Đặc điểm sử dụng sữa và chế phẩm sữa ở trẻ mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh và các yếu tố liên quan

KẾT LUẬN Không có khác biệt về tỉ lệ SDD cấp và mạn ở các nhóm quận. Tỉ lệ trẻ mầm non nội thành TPHCM bị SDD cấp: 2-2,5%, tỉ lệ SDD mạn: 1,7-5,1%. Tỉ lệ sử dụng đa dạng sữa và chế phẩm sữa (sữa nước + sữa bột + chế phẩm sữa) là cao nhất ở tất cả các nhóm tuổi, hơn 50%. Nhóm 24 -36 th sử dụng sữa nước + sữa bột 24,5%. Nhóm 36 – 48 th sử dụng sữa nước + sữa bột là 16,7% và sữa nước là 15,6%. Nhóm > 48 th sử dụng sữa nước là 28,1%. Cả ba nhóm tuổi sử dụng lượng sữa phù hợp theo khuyến nghị dành cho trẻ 450 – 600ml là cao nhất (41,1% - 44,3% - 37,5%). Tỉ lệ sử dụng lượng sữa từ 700ml trở lên nhiều nhất ở trẻ nhỏ từ 24-36th (29,2%) và giảm dần khi trẻ càng lớn (19,8%). Nhóm 24 – 36 th sử dụng lượng sữa 700 – 900 ml là 29,2%. Nhóm 36 – 48 th sử dụng lượng sữa 250 – 400 ml là 21,4%; 700 – 900 ml là 24%. Nhóm > 48 th sử dụng lượng sữa 250 – 400 ml là 28,1%. Thói quen dùng sữa bột và chế phẩm sữa đối với nơi ở khác biệt có ý nghĩa thống kê . Thói quen dùng sữa nước và nơi ở không có sự khác biệt. Trẻ 24-36 th dùng 200 ml sữa mỗi ngày có chiều cao kém hơn, p=0,021. Trẻ 24-36 th có sử dụng sữa bột có chiều cao tốt hơn, p= 0,005. Trẻ > 48 th có sử dụng sữa bột có chiều cao kém hơn, p= 0,036.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 117 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm sử dụng sữa và chế phẩm sữa ở trẻ mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh và các yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 49 7 ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG SỮA VÀ CHẾ PHẨM SỮA Ở TRẺ MẦM NON NỘI THÀNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Nguyễn Hoàng Nhựt Hoa*, Phạm Thị Mãnh*, Nguyễn Hữu Lộc*, Phạm Văn Hậu*, Lê Thị Hồng Hạnh*, Nguyễn Thị Thu Hậu* TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định loại sữa và chế phẩm sữa, số lượng sử dụng trung bình mỗi ngày của trẻ lứa tuổi mầm non ở nội thành thành phố Hồ Chí Minh và các yếu tố liên quan đến thói quen sử dụng sữa của trẻ. Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang phân tích. Kết quả: Không có khác biệt về tỉ lệ suy dinh dưỡng (SDD) cấp và mạn ở các nhóm quận, tỉ lệ béo phì > 60%. Hơn 50% sử dụng đa dạng sữa và chế phẩm sữa. Nhóm 24 ≤ 36 tháng (th) sử dụng sữa nước + sữa bột 24,5%. Nhóm 36 ≤ 48 th sử dụng sữa nước + sữa bột là 16,7% và sữa nước là 15,6%. Nhóm > 48 tháng sử dụng sữa nước là 28,1%. Tỉ lệ sử dụng lượng sữa phù hợp theo khuyến nghị dành cho trẻ (450 – 600 ml) là cao nhất (41,1% - 44,3% - 37,5%). Tỉ lệ sử dụng lượng sữa từ 700 ml trở lên nhiều nhất ở trẻ nhỏ từ 24-36 th (29,2%) và giảm dần khi trẻ càng lớn (19,8%). Thói quen dùng sữa bột và chế phẩm sữa ở quận trung tâm cao hơn, khác biệt có ý nghĩa thống kê . Thói quen dùng sữa nước và nơi ở không có sự khác biệt. Trẻ 24-36 th dùng 200 ml sữa mỗi ngày có chiều cao kém hơn, p=0,021. Trẻ 24-36 th có sử dụng sữa bột có chiều cao tốt hơn, p= 0,005. Trẻ > 48 tháng có sử dụng sữa bột có chiều cao kém hơn, p= 0,036. Kết luận: Trẻ mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh sử dụng sữa khá hợp lý. Trẻ có xu hướng sử dụng sữa nước và chế phẩm sữa nhiều hơn khi lớn hơn. Trẻ 24-36th uống <200 ml sữa/ngày có chiều cao kém hơn, cần bổ sung thêm chế phẩm sữa. Cần có biện pháp kiểm soát tình trạng thừa cân béo phì đang gia tăng chóng mặt ở trẻ mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh. Từ khóa: Sữa, chế phẩm sữa. ABSTRACT MILK AND DAIRY PRODUCTS INTAKE CHARACTERISTICS OF URBAN PRESCHOOL CHILDREN IN HCM CITY AND ASSOCIATED FACTORS Nguyen Hoang Nhut Hoa, Pham Thi Manh, Nguyen Huu Loc, Pham Van Hau, Le Thi Hong Hanh, Nguyen Thi Thu Hau * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 49 - 55 Objective: To determine the kind of milk and dairy products, the daily average quantity intakes of urban preschool children in Ho Chi Minh city and associated factors. Method: Analysis cross sectional. Results: There weren’t different of acute and chronic malnutrition prevalence in different areas groups, prevalence of overweight and obesity was > 60%. More than 50% of children used many kinds of milk and dairy products. The 24 ≤ 36 months age group consumed instant milk and powder milk together in 24.5%, while the 36 ≤ 48 months age group consumed instant milk and powder milk together in 16.7%, and only instant milk in 15.6%. The > 48 months age consumed instant milk in 28.1%. The rate of children recommended adequate quantity dairy intake group (450-600 ml) were highest (41.1% - 44.3% - 37.5%). The rate of dairy intake > 700 * Bệnh viện Nhi Đồng 2. Tác giả liên lạc: KTV Nguyễn Hoàng Nhựt Hoa, ĐT: 0838295723, Email: thuhaunt@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 50 ml was highest in 24-36 months age group (29.2%) and reduced in older group( 19.8%). Children living in central areas consumed more powder milk and milk- origine products, the difference were mean. There weren’t different in instant milk consumption habit among areas. The 24-< 36 months age children consuming < 200 ml of milk were shorter, p=0.021. The 24-< 36 months age children still drinking powder milk had better height, p=0.005. The > 48 months age children with powder milk consumption habit had worse height, p=0.036. Conclusions: The intake of milk products in urban preschool children in HCM city were rather reasonable. There was a trend of instant milk and dairy products intake when the child growing up. The ≤ 36 months age children consuming < 200 ml of milk were shorter, they need more dairy products. Appropriate public health policies are needed to deal with dramatic overweight and obesity trend of urban preschool children in Ho Chi Minh city. Key words: Milk, dairy products. ĐẶT VẤN ĐỀ Thói quen sử dụng sữa ở người Việt nam nói riêng và các nước châu Á nói chung không phổ biến như các nước Âu Mỹ. Để cải thiện tầm vóc cho thế hệ sau, một trong những biện pháp có hiệu quả cao là cung cấp đủ nhu cầu canxi thông qua cung cấp sữa cho trẻ nhỏ. Việt nam hiện nay được xếp trong nhóm 36 nước có tỉ lệ thấp còi cao nhất thế giới cho dù tỉ lệ suy dinh dưỡng cấp đã giảm đáng kể. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng và béo phì ngang bằng với các nước phát triển (suy dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi là 5,9% năm 2010, thừa cân béo bì ở trẻ vị thànnh niên là 14% năm 2004), tuy nhiên tỉ lệ trẻ thấp còi vẫn còn khá cao (khoảng gần 7%). Trước đây, đó là hậu quả của tình trạng đói ăn, suy dinh dưỡng kéo dài, nhưng ngày nay, khi điều kiện kinh tế khá hơn, đó còn là hậu quả của nuôi dưỡng trẻ chưa hợp lý. Cho tới nay các nghiên cứu về sử dụng sữa ở lứa tuổi mầm non chưa nhiều. Có 2 nghiên cứu tại Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh về khẩu phần ăn của các lứa tuổi. Trong đó, số liệu lượng sữa trung bình trẻ lứa tuổi tiền học đường Hà nội nhận được mỗi ngày là 93,2g ở thời điểm 2004. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để đánh giá việc sử dụng sữa ở trẻ em tuổi mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh, một số yếu tố liên quan với việc sử dụng sữa, từ đó có một cái nhìn tổng quát về kiến thức chăm sóc trẻ của người dân và có thể sử dụng kết quả nghiên cứu để định hướng một số chương trình sức khỏe nhằm giúp phát triển tốt thể lực của trẻ em. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Xác định loại sữa và chế phẩm sữa, số lượng sử dụng trung bình mỗi ngày của trẻ lứa tuổi mầm non ở nội thành TP Hồ Chí Minh và các yếu tố liên quan đến thói quen sử dụng sữa của trẻ. Mục tiêu chuyên biệt Xác định loại sữa và chế phẩm sữa trẻ sử dụng theo từng nhóm tuổi: Xác định số lượng trung bình sữa và chế phẩm sữa trẻ sử dụng theo từng nhóm tuổi. Xác định các yếu tố liên quan đến thói quen sử dụng sữa và chế phẩm sữa ở trẻ. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu Cắt ngang phân tích Cỡ mẫu Theo công thức Kiểm định một trung bình của 1 dân số Trong đó: : trị số trung bình cần kiểm định, theo NC tại HN là 93,2g sữa/ngày : trị số trung bình thật trong dân số, mong muốn đạt 200g sữa/ ngày Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 51 : độ lệch chuẩn, chênh lệch so với ước muốn khảng 180g α: mức ý nghĩa, sác xuất sai lầm loại 1, α= 0,05, Z 1- α= 1,64 β: sác xuất sai lầm loại 2, β = 0,1. 1- β: sức mạnh kiểm định, 1- β =0,90 , Z 1- β =1,28 n: số mẫu cần lấy Z: trị số từ phân phối chuẩn n= 24. Như vậy mỗi trường khảo sát sẽ lấy 24 bé. Phương pháp chọn mẫu Theo kết quả điều tra dân số 2009, chia vùng dân số nội thành TPHCM thành 3 khu vực: Khu vực trung tâm: quận 1,3,5,10,11, Phú Nhuận . Tổng số dân 1173964, chiếm 16%. Khu vực gần trung tâm: quận 4, 7, 6, 8, Bình thạnh, Tân Bình. Tổng số dân 1962443, chiếm 27%. Khu vực gần ngoại thành: quận 2, 9, 12, Tân Phú, Bình Tân, Gò Vấp, Thủ Đức . Tổng số dân 2744168, chiếm 38%. Chọn trẻ theo 3 nhóm tuổi: 24-36th, 37-48th, 49-60th tại các trường mầm non của các quận trong thành phố, lấy 24 trường với nhóm 1: 5 trường, nhóm 2: 9 trường và nhóm 3: 10 trường, mỗi trường 24 bé/3 nhóm (576 bé). Tiêu chuẩn chọn mẫu Trong chương trình khám sức khỏe, chọn 8 bé cho mỗi nhóm đến khám đầu tiên trong ngày để đưa vào nghiên cứu Thu thập và xử lý số liệu - Thu thập bằng bảng câu hỏi, do bà mẹ tự điền, sau đó nhân viên khoa dinh dưỡng đã được huấn luyện trực tiếp phỏng vấn kiểm tra thông tin. - Số liệu được mã hóa và xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0 for windows. KẾT QUẢ Đặc điểm của dân số nghiên cứu Bảng 1. Tình trạng dinh dưỡng cấp theo nơi ở Tình trạng DD Q. trung tâm (%) n= 120 Q. gần Trung tâm (%) n= 216 Q. gần ngoại thành (%) n= 240 SDD cấp 2,5 2,0 2,1 Dọa SDD cân nặng 4,2 4,0 3,8 Bình thường 15,0 14,4 14,5 Béo phì 63,3 61,6 62,9 Béo phì nặng 15,0 18,1 17,1 Tổng cộng 100,0 100,0 100,0 Bảng 2. Tình trạng suy dinh dưỡng mạn theo nơi ở Tình trạng SDD mạn Q.trung tâm (%) n=120 Q. gần Trung tâm (%) n=216 Q. gần ngoại thành (%) n=240 SDD mạn 1,7 5,1 4,2 Dọa SDD 5,8 6,5 18,8 Bình thường 92,5 88,0 75,8 Tổng cộng 100,0 100,0 100,0 Thay đổi cân nặng theo nơi ở Nhóm 24 - 36th: không có sự khác biệt, p=0,328. Nhóm 36 - 48th: không có sự khác biệt, p=0,570. Nhóm > 48th: không có sự khác biệt, p=0,716. Biểu đồ 1. Cân nặng trung bình theo từng lứa tuổi ở các nhóm quận *Nhận xét Không có sự khác biệt nhiều về cân nặng ở các nhóm tuổi đối với các khu vực khác nhau. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 52 Nhóm 24 – 36th cân nặng trung bình hơn 14 kg, ở giới hạn cao so với chuẩn tăng trưởng WHO 2007 (12 – 14,3kg). Nhóm 36 – 48th cân nặng trung bình 17 kg cao hơn so với chuẩn tăng trưởng WHO 2007 (14,3 - 16,3kg). Nhóm >48 cân nặng trung bình 21 kg cao hơn nhiều so với chuẩn tăng trưởng WHO 2007 (16,3 - 18,3kg). Thay đổi chiều cao theo nơi ở Nhóm 24 - 36th: không có sự khác biệt, p=0,174 Nhóm 36 - 48th: không có sự khác biệt, p=0,095 Nhóm > 48th: : không có sự khác biệt, p=0,537 Biểu đồ 2. Chiều cao trung bình theo lứa tuổi Số lượng sữa và chế phẩm sữa sử dụng trung bình Biểu đồ 3: Số lượng sữa và chế phẩm sữa sử dụng trung bình theo lứa tuổi *Nhận xét: Chúng ta có thể nhận thấy ở cả ba nhóm tuổi tỉ lệ sử dụng lượng sữa cao nhất là 450 – 600 ml phù hợp với khuyến nghị dinh dưỡng theo độ tuổi của bé. Tỉ lệ sử dụng lượng sữa từ 700ml trở lên nhiều nhất ở trẻ nhỏ từ 24- 36th (29,2%) và giảm dần khi trẻ càng lớn (19,8%). Loại sữa và chế phẩm sữa sử dụng theo lứa tuổi Biểu đồ 4. Loại sữa và chế phẩm sữa sử dụng theo lứa tuổi Các yếu tố liên quan đến sử dụng sữa Loại sữa và nơi ở Thói quen dùng sữa bột và nơi ở: khác biệt có ý nghĩa thống kê, p=0,026. Thói quen dùng sữa nước và nơi ở: không khác biệt p=0,787. Chế phẩm sữa và nơi ở: Khác biệt có ý nghĩa thống kê, p=0.002. Lượng sữa và chiều cao Nhóm sử dụng tương đương < 200 ml/ngày: tỉ lệ SDD mạn khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p= 0,081. Chiều cao trung bình và lượng sữa sử dụng < 200 ml và ≥ 200 ml: Bảng 3. Lượng sữa và chiều cao Nhóm tuổi Lượng sữa Tần số Chiều cao TB p <200ml 9 87,333 24 – 36th ≥ 200ml 183 91,081 0,021 Khác biệt có ý nghĩa <200ml 8 96,625 36 – 48th ≥ 200ml 184 99,169 0,128 Không khác biệt <200ml 20 110,150 >48th ≥ 200ml 171 107,364 0,202 Không khác biệt Bảng 4. Chiều cao trung bình và lượng sữa sử dụng 400 ml Nhóm tuổi Chưa đủ sữa Tần số Chiều cao TB p <400ml 36 90,931 24 – 36th ≥ 400ml 156 90,900 0,973 không khác biệt <400ml 49 98,612 36 – 48th ≥ 400ml 143 99,217 0,431 Không khác biệt >48th <400ml 74 108,838 0,160 Không Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 53 Nhóm tuổi Chưa đủ sữa Tần số Chiều cao TB p ≥ 400ml 117 106,908 khác biệt *Nhận xét: Sử dụng lượng sữa < 400 ml hay ≥ 400 ml với chiều cao trung bình của trẻ không có sự khác biệt. Ngoài sữa, trẻ vẫn có thể lấy thêm canxi từ những thức ăn khác trong ngày. Bảng 5. Chiều cao trung bình và thói quen sử dụng sữa bột Nhóm tuổi Phân nhóm n Chiều cao TB p Có dùng 170 91,252 24 – 36th Không dùng 22 88,227 0,005 Khác biệt có ý nghĩa Có dùng 150 99,157 36 – 48th Không dùng 42 98,726 0,595 Không khác biệt Có dùng 127 106,663 >48th Không dùng 65 109,601 0,036 Khác biệt có ý nghĩa *Nhận xét: Đối với trẻ nhóm tuổi 24 – 36th và nhóm lớn hơn 48th thói quen dùng sữa bột có ảnh hưởng đến chiều cao trung bình (khác biệt có ý nghĩa thống kê). Với trẻ khoảng 2-3 tuổi, những gia đình có điều kiện, chăm sóc con kỹ sẽ có xu hướng sử dụng sữa bột vì quan niệm sữa bột tốt hơn sữa nước, có thể đây là nguyên nhân ảnh hưởng tốt đến chiều cao của trẻ. Ngược lại, những trẻ lớn còn tiếp tục sử dụng sữa bột thường là trẻ gầy hoặc kén ăn trong mắt cha mẹ, do đó cha mẹ cố gắng duy trì cữ sữa bột buổi tối, nhóm dễ uống sữa và tự nguyện uống sữa thường sử dụng sữa nước cho tiện lợi, vì vậy chiều cao tốt hơn. Như vậy với nhóm trẻ lớn, có thể sử dụng sữa nước để giúp trẻ tăng trưởng chiều cao tốt chứ không phải như quan niệm bình thường là sữa bột mới đủ chất. Biểu đồ 5. Sữa và tình trạng dinh dưỡng cấp *Nhận xét: Ta thấy lượng sữa không ảnh hưởng nhiều đến tình trạng dinh dưỡng cấp ở trẻ nhỏ, ngoại trừ ở nhóm uống sữa 400-700 ml/ngày có xu hướng thừa cân và béo phì nhiều nhất. Ở tuổi mầm non, trẻ uống sữa cùng với chế độ ăn dặm, cả 2 chế độ này đều ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và sự cân đối của cơ thể trẻ. Ngoài ra, còn những yếu tố môi trường tác động đến trẻ như đi học về chỉ thích xem tivi, chơi game, lười vận động dẫn đến việc tỉ lệ thừa cân béo phì trẻ tăng cao. Đây cũng là vấn đề đáng lo ngại của xã hội. Vì vậy việc tư vấn hướng dẫn cha mẹ hiểu rõ về cách nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ hợp lý, cả chế độ sữa và chế độ ăn đặc là rất cần thiết. BÀN LUẬN Tình trạng dinh dưỡng cấp theo nơi ở Qua phân tích ba khu vục trung tâm, gần trung tâm và gần ngoại thành ta thấy tình trạng dinh dưỡng của các bé tương tự nhau và tỉ lệ thừa cân – béo phì đối với trẻ mầm non rất cao, chiếm hơn 60%, tỉ lệ này tăng rất nhiều so với nghiên cứu Tần suất thừa cân ở trẻ mẫu giáo nội thành TP.HCM là 20,5% và béo phì là 16,3%. So với kết quả nghiên cứu của tác giả Tống Thanh Sơn năm 2005 ở 1 trường tiểu học trung tâm, trong đó tỉ lệ thừa cân và béo phì của các khối lớp khoảng 40 - 50%, thì tình trạng thừa cân béo phì của trẻ em nội thành thành phố HCM đã trở thành vấn đề khá nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng. Tỉ lệ thừa cân/béo phì tương tự giữa khu vực quận gần ngoại thành 35,9 % so với khu vực trung tâm 38,9%. Điều này cho thấy các gia đình ở nội thành thành phố Hồ Chí Minh ngày nay có cách chăm sóc và mức sống, sinh hoạt không khác biệt nhiều. Các gia đình có điều kiện kinh tế khá hơn, chăm sóc trẻ nhiều, thậm chí quá mức nên tỉ lệ trẻ SDD rất ít, trong khi thừa cân béo phì rất đáng báo động. Quan điểm của nhiều gia đình hiện nay thích nhìn bé bụ bẫm, mập mạp mới là khỏe nên lúc nào cũng ép cho bé ăn, vì vậy tỉ lệ béo phì rất là cao, ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển sau này của trẻ, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 54 gây ra nhiều bệnh mạn tính không lây khác cũng rất nguy hiểm. Tình trạng suy dinh dưỡng mạn theo nơi ở Qua phân tích ba khu vực trong thành phố ta nhận thấy tỉ lệ trẻ thấp còi có chiều hướng tăng dần từ quận trung tâm đến quận gần ngoại thành. Tuy nhiên tỉ lệ trẻ thấp còi thấp hơn so với thống kê tình trạng dinh dưỡng chung ở trẻ dưới 5 tuổi của cả nước năm 2009: trong đó SDD thể thiếu cân 18,9%, SDD thể thấp còi 31,1%, SDD thể còi cọc 6,9%. Kết quả này có thể do cách chăm sóc của gia đình cũng như vai trò kiến thức chăm sóc trẻ của cha mẹ. Cân nặng trung bình theo từng lứa tuổi ở các nhóm quận Trẻ càng lớn cân nặng trung bình so với chuẩn càng cao hơn. Đó chính là hậu quả của sự tích lũy dinh dưỡng quá mức và thiếu vận động. Điều kiện kinh tế ở nội thành TPHCM tốt hơn so với các tỉnh khác, trẻ có sẵn những thức ăn nhiều năng lượng trong tầm tay nên năng lượng đưa vào cơ thể dư thừa, nhưng do đất chật, người đông, cha mẹ bận đi làm, đi học về trẻ ngồi xem tivi không có điều kiện cho trẻ vận động nhiều để tiêu hao bớt nên tỉ lệ trẻ thừa cân béo phì tăng rất nhanh chóng. Đây là mối nguy hại cho sức khỏe trẻ em cũng như làm gia tăng nguy cơ các bệnh mạn tính không lây chỉ trong một thời gian ngắn nữa nếu không có chính sách can thiệp kịp thời. Chiều cao trung bình theo lứa tuổi Tuy chiều cao của khu vực trung tâm hơi cao hơn khu vực gần ngoại thành nhưng không có sự khác biệt nhiều về chiều cao ở các nhóm tuổi đối với các khu vực khác nhau. Điều này cho thấy người dân sống ở quận trung tâm có điều kiện kinh tế khá hơn và chăm sóc tăng trưởng chiều cao tốt hơn. Tỉ lệ trẻ thấp còi giảm so với những năm trước đây và thấp nhất so với cả nước. Chiều cao này ở các nhóm quận đều tốt, phù hợp so với chuẩn tăng trưởng WHO 2007 Nhóm 24 – 36th cao TB 90 cm: So với chuẩn tăng trưởng WHO 2007 (87,8 – 96,1 cm). Nhóm 36 – 48th chiều cao TB 98 cm so với chuẩn tăng trưởng WHO 2007 (96,1 – 103,3 cm). Nhóm > 48th chiều cao TB 106 cm: So với chuẩn tăng trưởng WHO 2007 (103,3 – 110 cm). Loại sữa và chế phẩm sữa sử dụng theo lứa tuổi Tỉ lệ sử dụng sữa nước tăng dần theo tháng tuổi của trẻ (trẻ hơn 48th : 28,1%). Trẻ càng lớn, cha mẹ sẽ có khuynh hướng sử dụng loại sữa này vì dễ mua, dễ sử dụng, trẻ thích uống hơn sữa pha và tiết kiệm thời gian. Tỉ lệ sử dụng sữa bột giảm dần theo tháng tuổi của trẻ (cao nhất trẻ 24 – 36th: 9,9%), tỉ lệ này thấp hơn nhiều so với sữa nước. Tỉ lệ sử dụng vừa sữa nước và sữa bột giảm dần theo tháng tuổi của trẻ (cao nhất trẻ 24 – 36th: 24,5%). Đây có thể là kết quả về quan điểm chọn sữa cho con của các bậc cha mẹ sống ở nội thành TPHCM nói riêng và Việt nam nói chung. Cha mẹ thường quan niệm sữa bột bổ và tốt hơn sữa nước.Đối với trẻ nhỏ thì cha mẹ chăm sóc kỹ hơn, ngoài giờ đi học về cha mẹ muốn bổ sung dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ nên pha sữa bột cho trẻ uống trước khi ngủ. Tỉ lệ sử dụng kết hợp đầy đủ sữa nước – sữa bột – chế phẩm sữa cho trẻ là cao nhất cho cả ba nhóm tuổi hơn 50%. Cha mẹ trẻ ngày nay cập nhật, bổ sung kiến thức nhiều, điều kiện kinh tế tốt hơn ngày xưa và ít con nên việc chăm sóc cho trẻ là ưu tiên hàng đầu. Mặc dù trẻ đi học mầm non đã được uống sữa, nhưng tâm lý phụ huynh lo trẻ bị thiếu dinh dưỡng, nên trẻ về nhà cha mẹ bổ sung sữa nước, phô mai, yaourt, váng sữavới mong muốn con mình được khỏe mạnh hơn. Điều này có thể góp phần cho trẻ cao hơn, giảm tỉ lệ thấp còi so với những năm trước. Tuy nhiên phụ huynh nên bổ dung dinh dưỡng hợp lý và đúng cách giúp trẻ phát triển tối ưu về trí tuệ và thể chất nhưng cũng không bị béo phì là tốt nhất. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 55 Lượng sữa và chiều cao Lượng sữa sử dụng < 200 ml có ảnh hưởng đến chiều cao trung bình trẻ nhỏ 24 – 36th (khác biệt có ý nghĩa thống kê). Bộ xương chủ yếu được cấu tạo từ canxi, photpho, đạm. Lượng canxi, photpho từ sữa đóng góp một phần rất quan trọng sức khỏe con người, cung cấp phần lớn nhu cầu canxi của cơ thể. Trong 200 ml sữa có khoảng 250 mg canxi, trẻ từ 24th trở lên cần khoảng 500mg/ngày (khoảng 400 ml sữa là phù hợp). Trẻ sử dụng < 200 ml sữa/ngày có nguy cơ dễ bị thiếu canxi nên ảnh hưởng đến sự phát triển chiều cao tối ưu. Nhóm trẻ càng nhỏ thì tốc độ tăng trưởng chiều cao càng nhanh, và những thiếu hụt dinh dưỡng sẽ ảnh hưởng rõ nét hơn trong quá trình tăng trưởng của trẻ. Tuy nhiên, sữa ít sắt và vitamin D, do đó việc sử dụng sữa phải kết hợp chế độ ăn cân đối và đa dạng giúp trẻ phát triển chiều cao tốt và sức khỏe ổn định. KẾT LUẬN Không có khác biệt về tỉ lệ SDD cấp và mạn ở các nhóm quận. Tỉ lệ trẻ mầm non nội thành TPHCM bị SDD cấp: 2-2,5%, tỉ lệ SDD mạn: 1,7-5,1%. Tỉ lệ sử dụng đa dạng sữa và chế phẩm sữa (sữa nước + sữa bột + chế phẩm sữa) là cao nhất ở tất cả các nhóm tuổi, hơn 50%. Nhóm 24 -36 th sử dụng sữa nước + sữa bột 24,5%. Nhóm 36 – 48 th sử dụng sữa nước + sữa bột là 16,7% và sữa nước là 15,6%. Nhóm > 48 th sử dụng sữa nước là 28,1%. Cả ba nhóm tuổi sử dụng lượng sữa phù hợp theo khuyến nghị dành cho trẻ 450 – 600ml là cao nhất (41,1% - 44,3% - 37,5%). Tỉ lệ sử dụng lượng sữa từ 700ml trở lên nhiều nhất ở trẻ nhỏ từ 24-36th (29,2%) và giảm dần khi trẻ càng lớn (19,8%). Nhóm 24 – 36 th sử dụng lượng sữa 700 – 900 ml là 29,2%. Nhóm 36 – 48 th sử dụng lượng sữa 250 – 400 ml là 21,4%; 700 – 900 ml là 24%. Nhóm > 48 th sử dụng lượng sữa 250 – 400 ml là 28,1%. Thói quen dùng sữa bột và chế phẩm sữa đối với nơi ở khác biệt có ý nghĩa thống kê . Thói quen dùng sữa nước và nơi ở không có sự khác biệt. Trẻ 24-36 th dùng 200 ml sữa mỗi ngày có chiều cao kém hơn, p=0,021. Trẻ 24-36 th có sử dụng sữa bột có chiều cao tốt hơn, p= 0,005. Trẻ > 48 th có sử dụng sữa bột có chiều cao kém hơn, p= 0,036. KIẾN NGHỊ Tiếp tục giáo dục cho cha mẹ về lợi ích của sữa và chế phẩm sữa đối với trẻ. Giáo dục việc sử dụng sữa hợp lý cho trẻ, tối thiểu phải đạt > 200 ml/ngày và sử dụng hợp lý để tránh dư cân, béo phì. Sữa và chế phẩm sữa đều có vai trò tốt trong phát triển chiều cao, trẻ có xu hướng sử dụng đa dạng, nên kết hợp để trẻ uống sữa dễ dàng hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huynh TTD, Dibley MJ, Sibbritt DW, Tran TMH (2007). Prevalence of overweight and obesity in preschool chidrenand associated socio-demographic factors in Ho Chi Minh city, Vietnam. International Journal of pediatric Obesity,2: 40-50. 2. Huynh TTD, Dibley MJ, Sibbritt DW, Tran TMH. (2008). Energy and macronutrient intakes in preschool children in urban areas of Ho Chi Minh City, Vietnam. BMC Pediatr. Oct 18;8:44. 3. Lê Thi Kha Nguyên, Dương Công Hoàng Như Quỳnh, Nguyễn Thị Thu Hậu (2010). Thói quen ăn uống, vận động, yếu tố gia đình của trẻ béo phì. Y học Thành Phố Hồ Chí Minh . 4(14), trang 212-217. 4. Nguyễn Thị Thu Hậu (2011). Sữa và chế phẩm sữa. Vai trò của sữa đối với sức khỏe trẻ em. Bí quyết dinh dưỡng giúp trẻ tăng chiều cao tối ưu. NXB Phụ nữ. Tr 43-55. 5. Trần Thị Hồng Loan. (2003) Béo phì ở trẻ cấp 1, quận I, xu thế đáng lo ngại. 2003. Hội nghị Tổng kết hoạt động 20 năm trung tâm Dinh dưỡng thành phố HCM.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf7_dac_diem_su_dung_sua_va_che_pham_sua_o_tre_mam_non_noi_tha.pdf