Vì vậy người ta dựa vào khái niệm về sự tiến triển của nồng độ βhCG huyết
thanh là khái niệm cốt lõi trong chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung.
Trong 3 tháng đầu thai kỳ bình thường, βhCG tăng theo hàm số mũ. Ở thời
điểm trứng thụ tinh đến làm tổ, βhCG tăng gấp đôi từ 1 – 2 ngày, tại thời điểm 8
tuần βhCG tăng gấp đôi mỗi 3- 5 ngày. Trong vài tuần đầu khi thai phát triển bình
thường trong tử cung, 66% trường hợp βhCG tăng gấp đôi trong mỗi 2 ngày và
không bao giờ tăng dưới 53% mỗi 2 ngày.
Vì vậy nếu βhCG huyết thành không tăng được đến 53% mỗi 2 ngày thì nên
nghĩ đến khả năng có thai trong tử cung với một diễn biến bất thường hoặc chửa
ngoài tử cung.304
Sau khi sảy thai tự nhiên βhCG huyết thanh sẽ giảm ít nhất 21 – 35% mỗi 2
ngày vì vậy nếu βhCG huyết thanh giảm chậm không được đến 20% mỗi hai ngày
thì khả năng là chửa ngoài tử cung.
Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào động học hCG thì khả năng tầm soát thai ngoài tử
cung vẫn bị hạn chế vì động học hCG của chửa ngoài tử cung rất biến động.
Khoảng 50% trường hợp chửa ngoài tử cung có βhCG huyết thanh tăng và 50%
còn lại có βhCG huyết thanh giảm. Ngoài ra 71 % trường hợp βhCG huyết thanh
tăng chậm hơn so với thai sống trong tử cung và giảm chậm hơn mức giảm ở thai
đã sảy.
Vì vậy người ta dùng đến ngưỡng phân định của nồng độ hCG và hình ảnh
học trên siêu âm là khái niệm cốt lõi thứ 2 để chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung.
Ngưỡng phân định của βhCG thường là 1500-2000 mUI/ml để có thể thấy túi
đơn thai trong tử cung và 3000mUI/ml đối với song thai. Khi không thấy hình ảnh
của túi thai trong buồng tử cung và nồng độ βhCG trên ngưỡng phân định thì phải
nghĩ đến khả năng chửa ngoài tử cung với một giá trị dự báo dương tính rất cao.
306 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Y học sinh sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
globin. Xét nghiệm máu thấy hồng
cầu hơi nhỏ và nhợt nhạt hơn bình thường. Người mang gen không có biểu hiện
lâm sàng, không cần điều trị hay theo dõi về mặt y tế.
Bệnh β thalassemia thể vừa hoặc nặng: 2 gen đột biến, nhận từ bố và mẹ.
Người bệnh có thiếu máu vừa hoặc nặng, cần điều trị hay theo dõi về mặt y tế.
Bệnh hemoglobin E
HbE là một trong những biến dị phổ biến nhất của hemoglobin, đặc biệt ở
vùng Đông Nam Á. Bệnh xuất hiện khi có đột biến trên gen β globin, làm thay đổi
cấu trúc của 1 axit amin trong chuỗi β.
Người bình thường: cả 2 gen đều bình thường. Cơ thể tổng hợp β globin
bình thường.
Người lành mang gen bệnh HbE: có 1 gen đột biến HbE. Không có biểu
hiện lâm sàng và không cần điều trị hay theo dõi y tế.
271
Bệnh HbE thể nhẹ: Trẻ nhận 2 gen đột biến HbE, một từ bố và một từ mẹ.
Có tình trạng thiếu máu nhẹ nhưng thường không cần điều trị.
Bệnh HbE/β thalassemia: Trẻ nhận một gen đột biến HbE từ bố (hoặc mẹ)
và một gen đột biến β từ mẹ (hoặc bố). Biểu hiện lâm sàng tương tự β thalassemia
thể vừa, đôi khi cũng có biểu hiện nghiêm trọng.
Alpha thalassemia
Sản xuất chuỗi alpha (α) chịu sự điều khiển của 4 gen α globin, nằm trên 2
NST số 16. Mức độ nặng của bệnh phụ thuộc số lượng gen bị đột biến.
Người bình thường: 4 gen đều bình thường, cơ thể tổng hợp α globin bình
thường
Người lành mang gen bệnh (α thalassemia thể ẩn):1 gen bị đột biến, làm
giảm nhẹ sản xuất α globin. Người mang gen không có biểu hiện lâm sàng, xét
nghiệm máu không có gì đặc biệt, chẩn đoán phải dựa vào xét nghiệm DNA.
Bệnh α thalassemia thể nhẹ: 2 gen đột biến.
Có 2 trường hợp:
– Mỗi gen nằm trên một NST (gọi là dạng trans). Người ở thể này sức khỏe
bình thường, có hiện tượng hồng cầu nhỏ, thiếu máu nhẹ, phát hiện được bằng các
xét nghiệm máu thông thường.
– Cả 2 gen đột biến cùng nằm trên 1 nhiễm sắc thể , nhiễm sắc thể còn lại
chứa 2 gen bình thường (gọi là dạng cis). Xét nghiệm thấy thiếu máu nhẹ, không
có biểu hiện lâm sàng. Khi cả hai cha mẹ đều mang gen bệnh dạng này, nguy cơ
sinh con bị α thalassemia thể nặng trong mỗi lần sinh là ¼.
Bệnh Hemoglobin H: 3 gen đột biến. Hồng cầu sẽ tổng hợp loại protein bất
thường tên là hemoglobin H thay cho hemoglobin thường. Bệnh nhân có các biểu
hiện thiếu máu mức độ trung bình đến nặng,
272
Bệnh α thalassemia thể nặng: 4 gen đột biến, gây tình trạng phù thai, làm
thai chết lưu hoặc chết ngay sau sinh. Bệnh còn được gọi là hội chứng hemoglobin
Bart, theo tên của hemoglobin Bart bất thường được tổng hợp, thay cho
hemoglobin bình thường.
3. Cách khảo sát bất thường phát hiện đột biến gen
PCR (polymerase chain reaction-phản ứng tổng hợp dây chuyền nhờ
polymease):
Đây là một trong những phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất trong lĩnh
vực sinh học phân tử. dựa vào đặc tính hoạt động của DNA polymerase: cần sự
hiện diện của những mồi chuyên biệt để hoạt động tổng hợp một mạch DNA mới
từ mạch khuôn. Như vậy, nếu ta cung cấp hai mồi chuyên biệt bắt cặp bổ sung với
hai đầu của một trình tự DNA, ta sẽ chỉ tổng hợp đoạn DNA nằm giữa hai mồi.
Sequencing:
Về cơ bản, nguyên lý của giải trình tự thế hệ mới bằng phướng pháp tổng hợp
tương tư như giải trình tự DNA theo phương pháp Sanger, trong đó DNA
polymerase tổng hợp chuỗi DNA hình thành bằng cách sử dụng dNTP gắn vào đầu
3’ của chuỗi DNA đang tổng hợp theo nguyên tắc bổ sung. Tuy nhiên, đối với giải
trình tự thế hệ mới, thay vì giải trình tự một đoạn đơn lẻ, kỹ thuật này cho phép
giải trình tự với một lượng lớn các đoạn DNA khác nhau song song tại cùng một
thời điểm, từ đó tiết kiểm thời gian và cho lượng dữ liệu đầu ra vô cùng lớn so với
phương pháp Sanger cũ.
Gồm các bước:
-Tạo thư viện: DNA cần giải trình tự được tách chiết và cắt thành các mảnh
nhỏ (nếu cần) và gắn các adapter cần thiết cho quá trình giải trình tự
- Tạo cluster: mỗi sợi DNA được giữ lại trên bề mặt thiết bị giải trình tự
(flowcell) bằng adapter đã được gắn trước đó. Mỗi sợi DNA sau khi được khuếch
273
đại sẽ tạo thành một cụm DNA (cluster) có trình tự giống hệt nhau để sử dụng cho
quá trình giải trình tự.
- Giải trình tự: dNTP có gắn các tín hiệu huỳnh quang tương ứng với 4 loại
nucleotide, tín hiệu huỳnh quang của từng nulceotide được ghi lại trong quá trình
tổng hợp theo nguyên tắc bổ sung trên sợi DNA khuôn.
- Phân tích kết quả: Kết quả từ quá trình giải trình tự được phân tích tùy theo
mục đích sử dụng.
Giải trình tự toàn bộ hệ gen (Whole genome sequencing – WGS) và giải trình
tự hệ gen biểu hiện (Whole exome sequencing – WES) là 2 xu hướng chính ứng
dụng công nghệ giải trình tự thế hệ mới vào giải trình tự DNA.
Ngày nay, với tiềm năng của NGS, trình tự song song của bảng đa gen lớn, có
thể mô tả một loạt kiểu hình rộng hơn, các bác sĩ lâm sàng đang thay đổi quan
điểm về vai trò của di truyền học trong chăm sóc bệnh nhân. Xét nghiệm di truyền
có thể hữu ích cho việc đánh giá một trường hợp lâm sàng và, nếu kết quả là dương
tính, nó có thể tiết kiệm thời gian và tiền bạc trong việc xác định nguyên nhân.
IV. MỘT SỐ KỸ THUẬT SÀNG LỌC CÁC BẤT THƯỜNG PHÔI
1. Siêu âm
Siêu âm là thủ thuật không xâm nhập không gây nguy hại cả cho thai và mẹ.
Sóng âm có tần số cao được sử dụng để tạo ra các hình ảnh các cơ quan khác nhau
do sự hồi âm khi sóng âm đi tới các cơ quan, hình ảnh thai và buồng ối qua đó sẽ
được khảo sát. Siêu âm có thể thấy được phôi thai ở tuổi thai 6 tuần. Việc ghi nhận
các bất thường các cơ quan nội tạng và chi thai nhi tốt nhất trong khoảng 16-20
tuần.
Khám siêu âm giúp xác định được kích thước và vị trí tư thế của thai nhi, kích
thước và vị trí của bánh nhau, số lượng nước ối và hính dáng giải phẫu của thai
nhi.
274
Tuy nhiên siêu âm cũng có một số giới hạn và một số các bất thường nhẹ có
thể không được phát hiện.
Siêu âm còn giúp hướng dẫn mốt số các thủ thuật chẩn đoán xâm nhập như
chọc ối, sinh thiết nhau thai, chọc cuống rốn.
Siêu âm độ mờ da gáy và việc sàng lọc bất thường nhiễm sắc thể thai:
Độ mờ da gáy là hình ảnh siêu âm sự tụ dịch dưới da sau cổ thai nhi
trong 3 tháng đầu thai kỳ.
Thuật ngữ độ mờ (translucency) được sử dụng không kể có vách ngăn
hay không, chỉ giới hạn tại cổ thai nhi hoặc dày toàn bộ thai nhi.
Tần suất bất thường nhiễm sắc thể và các bất thường khác liên quan
đến kích thước độ mờ da gáy hơn là hình dáng của độ mờ da gáy.
2. Định lượng một số chất trong huyết thanh mẹ
2.1. Alpha-fetoprotein Huyết thanh mẹ (Maternal serum alpha-fetoprotein
(MSAFP))
Thai đang phát triển có 2 loại protein máu chính là Albumin và alpha-
fetoprotein (AFP). Vì người trưởng thành chỉ có albumin trong máu, nên xét
nghiệm MSAFP được sử dụng để xác định gián tiếp lượng AFP trong máu thai nhi.
Nói chung chỉ có một lượng nhỏ AFP trong dịch ối có thể qua bánh nhau để đi vào
máu người mẹ. Tuy nhiên khi có bất thường ống thần kinh, do một phần ống thần
kinh phôi thai không được đóng kín nên AFP sẽ thoát vào dịch ối. Các bất thường
ống thần kinh bao gồm thai vô não (do ống thần kinh phần đầu không đóng được)
và tật hở khe đốt sống (spina bifida: do phần đuôi ống thần kinh không đóng
được). Ở Mỹ tỷ lệ mắc các loại bệnh này 1-2/1000 trường hợp sinh. Tương tự như
vậy, trong tật hở thành bụng (gastroschisis) hay thoát vị rốn (omphalocele) thì AFP
từ thai sẽ đi vào trong máu mẹ với một lượng lớn hơn bình thường.
Ðể xét nhiệm MSAFP có giá trị thì phải xác định chính xác tuổi thai vì MSAFP
tăng theo tuổi thai (tăng theo kích thước thai). MSAFP được tính theo bội số giá trị
275
trung bình (MoM). MoM tăng cao hơn bình thường thì càng có khả năng bị dị tật
bẩm sinh. MSAFP có độ nhạy lớn nhất trong tuổi thai 16-18 tuần nhưng thường
người ta sử dụng nó để tính nguy cơ trong giới hạn tuổi thai 15-22 tuần.
MSAFP có thể gia tăng vì nhiều lý do mà không liên quan đến tật hở ống thần
kinh hoặc hở thành bụng vì vậy xét nghiệm này không đạt độ đặc hiệu 100%.
Lượng MSAFP cũng thay đổi theo các yếu tố chủng tộc, bệnh lý đái đường của
người mẹ. Hơn nữa, nguyên nhân phổ biến nhất gây tăng MSAFP giả là do ước
tính tuổi thai bị sai.
Kết hợp sàng lọc MSAFP và siêu âm có thể phát hiện được hầu như tất cả các
thai vô não (anencephaly) và hầu hết các trường hợp bị tật hở khe đốt sống (spina
bifida). Khuyết ống thần kinh (neural tube defect: NTDs) có thể được phân biệt với
các dị tật thai khác (như hở thành bụng) bằng cách dùng xét nghiệm
acetylcholinesterase từ dịch ối lấy được qua chọc ối. Nếu acetylcholinesterase tăng
song hành với MSAFP thì khả năng có thể do khuyết ống thần kinh nhiều hơn.
Trường hợp không phát hiện được acetylcholinesterase thì cũng là một dấu hiệu
gợi ý của một vài dị tật thai khác.
Ghi chú: Các bất thường kiểu hình do đột biến gene methylene
tetrahydrofolate reductase có thể gây gia tăng nguy cơ tật hở ống thần kinh
(neural tube defect- NTDs). Folate là một đồng yếu tố của enzym này. Ðột biến
gene 1298C và C677T liên kết với sự gia tăng nồng độ homocysteine và làm tăng
nguy cơ thai bị NTDs. Ðể dự phòng NTDs người ta có thể cung cấp cho chế độ ăn
của người mẹ chỉ 4 mg acid Folic/ngày. Nhưng để có hiệu quả, người ta dùng acid
folic bắt đầu một tháng trước khi có thai và 3 tháng đầu thai kỳ.
MSAFP có ích trong sàng lọc hội chứng Down và một số thể 3 nhiểm khác.
MSAFP có xu hướng thấp hơn bình thường ở thai bị Down và một số bất
thường NST.
276
2.2. Beta-HCG tự do huyết thanh mẹ
Vào giai đoạn sau thai kỳ, ở cuối quý 2, hCG có thể được sử dụng kết hợp với
MSAFP để sàng lọc các bất thường NST đặc biệt trong hội chứng Down. hCG tăng
kết hợp với giảm MSAFP là một gợi ý thai bị Down.
hCG cao bất thường cũng gợi ý bệnh lý tế bào nuôi (chửa trứng). Nếu siêu âm
không thấy cấu trúc thai kèm với hCG tăng bất thường là một gợi ý bệnh lý chữa
trứng. Định lượng hCG có thể được sử dụng để theo dõi điều trị chửa trứng, ung
thư tế bào nuôi hoặc tái phát ung thư tế bào nuôi
2.3. Estriol huyết thanh mẹ
Estriol không liên hợp (uE3) do hoàng thể và rau thai bài tiết.Estriol có
nguồn gốc từ dehydroepiandrosterone (DHEA- được sản xuẩt từ tuyến thượng
thận) sau đó được bánh nhau chuyển hóa thành estriol. Estriol đi vào máu mẹ và
được bài xuất qua đường tiết niệu hoặc bài xuất qua gan vào mật. Xét nghiệm liên
tục estriol trong quí 3 thai kỳ để theo dõi tình trạng của thai. Nếu estriol giảm báo
hiệu thai đang có nguy cơ và có thể có chỉ định kết thúc thai kỳ. Estriol cũng giảm
trong thai bị hội chứng Down hoặc thiểu sản tuyến thượng thận kèm theo vô não.
Trong hội chứng Down, cả uE3 và DHEA thấp hơn bình thường ở mô
gan, rau thai và huyết thanh mẹ.
2.4. Protein huyết thanh liên quan thai nghén (Pregnancy-associated plasma
protein A (PAPP-A)
PAPP-A là một glycoprotein có nguồn gốc từ bánh rau. Trong thai kỳ bình
thường nồng độ PAPP-A tăng dần trong suốt quá trình mang thai.
Trong quí đầu thai kỳ, PAPP-A huyết thanh thấp là một dấu hiệu gợi ý thai bị
thể 3 nhiễm 13, 18 và 21. Hơn nữa, mức PAPP-A thấp trong quí đầu dự báo một
thai không tốt như thai nhẹ cân hay thai lưu. Trường hợp PAPP-A cao hơn bình
thường là một dấu hiệu dự báo thai lớn.
277
Ở quý 2 nồng độ PAPP-A vẫn giữ ở mức bình thường hoặc hơi giảm, do
vậy PAPP-A chỉ được dùng để đánh giá trong quý I của thai kỳ.
Việc kết hợp các xét nghiệm huyết thanh có thể có thể làm gia tăng độ nhạy
và độ đặc hiệu của việc phát hiện các bất thường thai
Double test (11 w -13 w)
β-HCG: (free beta-human chorionic gonadotropin) HCG đầu tiên được các tế
bào lá nuôi của trứng sau khi đã được thụ tinh tiết ra sau đó sẽ do nhau thai bài tiết.
PAPP-A:(Pregnancy Associated Plasma Protein A) do nhau thai sản xuất và
bài tiết vào máu
Triple test (15 w – 18 w)
AFP: (Alpha feto protein) AFP được sản xuất từ túi noãn hoàng, các tế bào
gan chưa biệt hóa và đường tiêu hóa của thai
β-HCG: Trong huyết thanh mẹ.
uE3: (Estriol không liên hợp) được sản xuất từ gan và nhau thai của thai.
3. NIPT (NON – INVASIVE PRENATAL TESTING): Sàng lọc trước sinh
không xâm lấn.
Phân tích các đoạn DNA nhỏ đang lưu hành trong máu của một phụ nữ mang
thai. Không giống như hầu hết các DNA, được tìm thấy bên trong nhân tế bào, các
278
đoạn này là trôi nổi tự do và không nằm trong các tế bào, và do đó được gọi là
DNA không có tế bào (cfDNA). Những mảnh nhỏ này thường chứa ít hơn 200 bp
và phát sinh khi các tế bào chết đi và bị phá vỡ và nội dung của chúng, bao gồm cả
DNA, được giải phóng vào máu.
Khi mang thai, dòng máu mẹ có chứa hỗn hợp cfDNA đến từ tế bào của mẹ
và tế bào từ nhau thai. Nhau thai là mô trong tử cung liên kết với thai nhi và nguồn
cung cấp máu mẹ. Những tế bào này được đổ vào dòng máu mẹ trong suốt thai kỳ.
DNA trong các tế bào nhau thai thường giống hệt với DNA của thai nhi. Phân tích
cfDNA từ nhau thai cung cấp cơ hội phát hiện sớm các bất thường di truyền nhất
định mà không gây hại cho thai nhi.
NIPT có thể bao gồm sàng lọc các rối loạn nhiễm sắc thể bổ sung gây ra bởi
các phần bị thiếu (bị mất) hoặc thừa (sao chép) của nhiễm sắc thể. NIPT đang bắt
đầu được sử dụng để kiểm tra các rối loạn di truyền gây ra bởi những thay đổi
(biến thể) trong các gen đơn lẻ. Khi công nghệ cải thiện và chi phí xét nghiệm di
truyền giảm, các nhà nghiên cứu hy vọng rằng NIPT sẽ trở nên khả dụng cho nhiều
điều kiện di truyền hơn.
NIPT được coi là không xâm lấn vì nó chỉ cần lấy máu từ người phụ nữ mang
thai và không gây nguy hiểm cho thai nhi. NIPT là một xét nghiệm sàng lọc, có
nghĩa là nó sẽ không đưa ra câu trả lời dứt khoát về việc thai nhi có bị bệnh di
truyền hay không. Thử nghiệm chỉ có thể ước tính liệu rủi ro có một số điều kiện
nhất định là tăng hay giảm. Trong một số trường hợp, kết quả NIPT cho thấy tăng
nguy cơ bất thường di truyền khi thai nhi thực sự không bị ảnh hưởng dương tính
giả) hoặc kết quả cho thấy giảm nguy cơ bất thường di truyền khi thai nhi thực sự
bị ảnh hưởng (âm tính giả). Vì NIPT phân tích cả cfDNA của thai nhi và mẹ, nên
xét nghiệm có thể phát hiện ra tình trạng di truyền ở người mẹ.
Phải có đủ cfDNA của thai nhi trong dòng máu mẹ để có thể xác định các bất
thường nhiễm sắc thể của thai nhi. Tỷ lệ cfDNA trong máu mẹ xuất phát từ nhau
thai được gọi là phần thai nhi. Nói chung, tỷ lệ thai nhi phải trên 4 phần trăm,
279
thường xảy ra vào khoảng tuần thứ mười của thai kỳ. Phân số thai nhi thấp có thể
dẫn đến việc không thể thực hiện xét nghiệm hoặc kết quả âm tính giả. Lý do
cho phân số thai nhi thấp bao gồm xét nghiệm quá sớm trong thai kỳ, lỗi lấy mẫu,
béo phì của mẹ và bất thường thai nhi.
Có nhiều phương pháp NIPT để phân tích cfDNA của thai nhi. Để xác định
aneuploidy nhiễm sắc thể, phương pháp phổ biến nhất là đếm tất cả các đoạn
cfDNA (cả thai nhi và mẹ). Nếu tỷ lệ phần trăm cfDNA từ mỗi nhiễm sắc thể như
mong đợi, thì thai nhi sẽ giảm nguy cơ mắc bệnh nhiễm sắc thể (kết quả xét
nghiệm âm tính). Nếu tỷ lệ phần trăm cfDNA từ một nhiễm sắc thể cụ thể nhiều
hơn mong đợi, thì thai nhi có khả năng tăng tình trạng trisomy (kết quả xét nghiệm
dương tính). Một kết quả sàng lọc dương tính chỉ ra rằng xét nghiệm thêm (gọi là
xét nghiệm chẩn đoán, vì nó được sử dụng để chẩn đoán bệnh) nên được thực hiện
để xác nhận kết quả.
280
CHƯƠNG V
SỰ LÀM TỔ VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÔI
281
BÀI 2. ĐÁP ỨNG HOÁ HỌC VÀ MIỄN DỊCH GIỮA PHÔI VÀ
NIÊM MẠC TỬ CUNG TRONG QUÁ TRÌNH LÀM TỔ
A. MỤC TIÊU
1. Trình bày được khái niệm cửa sổ làm tổ và vai trò của progesterone trong
việc mở cửa sổ làm tổ
2. Trình bày cơ chế đáp ứng hoá học và miễn dịch lên quá trình làm tổ của
phôi
3. Giải thích ứng dụng của progesterone trong điều trị sảy thai liên tiếp.
4. Trình bày sự hình thành cửa sổ làm tổ dưới tác động của progesterone
5. Giải thích cơ chế đáp ứng hoá học và miễn dịch lên quan trình làm tổ của
phôi
I. VAI TRÒ CỐT LÕI CỦA PROGESTERONE TRONG SỰ THAY ĐỒI
NỘI MẠC TỬ CUNG TRONG QUAD TRÌNH LÀM TỔ VÀ THAI KỲ GIAI
ĐOẠN SỚM
1. Mô học của nội mạc tử cung giai đoạn tiền làm tổ
Tại nội mạc tử cung ở thời điểm của cửa sổ làm tổ, có sự hiện diện của các tế
bào chân hình kim (pinopode). Các pinopode này được cho là các dấu hiệu tương
tự như thụ thể trên nội mạc tử cung. Thời gian xuất hiện và tồn tại của các
pinopode rất ngắn, chỉ khoảng 5 ngày. Pinopode có vai trò quan trọng trong đối
thoại giữa phôi và nội mạc tử cung trước làm tổ, có tác dụng “bắt giữ” phôi tại vị
trí làm tổ, ngăn chặn hiện tượng phôi nang bị “cuốn trôi” bởi lông mao của nội
mạc tử cung.
282
Ảnh quét bởi kính hiển vi điện tử bề mặt nội mạc tử cung của con người cho thấy
ranh giới giữa các tế bào là khá rõ ràng. (A) Sự vắng mặt của pinopodes. Vi lông
mao và lông mao nhìn thấy như được kéo dài từ bề mặt của các tế bào riêng lẻ. (B)
Có thể nhìn thấy ba pinopode với bề mặt nhẵn và mịn.
2. Vai trò của progesteron
Progesterone là hormone thiết yếu của quá trình làm tổ của phôi đã thoát màng.
Tại nội mạc tử cung, sự hài hòa cao độ trong tác động hiệp đồng giữa
estrogen và progesterone là điều kiện thiết yếu để tạo ra những thay đổi cần thiết
trước làm tổ. Trước tiên, nội mạc tử cung phải được chuẩn bị đúng mức bởi
estrogen. Kế đến, progesterone phải xuất hiện đúng lúc, vào thời điểm nội mạc
đã sẵn sàng để chuyển sang phân tiết.
Sự có mặt và tác động đúng lúc của progesterone trên nội mạc tử cung đã
được chuẩn bị đúng mức trước đó bởi estrogen, các gene của tế bào nội mạc tử
cung sẽ được điều hòa lên (up-regulated) hay xuống (down-regulated). Mối tương
quan giữa estrogen và progesterone quyết định chiều hướng điều hòa các gene là
lên hay xuống, từ đó quyết định khả năng tiếp nhận phôi của nội mạc tử cung.
Cửa sổ làm tổ được mở bởi progesterone.
Hình 125: Pinopodes
(tế bào chân hình kim)
283
Sau khi được chuẩn bị thích hợp với progesterone, nội mạc tử cung đạt đến
trạng thái sẵn sàng để tiếp nhận phôi đến làm tổ. Cửa sổ làm tổ được mở ra.
Hình 126: Quá trình làm tổ
Hình 127: Cửa sổ làm tổ là giai đoạn duy nhất mà phôi có thể làm tổ
BL: Blastocyst, LIF: Leukaemia inhibitory factor, LE: Luminal epithelium of the
endometrium, P: Pinopode, CT: Cytotrophoblast, ST: Syncytiotrophoblasts
Hình 133: mô tả sự gắn kết dần dần của phôi nang vào nội mạc tử cung trong giai
đoạn khởi điểm của cửa sổ làm tổ, được mô tả bằng dấu sinh học giả định cho khả
năng tiếp nhận nội mạc tử cung: integrins (màu đỏ), pinopodes (màu tím) và LIF
(màu cam). Sự tích hợp Trophectodermal (màu xanh lá cây) trên bề mặt màng đỉnh
Gắn kết
phôi nang
Kết dính
phôi nang
Xâm nhập
của phôi
nang
Làm tổ
hoàn tất
Cửa sổ làm tổ (ngày 20-23 vòng kinh 28 ngày)
284
của phôi nang là cần thiết cho sự kết dính (hình 2). Sự kết dính này gây ra phản
ứng trong các nguyên bào nuôi để phân biệt thành lớp tế bào bên trong (màu hồng
đậm) là đơn bào nuôi và lớp hợp bào nuôi ở bên ngoài (màu hồng nhạt). Hợp bào
nuôi có kích thước lớn, đa hình, có nhiều hơn một nhân và bước đầu xâm chiếm
decidua (hình 3). Bây giờ thì các nguyên bào nuôi sản xuất ra βhCG (không được
mô tả trong sơ đồ này) có tác dụng kích thích hoàng thể để sản xuất progesterone.
Trong hình 4, quá trình làm tổ hoàn tất, cửa sổ làm tổ đóng lại.
Nội mạc tử cung tiếp nhận phôi làm tổ khi và chỉ khi cửa sổ làm tổ đã mở.
Cửa sổ làm tổ được mở ra ở ngày thứ 18 và đóng lại ở ngày thứ 23 của chu
kỳ. Cửa sổ làm tổ là khoảng thời gian duy nhất mà nội mạc có thể tiếp nhận phôi
làm tổ. Sự lệch pha giữa thời điểm mở cửa sổ và thời điểm phôi thoát màng sẽ dẫn
đến việc phôi tiếp cận với nội mạc tử cung ngoài cửa sổ làm tổ, và hệ quả là phôi
sẽ không được tiếp nhận.
Cửa sổ làm tổ có thể bị di dời do các tác động nội sinh như hoàng thể hóa
sớm gây tăng sớm progesterone nội sinh, hay tác động ngoại sinh do dùng
hormone nguồn gốc ngoại lai Cửa sổ làm tổ bị di dời sẽ làm thay đổi vị trí tương
đối của nó so với thời điểm phôi thoát màng.
II. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA ĐỐI THOẠI HÓA HỌC VÀ MIỄN
DỊCH GIỮA PHÔI GIAI ĐOẠN PHÂN CHIA VÀ NỘI MẠC TỬ CUNG
TRONG QUÁ TRÌNH LÀM TỔ.
1. Phôi thoát màng
Ngày thứ 6 sau thụ tinh, phôi thoát khỏi ZP, vào trong buồng tử cung và tiếp cận
với nội mạc tử cung.
Vào ngày thứ 6 sau thụ tinh, trao đổi khí và dinh dưỡng giữa phôi nang và mẹ
thông qua ZP đã không còn thích hợp. Phôi phải thoát khỏi ZP để tìm đến nguồn
285
cung cấp oxygen phù hợp hơn với nhu cầu ngày càng cao của nó, đồng thời có thể
tiếp cận trực tiếp với nguồn dưỡng chất từ mẹ.
Màng ZP bị mỏng dần ở một vị trí, để rồi cuối cùng bị phá vỡ. Phôi nang sẽ
thoát qua lỗ hổng này để đi vào buồng tử cung và chuẩn bị cho tiến trình làm tổ.
Hiện tượng này được gọi là hiện tượng thoát màng (hatching).
2. Đối thoại hóa học giữa phôi thoát màng và nội mạc tử cung
Đối thoại hóa học kích hoạt các biến đổi trên bề mặt nội mạc và của giao diện
phôi-nội mạc
Phôi đã thoát màng thực hiện trao đổi tín hiệu hóa học với nội mạc tử cung.
GF (Growth Factor) và các cytokins từ phôi thúc đẩy những biến đổi ở nội mạc tử
cung.
Tại giao diện giữa vi nhung mao của nguyên bào nuôi và tế bào chân hình
kim của nội mạc tử cung, các tín hiệu tế bào (signal) gồm LIF (Leukemia
Inhibitory Factor) và EGF (Epidermal Growth Factor) thúc đẩy tương tác giữa 2
loại tế bào này.
3. Đối thoại miễn dịch tế bào
Phôi là một mảnh bán dị ghép nên luôn phải đối mặt với hiện tượng thải ghép.
Phôi vốn có gene không giống với vốn gene của người mẹ. Nó chỉ tiếp nhận
một nửa vốn di truyền của mẹ, với các kháng nguyên bạch cầu HLA trên bề mặt tế
bào , còn nửa gen còn lại nhận từ các tế bào nguồn gốc cha. Vì thế, phôi là một
mảnh bán dị ghép (hemi-allograft).
Hệ quả là, về mặt miễn dịch, phôi là một mảnh ghép không tương đồng với hệ
miễn dịch mẹ. Do bất tương đồng về mặt miễn dịch, phôi phải đối mặt với hiện
tượng thải ghép. Nói một cách khác, để phôi làm tổ thành công, điều kiện cần và
đủ đó là phải khởi phát được một tiến trình ức chế miễn dịch, nhằm ngăn cản việc
cơ thể người mẹ loại bỏ mảnh bán dị ghép. Hệ thống miễn dịch của mẹ (gồm đáp
286
ứng miễn dịch dịch thể và đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào) phải phù hợp
với “mảnh bán dị ghép” phôi thai này.
Khả năng đáp ứng miễn dịch tế bào của phụ nữ mang thai bị giảm nhẹ, thông
qua sự giảm hoạt động của các tế bào diệt tự nhiên (Natural Killer - NK, non-B-
non-T-lymphocyte) và giảm khả năng hóa ứng của các đại thực bào. Đáp ứng miễn
dịch qua tế bào lympho T được định hướng khá nhiều về phía ức chế miễn dịch.
Miễn dịch dịch thể hoạt động bình thường trong khi mang thai. Các globulin
miễn dịch có số lượng bình thường ngoại trừ IgG bị giảm ở ba tháng cuối thai kỳ
do di chuyển một phần sang tuần hoàn thai nhi.
Hình 128; Sơ đồ biểu diễn sự hiểu biết hiện tại về vai trò và sự tương tác của
các tế bào miễn dịch trong quá trình cấy phôi sớm ở người, ngoại suy từ dữ liệu
nghiên cứu ở người và chuột
Mcpt5: mast cell protease 5; sCD38: solube CD38
Sau khi được phóng vào âm đạo , tinh dịch có chứa alloantigens và các yếu tố điều
hòa miễn dịch hòa tan và liên quan đến tinh trùng gây ra một phản ứng tiền viêm ở
ngoài tử cung. Sự giải phóng cục bộ của cytokine và chemokine gây ra sự tuyển
dụng tích cực các tế bào Treg, bạch cầu trung tính, DC, đại thực bào và tế bào
mast vào nội mạc tử cung. Ở đây, các quần thể tế bào miễn dịch khác nhau thực
287
hiện một loạt các chức năng chống viêm, ức chế miễn dịch và tái tạo mô để hỗ trợ
phôi làm tổ. Ở chuột, sự cạn kiệt của DC, đại thực bào hoặc tế bào Treg có tác
dụng cản trở sự làm tổ của phôi. Các nghiên cứu lâm sàng khác ở người cũng cho
kết quả tương tự.
Những thay đổi về khả năng miễn dịch của mẹ khi mang thai có thể liên quan
đến các protein của thai kỳ, hormone steroid, trong đó quan trọng là progesterone,
có nồng độ cao trong thai kỳ. Để cân bằng tác dụng của Progesterone, có hoạt động
của protein ức chế Progesterone (PIBF - Progesterone Induced Blocking Factor).
Hệ thống miễn dịch tế bào đóng vai trò quan trọng trong tiếp nhận hay thải trừ
mảnh bán dị ghép
Khi phôi tiếp cận với nội mạc tử cung, nó sẽ sớm bị nhận diện. Hệ thống miễn
dịch tế bào (Cell Mediated Immunity) (CMI) được kích hoạt.
Như vậy, song hành xảy ra hai chiều hướng đáp ứng miễn dịch, một theo
chiều hướng thải trừ thông qua T helper 1 (Th1) và một còn lại theo chiều hướng
tiếp nhận thông qua T helper 2 (Th2, chế tiết các IL-4 và IL-10).
Progesterone làm cơ chế miễn dịch tế bào đi theo hướng ưu thế Th2, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận mảnh bán dị ghép. Nguyên bào nuôi và tế bào
rụng tiết ra các cytokine IL-10, TGF-β và IL-4. Các cytokine này ức chế phản ứng
loại Th1 và thúc đẩy phản ứng loại Th2.
-Đáp ứng miễn dịch thiên về Th2 được duy trì cho đến cuối thai kỳ:
Dưới đáp ứng miễn dịch theo chiều hướng Th2, phôi thai sẽ làm tổ thành
công, sự xâm nhập và phát triển của nguyên bào nuôi được đảm bảo. Ưu thế đáp
ứng miễn dịch bất thường theo chiều hướng Th1 sẽ dẫn đến thất bại trong xâm
nhập của nguyên bào nuôi, dẫn đến các kết cục xấu của thai kỳ.
Đến cuối thai kỳ, sự chuyển đổi từ thiên hướng Th2 sang Th1 dẽ dẫn đến
hàng loạt các thay đổi về miễn dịch và nội tiết học, dẫn đến chuyển dạ.
288
Hình 129: Sự cân bằng trong đáp ứng miễn dịch của người mẹ khi mang thai.
Thomas MS Reid, June 1998, Striking a balance in maternal immune response to
infection
Dưới đáp ứng miễn dịch theo chiều hướng Th2, phôi thai sẽ làm tổ thành công, sự
xâm nhập và phát triển của nguyên bào nuôi được đảm bảo. Ưu thế đáp ứng miễn
dịch bất thường theo chiều hướng Th1 sẽ dẫn đến thất bại trong xâm nhập của
nguyên bào nuôi, dẫn đến các kết cục xấu của thai kỳ.
Hình 130: Tác động của progesteron lên đối thoại miễn dịch giữa phôi và NMTC
Anthony Chau, John C. Markley, Jeremy Juang, Lawrence C. Tsen. Cytokines in
the perinatalperiod part II
Progesteron làm cơ chế miễn dịch tế bào đi theo hướng ưu thế Th2, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận mảnh bán dị ghép. Nguyên bào nuôi và tế bào
289
rụng tiết ra các cytokine IL-10, TGF-β và IL-4. Các cytokine này ức chế phản ứng
loại Th1 và thúc đẩy phản ứng loại Th2.
III. SỰ THÂM NHẬP CỬA NGUYÊN BÀO NUÔI VÀO NỘI MẠC TỬ
CUNG : TỪ NGÀY THỨ 6 ĐẾN NGÀY THỨ 10 VÀ VAI TRÒ CỦA ĐÁP
ỨNG MIẾN DỊCH Ở MẸ ĐỐI VỚI SỰ LÀM TỔ..
Phản hồi âm trên LH của đỉnh cao progesterone gây ly giải hoàng thể chu kỳ.
Vào ngày thứ 7 sau phóng noãn, dưới tác dụng của LH, hoạt động chế tiết
progesterone của hoàng thể chu kỳ đạt đến đỉnh cao nhất, hoàn thành sứ mạng mở
cửa sổ làm tổ để đón nhận phôi thai. Tuy nhiên, nồng độ cao progesterone sẽ gây
phản hồi âm trên hạ đồi-yên, làm giảm nhịp điệu các xung GnRH hạ đồi, cũng như
ức chế tuyến yên làm tuyến này giảm hay ngưng phóng thích LH. LH tuyến yên bị
sút giảm, hoàng thể sẽ bị ly giải (luteolysis).
Sự ly giải hoàng thể dẫn đến hệ quả là sự sụt giảm sản xuất các steroid sinh
dục, trong đó có progesterone, hormone có nguồn gốc chủ yếu từ hoàng thể. Mất
nguồn cung cấp chủ yếu các steroid, nội mạc tử cung sẽ sụp đổ. Lúc này, cần có
một cơ chế khác để giúp hoàng thể khỏi bị ly giải, nếu không thì sẽ không thể có
sự thụ thai.
-Chỉ đến ngày thứ 9 sau thụ tinh, các hội bào nuôi mới tiếp cận được các mạch
máu xoắn ốc của nội mạc tử cung :
Ngày thứ 7, sau khi tiếp cận thành công với nội mạc tử cung, các hợp bào
nuôi (syncytiotrophoblast) phát triển từ khối nguyên bào nuôi (trophoblast) sẽ bắt
đầu tiến trình tách rẽ các tế bào nội mạc tử cung, làm cho phôi chìm dần vào nội
mạc tử cung. Tiến trình tách rẽ tế bào nội mạc được thực hiện qua các men gây ly
giải cầu nối giữa các tế bào nội mạc. Đồng thời, các tế bào có nguồn gốc lá nuôi
cũng phóng thích yếu tố tăng trưởng tế bào nội mạch VEGF (Vascular Endothelial
Growth Factor), là tác nhân quan trọng cho tái cấu trúc và phân bố mạch máu nội
mạc phù hợp với sự hiện diện của phôi.
290
Ngày thứ 8, các hợp bào nuôi vẫn tiếp tục phát triển mạch, bắt đầu tạo ra các
hốc bên trong lòng của khối hợp bào nuôi. Tuy nhiên, cho đến tận thời điểm này,
phôi vẫn chưa có các trao đổi trực tiếp với máu mẹ, do chưa tiếp cận với mạch máu
nội mạc tử cung.
Ngày thứ 9, phôi đã chìm hẳn vào nội mạc tử cung. Hợp bào nuôi phát triển
tạo nên các hốc rỗng, tiền thân của hồ máu sau này. Hợp bào nuôi cũng đã tiếp cận
với mạch máu nội mạc, nhưng vẫn chưa phá vỡ chúng ở thời điểm này.
Khối nguyên bào nuôi, hợp bào nuôi (lá nuôi hợp bào - syncytiotrophoblast)
của phôi thai tạo thành bức ngăn cách trực tiếp giữa mẹ và thai nhi, chúng không
biểu hiện kháng nguyên hòa hợp mô (phức hợp HLA-A, HLA-B, HLA-C) với hệ
miễn dịch của mẹ. Vì nguyên bào nuôi không biểu hiện HLA, các tế bào này
không bị xác định là ngoại lai bởi các tế bào lympho Tc của mẹ và do đó nó không
cung cấp tín hiệu cần thiết cho việc gây ra phản ứng miễn dịch với bào thai.
Mặt khác, các đơn bào nuôi (lá nuôi tế bào - cytotrophoblast) biểu hiện một
cách mạnh mẽ các kháng nguyên hòa hợp mô loại HLA-G, là loại HLA bất biến
giữa các cá thể cùng loài. Kháng nguyên này được cho là có chức năng chống vi
rút và chức năng ức chế miễn dịch, và có vai trò chống lại sự hoạt động của các
NK mẹ. Các tế bào NK, đại thực bào, tác động trên các tế bào không bộc lộ HLA,
lẽ ra nó có thể tiêu diệt các nguyên bào nuôi. Tuy nhiên, các NK bị nhận dạng bởi
các marqueur (đánh dấu) của HLA-G có tác dụng ức chế hoạt động của chúng. Vì
vậy, bất kể nhóm HLA của người cha, thai nhi dường như miễn dịch với hệ thống
miễn dịch của người mẹ. Ngoài ra, các nguyên bào nuôi có khả năng tiết enzym
indoleamine 2,3 – dioxygénase (IDO) có tác dụng ly giải tryptophane – một chất
cần thiết cho hoạt động của lympho T.
Đáp ứng miễn dịch của mẹ là cần thiết ở giai đoạn đầu của thai kỳ
-Phản ứng viêm tại chỗ là cần thiết để làm tổ
291
Trong những giờ đầu tiên sau khi thụ tinh, tử cung là nơi xảy ra phản ứng
viêm với vai trò quan trọng của dòng đại thực bào và tế bào lympho T có khả năng
tiết ra nhiều cytokine (IL-1, IL-6, TNF), các yếu tố tăng trưởng (Yếu tố kích thích
bạch cầu / đại thực bào GM-CSF, yếu tố kích thích CSF-1) và các enzyme
(metallicoprotease (MMP) -2, -9) cần thiết cho sự bám dính của phôi và xâm lấn
của nguyên bào nuôi. Dòng này được tạo ra bởi các tín hiệu hấp dẫn của chất lỏng
tinh dịch và các tế bào chết theo chương trình apoptose có nguồn gốc nam (đặc biệt
là tinh trùng). Cơn bão cytokine gây viêm này sau đó tan biến để nhường chỗ cho
dòng tế bào NK hiện diện trong mô tử cung. Sự xuất hiện của NK rất cần thiết cho
sự phát triển của màng rụng (sự biến đổi của lớp nội mạc tử cung của mẹ cho phép
các nguyên bào nuôi của thai nhi xâm nhập) và tạo thuận cho sự làm tổ của phôi.
-Tác dụng của đáp ứng miễn dịch với sự làm tổ: vai trò trung tâm của NK tử
cung:
Số lượng tế bào NK tử cung trong màng rụng là tối đa vào lúc bắt đầu mang
thai, sau đó giảm dần từ tuần thứ 20 và biến mất vào cuối thai kỳ. Các tế bào này
có kiểu miễn dịch đặc biệt vì chúng biểu hiện mạnh mẽ dấu ấn CD56 chứ không
phải CD16, không giống như các tế bào NK lưu hành trong huyết tương. Các tế
bào NK tử cung, thể hiện các thụ thể KIR (Killer Immunoglobulin like Receptor)
hoặc ILT (Immunoglobulin Like Transcript) có khả năng điều hòa hoạt hóa, một số
có tác dụng kích hoạt, một số có tác dụng chất ức chế. Tuy nhiên, mức độ biểu
hiện của các thụ thể ức chế như CD94 / NKG2A, KIR2D hoặc KIR2DL4 tăng lên
rất nhiều trên bề mặt tế bào NK tử cung so với NK trong huyết tương. Vai trò của
các tế bào NK tử cung trong giai đoạn thụ tinh đã được chứng minh rõ ràng bằng
thực nghiệm bằng cách phân tích các mô hình chuột. Chuột mang thai bị thiếu tế
bào NK hoặc IFN-gamma cho thấy có sự bất thường trong thụ tinh và nhau thai
đặc trưng của khuyết tật mạch máu. Các tế bào NK tử cung cũng tiết ra VEGF
(Yếu tố tăng sinh nội mô mạch máu - Vascular Endothelial Grow Factor),
angiopoietin và PLGF (Yếu tố tăng trưởng nhau thai - Placental ), thúc đẩy phát
triển mạch máu trong phản ứng màng rụng. Ngoài ra, các tế bào NK tử cung có
292
khả năng sản xuất một lượng lớn LIF (Leukemia Inhibitoy Factor), là một cytokine
cần thiết cho quá trình thụ tinh và phát triển của thai nhi.
Tài liệu tham khảo
Sinh viên cần đọc trước các tài liệu tham khảo sau trước khi đến lớp
Tiếng Việt
1. Bài giảng Module hệ SDSS, ĐH YD Hải Phòng.
2. Sinh lý học, NXB y học
Tiếng Anh
1. Moreau P, Adrian-Cabestre F, Menier C,Guiard V, Gourand L, Dausset J et
al. IL-10selectively induces HLA-G expression in humantrophoblasts and
monocytes. International immunology 1999;11(5):803-11
2. Honig A, Rieger L, Kapp M, Sutterlin M, Dietl J, Kammerer U. Indoleamine
2, 3-dioxygenase (IDO) expression in invasive extravillous trophoblast supports
role of the enzyme for materno-fetal tolerance. J Reprod Immunol 2004;61(2):79-
86.
3. Roth I, Corry DB, Locksley RM, Abrams JS, Litton MJ, Fisher SJ. Human
placental cytotrophoblasts produce the immunosuppressive cytokine interleukin
10. J Exp Med 1996;184(2):539-48.
293
BÀI 3. ĐỘNG HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA hCG
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Trình bày cấu trúc và cơ chế tác dụng của hCG;
2. Trình bày vai trò của βhCG trong sự phát triển giai đoạn sớm của thai kỳ;
3. Trình bày động học của βhCG trong thai kỳ bình thường;
4. Trình bày động học của βhCG trong một số thai kỳ bất thường.
I. CẤU TRÚC VÀ CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA hCG.
Human Chorionic Gonadotropin (hCG) là một hormon hướng tuyến sinh dục
(gonadotrope), có nguồn gốc chủ yếu từ các hội bào nuôi của rau thai (chorionic).
Một lượng rất nhỏ hCG được sản xuất từ tuyến yên, gan, đại tràng (1).
1. Cấu tạo và cấu trúc phân tử của hCG
hCG là một glycoprotein chứa 237 amino acids với trọng lượng phân tử
36700 Da. Đây là một hormon có chứa nhiều liên kết carbonhydrate nhất trong
các hormon ở loài người. hCG được cấu tạo từ 2 tiểu đơn vị α và β. 2 tiểu đơn vị
này được tổng hợp từ 2 nhóm gene khác nhau, nằm trên 2 nhiễm sắc thể (NST)
khác nhau với biểu hiện gene độc lập.
Tiểu đơn vị α của hCG gồm 92 acid amin được mã hóa bởi một gene duy nhất
nằm trên NST số 6, là tiểu đơn vị chung cho nhiều hormon glycoprotein khác của
tuyến yên như FSH, LH và TSH.
Tiểu đơn vị β của hCG gồm 145 acid amin được mã hóa bởi nhiều gene khác
nhau trên NST số 19 có cấu tạo gần giống tiểu đơn vị β của LH. Người ta tin rằng
LH và hCG có chung một thụ thể (LH – Chorionic Gonadotropin receptor
LHCGR) nên có thể có cùng chung một tác dụng.
294
Hình 131: Cấu trúc phân tử của LH và hCG
Nguồn: Surveen Ghumman (2015), Principles and Practice of Controlled Ovarian
Stimulation in ART
Tuy nhiên, tiểu đơn vị βhCG vẫn có những đặc thù, đó là phần kéo dài C tận
(C-terminal tail) giúp cho thời gian bán hủy của hCG kéo dài hơn so với LH và có
thể là nguyên nhân dẫn đến các tác dụng khác LH trên LHCGR.
Thời gian bán hủy T/2 của hCG khoảng 36 giờ trong khi T/2 của LH chỉ
khoảng 20 phút, điều này cho phép hCG duy trì được hoạt tính sinh học của nó
trong một thời gian dài.
Hai tiểu đơn vị α và β liên kết chặt chẽ với nhau bằng cầu nối polypeptid và
hCG chỉ thể hiện hoạt tính sinh học khi ở trạng thái kết hợp đầy đủ. Sau khi được
tổng hợp riêng rẽ các tiểu đơn vị này sẽ được chuyển về bộ máy Golgi để lắp ghép
thành hCG hoàn chỉnh. Tùy theo mức độ biểu hiện khác biệt của gene α và các
gene β mà chúng ta có thể có các thành phần dôi ra không được sử dụng sẽ lưu
hành trong máu dưới dạng tự do, bất hoạt. Các cầu nối polypeptid có thể bị đứt gẫy
khiến cho phân tử hCG bị phân ly, thoái giáng tạo thành nhiều dạng hCG khác
295
nhau lưu hành trong huyết tương, và có thể xuất hiện trong nước tiểu. Tùy vào
từng mục đích mà người ta chọn khảo sát dạng nào của hCG trong huyết thanh hay
nước tiểu.
Hình 132: Cấu trúc và trọng lượng phân tử của các dạng hCG do rau thai tiết
ra và hiện diện trong các mẫu huyết thanh và nước tiểu.
Nguồn: Cole L. Clin Chem 1977
Non-nicked hCG: hCG toàn phần không đứt gẫy; nicked hCG: hCG toàn phần đứt
gẫy; free α-hCG: α-hCG tự do; free β-hCG: β-hCG tự do; non-nick free β-hCG: β-
hCG tự do không đứt gẫy; nicked free β-hCG: β-hCG tự do, đứt gẫy, βcore
fragment: mảnh vỡ lõi βhCG.
296
Pearl:
- hCG là một glycoprotein gốm 2 tiểu đơn vị α và β kết hợp với nhau bằng cầu
nối polypeptid, chỉ có hoạt tính ở dạng kết hợp.
- Cấu tạo của hCG rất giống LH, và có chung recetor LHCGR, tuy nhiên tiểu
đơn vị βhCG vẫn có đặc thù, và tạo nên đặc tính sinh học cho hCG.
- T/2 của hCG là 36 giờ trong khi T/2 của LH là 20 phút. Điều này cho phép
hCG duy trì hoạt tính sinh học của nó trong thời gian dài
- Phân tử hCG có thể tổn tại ở nhiều dạng khác nhau trong huyết tương và
nước tiểu, tùy vào mục đích mà người ta lựa chọn khảo sát dạng nào.
2. Cơ chế tác dụng của hCG
- Thụ thể của hCG
Tương tự với thụ thể của các gonadotropin khác, thụ thể của hCG là thụ thể
màng kiểu G protein-coupled receptors (GPCR).
GPCR là kiểu thụ thể với phần đầu N-tận nằm ngoài tế bào, phần thân có
dạng rắn bò xuyên màng nhiều lần và phần C tận nằm trong màng tế bào. GPCR,
như tên gọi của nó, tác động bằng cách bắt cặp với G protein, một protein nằm lân
cận khu vực C-tận của GPCR.
Khi ligand đến gắn vào cấu trúc N tận, nó gây ra các biến đổi tại vùng xuyên
màng, dẫn đến kích hoạt cấu trúc C-tận. Cấu trúc C-tận bị kích hoạt chiêu mộ G
protein, G protein bị kích hoạt sẽ gây ra một loạt phản ứng bên trong bào tương.
Như đã nói ở trên, LH và hCG chia nhau cũng một thụ thể gọi là LHCGR. Về
mặt cấu tạo LHCGR có phần N-tận bên ngoài tế bào lớn (340aa) cho phép thụ thể
này gắn vào một ligand lớn như glycoprotein. Phần N-tận gắn với hormon tương
ứng với exon 10 của LHCGR. Bình thường exon 10 tạo ra cấu trúc bậc 4 của đầu
N-tận cho phép cả LH và hCG gắn vào. Tuy nhiên, khi giải trình tự gen của
LHCGR cho thấy tổn tại nhiều biến thể khác nhau của receptor này, các đột biến
297
trên exon 10 làm thay đổi cấu trúc bậc 4 của N-tận làm cho đầu này không nhận
diện được cả 2 ligand là LH và hCG nữa mà chỉ gắn với hoặc LH hoặc hCG.
Hình 133: Đột biến mất exon 10 chỉ nhận ligand là hCG, đột biến gẫy exon
10 chỉ tiếp nhận ligan là LH
Nguồn: Grzesik P. Front. Endocrinol, 22 September 2015
Hệ quả là khi gắn với các ligand
khác nhau, sẽ tạo ra các đáp ứng
khác nhau.
Hình 134.-Khi ligand là LH, tế bào
đáp ứng chủ yếu qua con đường
PIP3/AKT hay Protein Kinase
C/ERK
- Khi ligand là hCG, tế bào đáp
ứng chủ yếu qua AMPc và Protein
Kinase A
( Nguồn: Janet Choi, Johan
Smizt. Mol Cell Endocrin March
2014).
298
Do tiểu đơn vị βhCG được mã hóa bởi 6 gene khác nhau nên nó có các biến
thể khác nhau. Các biến thể của hCG cũng gây ra các đáp ứng khác nhau khi gắn
vào thụ thể GPCR.
Pearl:
- Thụ thể của hCG là thụ thể màng kiểu GPCR.
- hCG và LH chia nhau thụ thể LHCGR với vùng N-tận tương hợp cho gắn kết
với cả LH và hCG, tuy nhiên đột biến exon làm thay đổi cấu trúc bậc 4 của N-
tận làm cho GPCR chỉ đáp ứng với 1 loại ligand hoặc LH hoặc hCG từ đó dẫn
đến các đáp ứng khác nhau.
- Các biến thể khác nhau của hCG cũng gây các đáp ứng khác nhau.
II. VAI TRÒ CỦA βhCG TRONG GIAI ĐOẠN SỚM CỦA THAI KỲ
Ngày thứ 10 sau thụ tinh, hội bào nuôi đã phá vỡ các mạch máu xoắn ốc của
nội mạc, tiếp xúc trực tiếp với máu mẹ, từ đó sản xuất những phân tử hCG đầu tiên
đi vào tuần hoàn của mẹ. Sự hiện diện của hCG là bằng chứng hiện diện của
nguyên bào nuôi, là bằng chứng của hoạt động làm tổ của trứng đã thụ tinh và là
bằng chứng sinh hóa của thai kỳ. Khi thai được 5 tuần tuổi, hCG được sản xuất bởi
cả nguyên bào nuôi và hội bào nuôi đến khi nồng độ hCG đạt đỉnh trong máu mẹ
thì chỉ có hội bào nuôi sản xuất hCG.
- hCG phản ánh hoạt động của lá nuôi chứ không phải là phôi thai. Sự diễn
biến của hCG là chỉ điểm quan trọng khi lá nuôi có hoạt năng bất thường hoặc cá
bệnh lý lá nuôi.
- hCG hoạt động trên các tế bào trực tiếp tiếp xúc với nguyên bào nuôi gây ra
những thay đổi trong cấu trúc thành mạch các mạch máu xoắn ốc, đảm bảo màng
rụng hóa là các biến đổi quan trọng trong phát triển phôi thai ngoài ra còn thúc
đẩy sự phát triển của chất nền nội mạc tử cung, tăng tạo mạch để hỗ trợ phôi làm tổ
trong giai đoạn đầu.
- hCG có hoạt tính hướng sinh dục và có cấu tạo giống LH nên trong thai kỳ,
hCG có thể thay thế LH để đảm nhận nhiệm vụ của LH. Nếu trong một chu kỳ
299
không có thai sự ly giải hoàng thể sẽ bắt đầu xảy ra vào ngày 11 sau khi phóng
noãn. Trong chu kỳ có thai, sự có mặt của hCG khi LH giảm sút sẽ giúp hoàng thể
được duy trì và phát triển thành hoàng thể thai nghén, duy trì trong tam cá nguyệt
thứ nhất, tiếp tục sản xuất các steroid sinh dục, đặc biệt là progesteron để duy trì
thai kỳ.
- Ngoài ra chức năng khác của hCG được biết đến là kích thích tuần hoàn thai
nhi sản xuất ra testosteron. Tại thời điểm thai nhi biệt hóa giới tính, hCG như một
đỉnh LH thúc đẩy tế bào Leydig tổng hợp testosteron để biệt hóa giới tính nam.
Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy thụ thể LH trên cơ trơn tử cung, hCG cũng kích
thích hoàng thể sản xuất ra relaxin giúp giảm co thắt cơ trơn tử cung.
Pearl:
- hCG là bằng chứng của hiện thượng làm tổ, là dấu hiệu của có thai sinh hóa.
- hCG phản ánh hoạt động của lá nuôi, là chất chỉ điểm quan trọng khi có sự bất
thường hoạt năng lá nuôi
- hCG có tác động thúc đẩy sự xâm nhập của nguyên bào nuôi và tái cấu trúc
mạch máu màng rụng
- Chức năng quan trọng của hCG là đóng vai trò như LH cứu hoàng thể khỏi sự
chết theo chương trình và phát triển duy trì hoàng thể thai nghén tiết steroid để
duy trì thai kỳ.
III. ĐỘNG HỌC CỦA hCG TRONG THAI KỲ BÌNH THƯỜNG
Ở thai kỳ bình thường có thể phát hiện βhCG sau đỉnh LH 9 – 10 ngày, tức
ngày thứ 8 sau phòng noãn và chỉ 1 ngày sau khi phôi làm tổ bằng các kỹ thuật
sinh hoạc phân tử.
Trước tuần thứ 6, nồng độ βhCG sẽ tăng gấp đôi mỗi 2 ngày và đạt đỉnh ở
tuần 8 – 10, có thể vào khoảng 100.00mUI/ml. Sau đó nồng độ βhCG sẽ giảm dần
và đạt cực tiểu tại thời điểm 16-20 tuần còn khoảng 5.000 – 10.000mUI/ml rồi giữ
ổn định ở mức này đến cuối thai kỳ, sau thời kỳ hậu sản không còn phát hiện βhCG
trong huyết thanh Sự biến đổi của βhCG trong huyết tương của mẹ cũng tương ứng
300
với sự biến đổi βhCG trong nước tiểu. Chú ý rằng sự thay đổi nồng độ βhCG trong
nước tiểu không phụ thuộc vào thời điểm trong ngày mà phụ thuộc vào lưu lượng
nước tiểu.
Hình 135: Sự thay đổi của nồng độ βhCG trong thai kì
Theo dõi diễn biến nồng độ βhCG có thể dự đoán được tình trạng thai và các
bệnh lý của thai kỳ. Nồng độ βhCG qua cao phản ánh bệnh lý nguyên bào nuôi,
tình trạng đa thai, ngược lại βhCG quá thấp hoặc gia tăng không phù hợp với dự
đoán gợi ý một thai kỳ thất bại sớm kể cả chửa ngoài tử cung.
- Thông thường khi βhCG đạt mức 1500mUI/ml có thể thấy được túi thai
trong buồng tử cung qua đầu dò âm đạo
- Khi βhCG trên 4000 mUI/ml trên siêu âm có thể thấy được hình ảnh phôi
thai với hoạt động tim phôi.
- Khi βhCG đạt mức 5000-6000 mUI/ml có thể nhìn thấy hình ảnh túi thai qua
siêu âm đầu dò bụng.
Một giá trị của βhCG đơn lẻ không thể xác định và tiên lượng được tình trạng
thai mà phải dựa vào động học của βhCG hoặc thời gian tăng gấp đôi của βhCG
trong huyết thanh mẹ.
301
Trong 3 tháng đầu thai kỳ bình thường, βhCG tăng theo hàm số mũ. Ở thời
điểm trứng thụ tinh đến làm tổ, βhCG tăng gấp đôi từ 1 – 2 ngày, tại thời điểm 8
tuần βhCG tăng gấp đôi mỗi 3- 5 ngày. Trong vài tuần đầu khi thai phát triển bình
thường trong tử cung, 66% trường hợp βhCG tăng gấp đôi trong mỗi 2 ngày và
không bao giờ tăng dưới 53% mỗi 2 ngày.
Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào động học hCG thì khả năng tầm soát các thai kỳ
bất thường bị hạn chế, nhất là đối với chửa ngoài tử cung. Hiện nay các tiến bộ
trong nhận thức về chẩn đoán hình ảnh đã cho phép đưa vào một khái niệm mới
hơn trong phân tích diễn giải kết quả βhCG huyết thanh – “ NGƯỠNG PHÂN
ĐỊNH”.
Ngưỡng phân định là giá trị βhCG mà tại đó nếu không quan sát được hình
ảnh thai trong tử cung trên siêu âm thì có thể chắc rằng không hiện diện đơn thai
sống khỏe mạnh trong tử cung.
Ngưỡng βhCG thường dùng là 1500-2000 mUI/ml để có thể thấy túi đơn thai
trong tử cung và 3000mUI/ml đối với song thai.
Pearl:
- hCG có thể được tìm thấy trước khi chậm kinh, đạt đỉnh sau 8-10 tuần và
giảm dần.
- Trong 3 tháng đầu thai kỳ bình thường, βhCG tăng theo hàm số mũ, 66%
trường hợp βhCG tăng gấp đôi trong mỗi 2 ngày và không bao giờ tăng dưới
53% mỗi 2 ngày.
- Ngưỡng phân định của βhCG thường là 1500-2000 mUI/ml để có thể thấy túi
đơn thai trong tử cung và 3000mUI/ml đối với song thai. Nếu ở ngưỡng này
nếu không quan sát được hình ảnh thai trong tử cung trên siêu âm thì có thể
chắc rằng không hiện diện đơn thai sống khỏe mạnh trong tử cung.
302
IV. ĐỘNG HỌC βhCG TRONG MỘT SỐ THAI KỲ BẤT THƯỜNG
Hình 136: Thay đổi của βhCG trong một số thai kì bất thường.
Hydatidiform mole: Chửa trứng; Etopic Pregnancy: chửa ngoài tử cung; Fetal
death: thai chết
1. Sảy thai, thai chết lưu:
βhCG được các hội bào nuôi và nguyên bào nuôi tiết ra, thể hiện hoạt năng
của lá nuôi, khi sảy thai hoặc thai chết, lá nuôi không thể sản xuất βhCG, cùng với
sự đào thải của βhCG trong máu khiến nồng độ βhCG huyết thanh giảm dần.
Sau khi sảy thai tự nhiên βhCG huyết thanh sẽ giảm ít nhất 21 – 35% mỗi 2 ngày.
Cần lưu ý rằng βhCG càng thấp (<1500mUI/ml) thì tốc độ đào thải khỏi máu mẹ sẽ
chậm hơn.
2. Chửa ngoài tử cung
Chửa ngoài tử cung được định nghĩa là khi trứng đã thụ tinh làm tổ bên ngoài
buồng tử cung, 95% làm tổ ở vòi tử cung.
303
Với vị trí làm tổ không thuận lợi, sự phát triển và hoạt động chế tiết của gai
rau không được đảm bảo, dẫn đến sự biến thiên của βhCG huyết thành khác với
một thai kỳ bình thường. Nếu so sánh nồng độ hCG huyết thanh ở cùng một tuổi
thai giữa người bị chửa ngoài tử cung và với một người mang thai bình thường thì
khoảng 85% trường hợp chửa ngoài tử cung có βhCG huyết thanh thấp hơn ở thai
kỳ bình thường. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào một kết quả định lượng hCG không thể
giúp chẩn đoán xác định chửa ngoài tử cung vì không thể xác định chính xác ngày
rụng trứng và ngày thụ tinh. Ngay cả khi biết được ngày rụng trứng thì 2,5%
trường hipwj thai bình thường trong tử cung cũng có βhCG huyết thanh thấp, hơn
nữa βhCG huyết thanh thấp cũng gặp trong trường hợp sảy thai với các mức độ
khác nhau.
hCG không đứt gẫy và βhCG tự do huyết thanh được định lượng trong mộ
nhóm lớn các thai phụ mang thai giai đoạn sớm có các triệu chứng của chửa ngoài
tử cung cho thấy nồng độ hCG không đứt gẫy và βhCG tự do huyết thanh ở nhóm
chửa ngoài tử cung và sảy thai thấp hơn hẳn so với nhóm có thai sống bình thường
tuy nhiên mức hCG mỗi cá thể khác nhau và không thể thiết lập được ngưỡng cắt.
Vì vậy người ta dựa vào khái niệm về sự tiến triển của nồng độ βhCG huyết
thanh là khái niệm cốt lõi trong chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung.
Trong 3 tháng đầu thai kỳ bình thường, βhCG tăng theo hàm số mũ. Ở thời
điểm trứng thụ tinh đến làm tổ, βhCG tăng gấp đôi từ 1 – 2 ngày, tại thời điểm 8
tuần βhCG tăng gấp đôi mỗi 3- 5 ngày. Trong vài tuần đầu khi thai phát triển bình
thường trong tử cung, 66% trường hợp βhCG tăng gấp đôi trong mỗi 2 ngày và
không bao giờ tăng dưới 53% mỗi 2 ngày.
Vì vậy nếu βhCG huyết thành không tăng được đến 53% mỗi 2 ngày thì nên
nghĩ đến khả năng có thai trong tử cung với một diễn biến bất thường hoặc chửa
ngoài tử cung.
304
Sau khi sảy thai tự nhiên βhCG huyết thanh sẽ giảm ít nhất 21 – 35% mỗi 2
ngày vì vậy nếu βhCG huyết thanh giảm chậm không được đến 20% mỗi hai ngày
thì khả năng là chửa ngoài tử cung.
Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào động học hCG thì khả năng tầm soát thai ngoài tử
cung vẫn bị hạn chế vì động học hCG của chửa ngoài tử cung rất biến động.
Khoảng 50% trường hợp chửa ngoài tử cung có βhCG huyết thanh tăng và 50%
còn lại có βhCG huyết thanh giảm. Ngoài ra 71 % trường hợp βhCG huyết thanh
tăng chậm hơn so với thai sống trong tử cung và giảm chậm hơn mức giảm ở thai
đã sảy.
Vì vậy người ta dùng đến ngưỡng phân định của nồng độ hCG và hình ảnh
học trên siêu âm là khái niệm cốt lõi thứ 2 để chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung.
Ngưỡng phân định của βhCG thường là 1500-2000 mUI/ml để có thể thấy túi
đơn thai trong tử cung và 3000mUI/ml đối với song thai. Khi không thấy hình ảnh
của túi thai trong buồng tử cung và nồng độ βhCG trên ngưỡng phân định thì phải
nghĩ đến khả năng chửa ngoài tử cung với một giá trị dự báo dương tính rất cao.
Pearl:
- Sau khi sảy thai tự nhiên βhCG huyết thanh sẽ giảm ít nhất 21 – 35% mỗi 2
ngày. βhCG thấp (<1500mUI/ml) thì tốc độ đào thải khỏi máu chậm hơn.
- βhCG huyết thành không tăng được đến 53% mỗi 2 ngày thì nên nghĩ đến khả
năng có thai trong tử cung với một diễn biến bất thường hoặc chửa ngoài tử
cung.
- βhCG huyết thanh giảm chậm không được đến 20% mỗi hai ngày thì khả năng
là chửa ngoài tử cung
- Ngưỡng phân định của βhCG thường là 1500-2000 mUI/ml để có thể thấy túi
đơn thai trong tử cung và 3000mUI/ml đối với song thai. Khi không thấy hình
ảnh của túi thai trong buồng tử cung và nồng độ βhCG trên ngưỡng phân định
thì phải nghĩ đến khả năng chửa ngoài tử cung
305
Tài liệu tham khảo
1. Bộ môn Sản phụ khoa, trường Đại học Y Dược Hải Phòng, Tài liệu giảng
dạy Sản phụ khoa tập I.
2. Đỗ Thị Ngọc Mỹ, Tô Mai Xuân Hồng, Bài giảng Team-based Learning hCG
động học và các vấn đề liên quan, tạp chí Sản phụ khoa 1.
3. Montagnana M, Trenti T, Aloe R, Cervellin G, Lippi G. Human chorionic
gonadotropin in pregnancy diagnostics. Clin. Chim. Acta. 2011
4. Laurence A. Cole, Stephen A. Butler, Human Chorionic Gonadotropin, 2nd
edition, 2015
5. Beckmann, Obstetrics and Gynaecology 7th edition, 2014
306
Các file đính kèm theo tài liệu này:
giao_trinh_y_hoc_sinh_san.pdf