
truyền Việt Nam. Kết thúc năm 2008 với nhiều thành công hoàn hảo, lớp tập huấn huấn luyện
viên được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 21/12/2008 tại Khánh Hòa. Để triển khai 8 bài võ mới đã
được tuyển chọn và hoàn thiện phần Căn bản công, nhằm tiến tới xây dựng giáo trình huấn luyện
làm nền tảng để môn võ được phổ cập rộng rãi.
2.3. Đạo đức trong Võ Thuật Cổ Truyền :
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 27
Võ đức là̀ phẩm chất cao quý của những người học và dạy võ, là hành trang không thể
thiếu của người dụng võ.
Cổ nhân dạy rằng: “Tập võ chi Đạo có thể được cường thân, mẫn trí”. Một người tập võ
thì được cường thân, một nhà tập võ thì được cường tộc. Đường lối của võ thuật trước tiên là
phải trọng võ đức, muốn có võ đức phải hiểu rõ công lý, muốn hiểu rõ công lý thì phải có học
vấn.
Võ thuật là môn học của khoa học, nghệ thuật, văn hoá truyền thống
Võ là khoa học, nghệ thuật vì võ dạy cho con người pháp luyện thân tăng cường sức
khoẻ, ngăn ngừa bệnh tật theo khoa học giáo dục thể chất, cùng nghệ thuật thần kỳ nuôi dưỡng
tinh, khí, thần và nghệ thuật tự vệ, chiến đấu. Khoa học võ thuật đích thực có các nguyên lý cấu
thành và liên hệ mật thiết với những khoa học tương cận như vật lý học, sinh học, y học, quân
sự, đặc biệt là triết học Đông phương.
Võ là văn hóa truyền thống vì võ dạy cho người học biết nuôi dưỡng nhân tính, rèn luyện
nhân cách, tu dưỡng đạo đức làm người. Việc luyện tập võ thuật là một cuộc trường chinh để tự
thắng chính mình, trên tinh thần giản dị, khiêm tốn, điềm đạm, đạt đến Chân-Thiện-Mỹ trong
cuộc sống. Võ thuật không chỉ là loại hình vận động thể dục thể thao giản đơn mà còn là văn hoá
thượng võ tôn sư trọng đạo. Đó là Võ Đức. Chỉ có những ai không đi hết trọn con đường mới
phải tự quảng cáo, khoe khoang, biện bạch.
Tuy đặc thù của võ thuật là chiến đấu nhưng tập võ còn là phương pháp tốt để nâng cao
sức khỏe, qua đó học được nhiều đức tính quý báu như :bền bỉ, chịu đựng, nhanh nhẹn, mưu trí,
gan dạ và nhất là đỉnh cao người học võ khiêm tốn, điềm đạm, giản dị, giàu lòng vị tha, nhân ái.
Có rất nhiều thuật làm cho thân thể khỏe mạnh, biết được một thuật đủ để khỏe mạnh và sống
lâu. Võ thuật là một trong các nghệ thuật đó.
Các môn phái võ cổ truyền có mục đích, tôn chỉ, môn qui, những điều tâm niệm để giáo
dục võ sinh. Không phản thầy, phế đạo; không bất hiếu, bất trung ; không bất nhân, bất nghĩa.
Võ thuật khởi đầu bằng lễ và kết thúc cũng bằng lễ. Khi diễn quyền, bắt đầu bằng bái tổ (Tam bộ
bái tổ, nhị bộ kính sư, hồi thân lập trụ) và kết thúc cũng bằng bái tổ (Thối hồi đơn phụng
quang châu; Chân theo xà tấn kiếm hầu tổ sư). Đó là thông điệp mà các bậc chân sư gửi vào bài
võ để nói lên tinh thần đạo đức trong võ thuật.
Người học võ cần chọn người hiền đức làm thầy, bản thân mình thì khiêm hư hiếu học,
tôn kính sư trưởng, phát huy võ đức. Lòng tâm niệm: “Một chữ truyền trao cũng là thầy mà nửa
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 28
chữ truyền trao cũng là thầy”. Nếu làm được những điều cao đẹp ấy thì thật là tôn quý biết chừng
nào. Nhưng thực tế cuộc sống và tôn chỉ võ đức đôi khi bị vùi dấn bởi dòng sông cuộc đời
như dòng sông cuồn cuộn, lôi cuốn những lý tưởng cao đẹp, nhấn chìm lẫn trong hôi tanh của
bùn đất. Bởi vậy mới thấy những cảnh tranh giành quyền lợi, thủ đoạn luồn cúi bất minh mưu
cầu một chút hư danh, ảo giác, vọng ngữ khoe khoang những điều không đúng với thực chất của
mình, xa rời liêm sỉ, bỏ thực cầu hư.
Trong binh pháp cũng đề cao võ đức “Bổn đức tôn đạo – dùng đức làm nền gốc, lấy đạo
làm cao quý: An mục an ư nhẫn nhục; tiên mạc tiên ư tu đức; lạc mạc lạc ư hiếu thiện; thần mạc
thần ư chí thành nghĩa là chẳng có gì yên bằng nhẫn nhục, chẳng có gì cần trước hơn là tu đức,
chẳng gì vui bằng mến điều lành, chẳng có gì mầu nhiệm hơn lòng chí thành” (Thái Công
Binh pháp)
“Dùng mưu trí hàng phục thiên hạ mà thiên hạ chịu khuất phục mưu trí của minhdthì ̀
mưu trí ấy cũng chưa phải là tối thắng. Dùng hình pháp để chế ngự thiên hạ mà thiên hạ chịu
theo hình pháp của mình thì hình pháp ấy cũng chẳng có gì hay. Dùng mưu trí hay hình pháp đều
chẳng phải là điều hay nhất trong những điều hay. Ngày xưa Thánh Võ giữ thế mà chẳng vây
thành, chẳng đánh lũy, chẳng bày trận, đó là nhờ nương náu ở chỗ hư không. Hun đúc trong thế
không tranh mà được vậy”. (Binh Thư Yếu Lược – Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn).
Tài năng của tướng súy là “Đạo chi dĩ đức; tề chi dĩ lễ; tri kỳ cơ hàn; sát kỳ lao khổ; thử
chi vị nhân tướng Dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ nghi để sắp đặt yên ổn cho
người, hiểu biết việc đói rét của họ, đó là hạng tướng có lòng nhân ái” (Binh pháp – Khổng
Minh Gia Cát Lượng)
Sách Luận ngữ chép: “Làm việc chánh dùng lấy đức ví như sao Bắc Thần đứng một chỗ
mà các vì sao khác đều qui chầu tất cả” và Trương Cửu Thành thì: “Người biết đạo tất không
khoe, người biết nghĩa tất không tham, người biết đức tất không thích tiếng tăm lừng lẫy”.
Với võ thuật cổ truyền, giữ được lòng tự trọng dân tộc Việt Nam là giữ được tinh thần võ
đức cao cả và luôn gắn liền với 5 chữ “ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”
2.4. Trang phục võ thuật cổ truyền Việt Nam :
2.4.1. Trọng tài :
a. Quyền :
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 29
Võ phục màu đen, phù hiệu của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam rộng 9cm
bên ngực trái ( không ngọn đuốc ), tên bên ngực phải, giầy bata trắng, đai đẳng đúng qui chế
chuyên môn.
b. Đối kháng :
Áo sơ mi trắng, quần tây trắng, chữ trọng tài bên ngực phải, cổ đeo nơ, mang giầy
bata hoặc loại giầy tương tự.
2.4.2. Vân động viên :
a. Quyền :
Võ phục màu đen, phù hiệu của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam rộng 9cm
bên ngực trái ( không ngọn đuốc ), tên bên ngực phải, lá cờ Việt Nam bên vai trái, phía sau lưng
là tên đơn vị ( Tỉnh, Thành, Nghành ), áo nữ 9 nút ( nam 7 nút ), nút áo là nút khuy, đai đẳng
theo đúng qui chế chuyên môn.
b. Đối kháng :
Mũ bảo hiểm, bao răng, bảo vệ hạ bộ, băng chân bảo vệ cổ chân, băng tay bảo vệ
khuỷu tay, quần võ phục màu đen ( quần dài ), áo thun sát nách ( hoặc tay ngắn ), áo giáp, găng
tay.
2.5. Hệ thống cấp đai trong võ cổ truyền :
2.5.1 Đai và màu đai :
Đai bằng loại vải mềm có bề rộng từ 6 đến 8 cm, có thêu chữ “VÕ THUẬT CỔ
TRUYỀN VIỆT NAM”.
Màu đai của Võ thuật cổ truyền Việt Nam được chia 5 mầu theo đẳng cấp và xếp thứ
tự từ thấp đến cao như sau:
- Đai đen.
- Đai xanh (lá cây).
- Đai đỏ.
- Đai vàng.
- Đai trắng.
2.5.2. Đẳng cấp : Chương trình huấn luyện của Võ thuật cổ truyền Việt Nam được chia
thành 18 cấp và 6 bậc như sau:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giaotrinhmonvocotruyentdtt_p1_6787.pdf