Quốc gia Nguồn Khái niệm
Mali Điều tra lực lượng lao
động năm 2004
Doanh nghiệp tư nhân với số lượng lao động
nhỏ hơn 11, không đăng ký với Cơ quan
quốc gia về bảo đảm xã hội và không có sổ
sách kế toán (không bao gồm lĩnh vực nông
nghiệp)
Tanzania Điều tra lực lượng lao
động hợp nhất
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân (không bao gồm lĩnh vực nông
nghiệp)
Cộng hoà Moldova Điều tra lực lượng lao
động
Doanh nghiệp hộ gia đình chưa đăng ký (bao
gồm lĩnh vực nông nghiệp)
Liên bang Nga Điều tra dân số về các
vấn đề việc làm
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân chưa đăng ký như một thực thể
hợp pháp hoặc không có tư cách pháp nhân
(bao gồm lĩnh vực nông nghiệp)
Nhật Bản Điều tra lực lượng lao
động hộ gia đình
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân nộp thuế cố định hoặc không nộp
thuế với số lượng lao động nhỏ hơn 10
(không bao gồm lĩnh vực nông nghiệp)
Ấn Độ Điều tra mẫu quốc gia,
vòng thứ 55 (1999-
2000)
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân (không bao gồm lĩnh vực nông
nghiệp)
Pakistan Điều tra lực lượng lao
động
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân được sở hữu và hoạt động bởi (i)
người tự làm hoặc (ii) người chủ với số lượng
lao động nhỏ hơn 10 (không bao gồm lĩnh
vực nông nghiệp)
Philippines Điều tra khu vực phi
chính thức thành thị
năm 1995
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân với số lượng lao động nhỏ hơn 10
đối với hoạt động/cơ sở chính và không có hệ
thống sổ sách kế toán hoàn chỉnh (bao gồm
lĩnh vực nông nghiệp)
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giới thiệu các khái niệm chuẩn quốc từ liên quan đến khu vực phi chính thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyªn san thèng kª khu vùc phi chÝnh thøc 33
Giíi thiÖu c¸c kh¸i niÖm chuÈn quèc tÕ
liªn quan ®Õn khu vùc phi chÝnh thøc
hái niệm khu vực phi chính thức
có trong khổ 5 (1) của Nghị quyết
được thông qua bởi Kỳ hội nghị lần thứ 15
của Hội nghị Quốc tế các nhà Thống kê Lao
động (ICLS) như sau:
“Khu vực phi chính thức mang những
nét đặc trưng chủ yếu của những đơn vị
tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ với mục tiêu ban đầu là
tạo ra việc làm và thu nhập cho những
người có liên quan. Những đơn vị này
thường được tổ chức hoạt động ở mức thấp,
sản xuất kinh doanh ở quy mô nhỏ, với
không hoặc rất ít sự phân chia giữa lao động
và vốn là các yếu tố đầu vào của sản xuất.
Các mối liên hệ việc làm - nếu có - chủ yếu
dựa trên sự tình cờ, quan hệ họ hàng hoặc
quan hệ cá nhân, sự quen biết hơn là dựa
trên các thoả thuận hợp đồng với sự bảo
đảm chính thức”.
1. Doanh nghiệp thuộc khu vực phi
chính thức
Trong bài báo này, thuật ngữ ‘doanh
nghiệp’ được hiểu rất rộng, đề cập đến bất
kỳ đơn vị nào tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh (SXKD) sản phẩm hàng hoá
và dịch vụ để bán hoặc trao đổi. Doanh
nghiệp theo nghĩa này bao gồm không chỉ
các đơn vị SXKD có thuê lao động, mà còn
các đơn vị được sở hữu và sáng lập bởi các
cá nhân làm việc độc lập cho riêng bản thân,
như những người tự làm, SXKD một mình
hoặc có sự trợ giúp của lao động gia đình
không hưởng lương. Hoạt động SXKD có
thể được thực hiện ở tại nhà của người chủ
sở hữu hoặc ở nơi khác; ở những địa điểm
xác định hoặc không xác định hoặc không
có vị trí cố định. Doanh nghiệp theo cách
hiểu này bao gồm cả những người làm việc
độc lập như người bán hàng rong, lái xe tắc
xi, người giúp việc, v.v...
Ba tiêu chuẩn đầu tiên trong khái niệm
về doanh nghiệp thuộc khu vực phi chính
thức thông qua bởi Kỳ hội nghị lần thứ 15
của ICLS là:
- Tính hợp pháp của doanh nghiệp;
- Đặc điểm sở hữu; và
- Loại hạch toán mà doanh nghiệp sử
dụng.
Những tiêu chuẩn này cũng là những
tiêu chuẩn trong khái niệm về doanh nghiệp
hộ gia đình không có tư cách pháp nhân.
Tuy nhiên, trong khi mọi doanh nghiệp thuộc
khu vực phi chính thức sẽ là doanh nghiệp
hộ gia đình không có tư cách pháp nhân, thì
ngược lại không phải tất cả mọi doanh
nghiệp hộ gia đình không có tư cách pháp
nhân đều thuộc khu vực phi chính thức. Sự
khác nhau này thể hiện ở bảng 1 dưới đây:
K
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 34
Bảng 1: Phân biệt giữa doanh nghiệp thuộc khu vực phi chính thức và doanh nghiệp
hộ gia đình không có tư cách pháp nhân
1. Doanh nghiệp tự làm 1.1. Doanh nghiệp tự làm phi
chính thức
1.2. Doanh nghiệp tự làm
khác
2. Doanh nghiệp người chủ 2.1. Doanh nghiệp người chủ
phi chính thức
2.2. Doanh nghiệp người
chủ khác
1. + 2. Doanh nghiệp hộ gia
đình không có tư cách pháp
nhân
1.1. + 2.1. Doanh nghiệp thuộc
khu vực phi chính thức
1.2. + 2.2. Doanh nghiệp hộ
gia đình không có tư cách
pháp nhân khác
Doanh nghiệp người chủ khác với
doanh nghiệp tự làm ở chỗ doanh nghiệp
người chủ thường xuyên thuê ít nhất một
lao động. Việc làm của lao động làm thuê
thường xuyên khác hẳn với việc làm của lao
động làm thuê theo mùa vụ hoặc việc làm
phụ giúp của lao động gia đình. Sự khác biệt
này rất quan trọng. So với doanh nghiệp tự
làm, doanh nghiệp người chủ có mức độ
chính thức hơn về hoạt động, vì thế đối với
các loại doanh nghiệp này cần phải có thêm
điều kiện để được phân loại vào nhóm khu
vực phi chính thức.
2. Doanh nghiệp tự làm phi chính thức
Kỳ hội nghị lần thứ 15 của ICLS chỉ rõ
rằng tuỳ theo tình hình cụ thể của mỗi quốc
gia mà một doanh nghiệp tự làm đều có thể
vừa được xem xét là phi chính thức, vừa
được xem xét là chưa đăng ký theo pháp
luật cụ thể của quốc gia đó. Những quy định
tham khảo bao gồm Luật Doanh nghiệp,
Luật Sản xuất và Thương mại, Luật Thuế và
Bảo đảm xã hội, các luật, đạo luật hoặc các
quy định thuộc hệ thống luật pháp quốc gia.
Những quy định của chính quyền địa
phương với mục tiêu cấp giấy phép thương
mại hoặc giấy phép tiến hành hoạt động
SXKD không bao gồm trong tiêu chuẩn này.
Những giấy phép này không được coi là có
giá trị trong trường hợp này bởi vì chúng bị
chi phối bởi các chế tài hành chính và sự
bắt buộc của những chế tài này sẽ khác
nhau một cách đáng kể ở các quốc gia khác
nhau, khác nhau ngay cả trong cùng một
quốc gia, thay đổi theo thời gian hoặc giữa
các vùng. Kỳ hội nghị lần thứ 15 cũng không
quy định bất kỳ tiêu chuẩn nào về quy mô
trong khái niệm doanh nghiệp tự làm phi
chính thức. Tiêu chuẩn như vậy được coi là
không cần thiết do đặc điểm tự nhiên của
các doanh nghiệp tự làm là có quy mô nhỏ.
3. Doanh nghiệp người chủ phi chính thức
Kỳ hội nghị lần thứ 15 chỉ rõ một doanh
nghiệp là doanh nghiệp người chủ phi chính
thức nếu thoả mãn 1 tiêu chuẩn hoặc nhiều
hơn một tiêu chuẩn trong 3 tiêu chuẩn dưới
đây:
• Quy mô doanh nghiệp nhỏ xét theo
lao động;
• Không đăng ký kinh doanh;
• Không đăng ký cho (người) lao động.
Theo Kỳ hội nghị lần thứ 15 của ICLS,
tiêu chuẩn quy mô lao động có thể hình
thành trên cơ sở:
9 Tổng số lao động được tuyển dụng
bởi doanh nghiệp trong một thời kỳ; hoặc
9 Tổng số lao động (gồm cả lao động
tuyển dụng tạm thời theo mùa vụ); hoặc
chuyªn san thèng kª khu vùc phi chÝnh thøc 35
9 Tổng số người đang làm việc tại một
thời kỳ tham khảo (gồm cả người chủ, người
đồng sở hữu, lao động gia đình).
Cơ sở đầu tiên được coi là thước đo cơ
bản của khái niệm vì nó phù hợp nhất với
khái niệm về doanh nghiệp tự làm phi chính
thức và không bị ảnh hưởng bởi số lượng
chủ cơ sở, người đồng sở hữu, lao động gia
đình và lao động làm thuê tạm thời đang làm
việc tại doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thực
tế, thông tin về tổng số lao động hoặc tổng
số người đang làm việc tại một thời kỳ tham
khảo thường dễ thu thập từ điều tra phỏng
vấn hơn là tổng số lao động được tuyển
dụng trong một thời kỳ liên tục, và có thể
gần hơn với tiêu chuẩn được sử dụng trong
thực tế để xác định giới hạn phân biệt với
các doanh nghiệp quy mô nhỏ hơn của điều
tra doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh tế chính
thức.
Trong trường hợp doanh nghiệp gồm
nhiều hơn 1 đơn vị cơ sở, Kỳ hội nghị lần
thứ 15 khuyến nghị xem xét tiêu chuẩn quy
mô của đơn vị cơ sở thay vì quy mô doanh
nghiệp. Hội nghị cũng nêu rõ một doanh
nghiệp gồm nhiều hơn 1 đơn vị cơ sở nên
được coi là doanh nghiệp thuộc khu vực phi
chính thức nếu không có đơn vị cơ sở nào
vượt quá giới hạn về quy mô. Ở rất nhiều
quốc gia, xem xét quy mô của cơ sở thay
cho quy mô doanh nghiệp sẽ bảo đảm khả
năng so sánh với tiêu chuẩn xác định phạm
vi của cuộc điều tra đơn vị cơ sở chính thức.
Vì thế thống kê khu vực chính thức và phi
chính thức có thể bổ sung lẫn nhau. Cũng
hoàn toàn có thể theo cách này để nhận biết
sự phát triển của doanh nghiệp khu vực phi
chính thức dựa trên tiêu chuẩn các đơn vị
cơ sở nhỏ mới hình thành hơn là thông qua
sự mở rộng việc làm trong đơn vị cơ sở ban
đầu.
Một lợi ích quan trọng bao gồm tiêu
chuẩn quy mô trong khái niệm khu vực phi
chính thức là quy mô có thể đo lường một
cách tương đối dễ dàng bởi tất cả các cuộc
điều tra có liên quan. Thêm vào đó, thường
có sự tương quan giữa quy mô nhỏ và các
khía cạnh khác của tính phi chính thức, cụ
thể:
• Doanh nghiệp nhỏ ít được chính
quyền biết đến một cách dễ dàng như các
doanh nghiệp lớn;
• Chính phủ với nguồn nhân lực hành
chính hạn chế có xu hướng tập trung vào
các doanh nghiệp lớn để thu thuế hoặc
cưỡng chế các quy định của pháp luật về
lao động;
• Các hiệp hội, đoàn thể có xu hướng
tập trung vào các doanh nghiệp lớn do các
doanh nghiệp này dễ dàng tiếp cận hơn và
do đó mọi nỗ lực của họ sẽ đạt kết quả cao
nhất;
• Doanh nghiệp nhỏ có xu hướng sử
dụng công nghệ truyền thống nhiều hơn.
Giới hạn quy mô của doanh nghiệp
người chủ phi chính thức không được nêu
cụ thể trong Kỳ hội nghị lần thứ 15 của ICLS
vì thế giới hạn quy mô này khác nhau theo
nhu cầu của mỗi quốc gia và thậm chí khác
nhau giữa các ngành trong một đất nước.
Để tránh sự chồng chéo với điều tra khu vực
chính thức, Hội nghị khuyến nghị rằng sự
lựa chọn giới hạn quy mô sẽ xác định phạm
vi điều tra doanh nghiệp/đơn vị cơ sở của
các đơn vị lớn tương ứng với các ngành
kinh tế nơi cuộc điều tra được tiến hành.
Tuy nhiên, thống kê một số nước thực sự
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 36
mong muốn một sự chồng chéo nhất định về
phạm vi, do tỷ lệ trả lời và chất lượng số liệu
trong điều tra doanh nghiệp/đơn vị cơ sở có
xu hướng tương đối nghèo thông tin đối với
các đơn vị có quy mô nhỏ hơn.
Kỳ hội nghị lần thứ 15 đặt mối quan tâm
còn lại để xác định khu vực phi chính thức
sẽ bao gồm tất cả các đơn vị không được
điều tra trong các cuộc điều tra doanh
nghiệp/đơn vị cơ sở hiện hành. Tuy nhiên
Hội nghị quyết định rằng khái niệm như vậy
có thể không thích hợp với mục tiêu phân
tích số liệu và lập chính sách vì khái niệm đó
có thể không ổn định theo thời gian - khu
vực phi chính thức sẽ mở rộng hoặc thu hẹp
nếu quy định về phạm vi trong cuộc điều tra
thay đổi. Hội nghị cũng giới thiệu sự khác
biệt quan trọng giữa các quốc gia phụ thuộc
vào phạm vi các cuộc điều tra của mỗi quốc
gia. Hơn nữa, Hội nghị cũng khuyến nghị
rằng, ở các quốc gia hiện đang sử dụng giới
hạn quy mô lao động cho các cuộc điều tra
khu vực chính thức hơi cao, mà giới hạn đó
cũng được dùng cho điều tra khu vực phi
chính thức, thì mọi nỗ lực nên dành để mở
rộng phạm vi điều tra khu vực chính thức
bằng việc hạ thấp giới hạn quy mô, từ đó
xóa bỏ sự chênh lệch giữa hai khu vực. Các
quốc gia không thuộc trường hợp này, thì
thích hợp hơn cả là nghiên cứu để nhận biết
sự tồn tại của một khu vực trung gian giữa
khu vực chính thức và khu vực phi chính
thức, và tổ chức thu thập thông tin về khu
vực đó bằng cuộc điều tra riêng biệt hơn là
gộp vào phạm vi điều tra của khu vực phi
chính thức. Do vậy phương pháp điều tra
dùng để thu thập số liệu về các doanh
nghiệp thuộc khu vực phi chính thức không
giống như khi điều tra các doanh nghiệp quy
mô vừa.
Tiêu chuẩn không đăng ký lao động của
doanh nghiệp là xem xét đến điều kiện làm
việc của khu vực phi chính thức liên quan
đến bảo đảm xã hội và lợi ích hợp pháp cho
người lao động. Doanh nghiệp được xem
xét xem có sự hiện diện của các hợp đồng
lao động hoặc hợp đồng học việc, trong đó
cam kết người chủ sẽ trả các khoản thuế có
liên quan và bảo hiểm xã hội cho người làm
thuê, hoặc trong đó ghi mối quan hệ công
việc phù hợp với luật lao động hiện hành.
Theo tiêu chuẩn này, một doanh nghiệp là
phi chính thức, nếu không có lao động nào
của doanh nghiệp được đăng ký. Tiêu
chuẩn này đặc biệt hữu dụng ở các quốc gia
nơi mà đăng ký lao động chỉ được thực hiện
khi doanh nghiệp tuyển dụng những lao
động đó đã đăng ký.
Bảng 2 dưới đây tóm tắt tiêu chuẩn của
Kỳ hội nghị lần thứ 15 về doanh nghiệp
thuộc khu vực phi chính thức. Phụ lục của
bài báo này cho biết các trường hợp cụ thể
của một số quốc gia trong việc lựa chọn khái
niệm doanh nghiệp thuộc khu vực phi chính
thức dựa trên khái niệm quốc tế.
chuyªn san thèng kª khu vùc phi chÝnh thøc 37
Bảng 2: Tiêu chuẩn để xác định khái niệm về doanh nghiệp thuộc khu vực phi chính
thức được thông qua ở Kỳ hội nghị lần thứ 15 của ICLS
Tiêu chuẩn Mục đích
1. Tính hợp pháp: doanh nghiệp không được
thành lập như một thực thể hợp pháp tách
rời với chủ sở hữu của nó
Xác định doanh nghiệp không có tư cách
pháp nhân
2. Sở hữu: doanh nghiệp thuộc sở hữu và
quản lý bởi một hoặc nhiều thành viên trong
một hoặc nhiều hộ gia đình
Xác định doanh nghiệp hộ gia đinh không
có tư cách pháp nhân
3. Loại hạch toán: không có hệ thống sổ
sách kế toán hoàn chỉnh
Không bao gồm doanh nghiệp hộ gia đình
bán tư cách pháp nhân
4. Nơi bán sản phẩm: ít nhất là ở một số chợ
đầu ra
Xác định doanh nghiệp hộ gia đình không
có tư cách pháp nhân thị trường; không
bao gồm doanh nghiệp hộ gia đình sản
xuất sản phẩm dành riêng cho nhu cầu sử
dụng cuối cùng của hộ gia đình
5. Thành phần kinh tế Không bao gồm hộ gia đình tuyển dụng lao
động làm thuê hộ gia đình;
Có khả năng không bao gồm doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp
thuỷ sản
6.1. Tổng số người đang làm việc/tổng số
lao động/tổng số lao động được tuyển dụng
trong giai đoạn gian liên tục: nhỏ hơn n
và/hoặc
6.2. Doanh nghiệp không đăng ký kinh
doanh và/hoặc
6.3. Doanh nghiệp không đăng ký cho lao
động
Xác định doanh nghiệp khu vực phi chính
thức như một tập hợp con của doanh
nghiệp hộ gia đình không có tư cách pháp
nhân thị trường
4. Các khái niệm khác liên quan đến
khu vực phi chính thức
4.1. Hoạt động phi kinh tế
Phạm vi của khu vực phi chính thức
được giới hạn ở các hoạt động kinh tế, có
nghĩa là các hoạt động được bao hàm trong
giới hạn khái niệm sản xuất của SNA 1993.
Giới hạn này phải được quan tâm một cách
đầy đủ để đảm bảo rằng việc làm, sản xuất
và tạo thu nhập trong khu vực phi chính
thức có thể được đo lường như phần đóng
góp vào tổng việc làm, tổng sản phẩm trong
nước và thu nhập quốc gia, không bao gồm
dịch vụ gia đình và cá nhân được cung cấp
bởi các thành viên hộ gia đình không hưởng
lương, cũng như các dịch vụ phi thị trường
tình nguyện giúp đỡ cộng đồng. Lưu ý rằng
trong mối liên hệ này khái niệm sản xuất của
SNA 1993 cũng bao gồm các hoạt động sản
xuất bất hợp pháp và hoạt động sản xuất
ngầm. Về nguyên tắc, các hoạt động này tồn
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 38
tại trong phạm vi khu vực phi chính thức nếu
chúng được thực hiện bởi các đơn vị thoả
mãn các tiêu chuẩn của khái niệm khu vực
phi chính thức. Tuy nhiên, trong thực tiễn
nhiều hoạt động như vậy dường như không
được báo cáo trong các cuộc điều tra thống
kê về khu vực phi chính thức.
4.2. Sản xuất phi thị trường
Theo Kỳ hội nghị lần thứ 15, hộ gia
đình chỉ sản xuất hàng hoá và dịch vụ để
phục vụ tự tiêu dùng hộ gia đình hoặc tích
luỹ tài sản cố định trong cùng một hộ gia
đình (như nông nghiệp tự sản tự tiêu, xây
nhà tự ở) không được bao gồm trong khu
vực phi chính thức, với khả năng loại trừ hộ
gia đình sử dụng lao động làm thuê hộ gia
đình. Khuyến nghị này có hai cơ sở. Thứ
nhất, mục tiêu kinh tế và đặc điểm của các
đơn vị tham gia hoạt động SXKD phi thị
trường không giống với các doanh nghiệp
khu vực phi chính thức ở chỗ các doanh
nghiệp khu vực phi chính thức hoạt động với
đặc tính để kiếm sống hoặc thu được thu
nhập thêm thông qua việc sản xuất các sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ để bán cho
người khác hoặc để trao đổi. Vì thế, các hộ
gia đình phi thị trường này không nằm trong
khu vực phi chính thức. Thứ hai, rất khó để
xác định giá trị hàng hoá và dịch vụ dùng
cho tiêu dùng cuối cùng trừ khi có những
đơn vị tương tự cũng sản xuất ra các hàng
hoá và dịch vụ đó để bán cho người khác.
Kỳ hội nghị lần thứ 15 phân biệt các
đơn vị sản xuất cho nhu cầu tự tiêu dùng và
các đơn vị khi không tương thích với quy
định của SNA phân biệt giữa nhà sản xuất
thị trường và người tự làm. SNA xem xét
nhà sản xuất thị trường là các doanh
nghiệp/đơn vị cơ sở có hầu hết hoặc toàn
bộ sản phẩm sản xuất ra được bán ra thị
trường; và người tự làm là tất cả các đơn vị
có hầu hết hoặc tất cả sản phẩm đầu ra có
xu hướng dành cho nhu cầu tiêu dùng cuối
cùng (SNA 1993, mục 6.52). Kỳ hội nghị lần
thứ 15 của ICLS chọn một khái niệm rộng
hơn cho nhà sản xuất thị trường và chọn
một khái niệm hẹp hơn cho người tự làm,
bởi vì trong thực tiễn rất khó để xác định
“hầu hết” là bao nhiêu và dự tính được nhu
cầu như thế nào. Trong nội dung của đo
lường khu vực phi chính thức mọi hoạt động
thị trường đều được bao hàm.
4.3. Các hoạt động nông nghiệp
Hầu hết các quốc gia không tính hoạt
động nông, lâm nghiệp và thuỷ sản vào
phạm vi đo lường khu vực phi chính thức,
nhưng một số quốc gia lại có tính hoạt động
này. Kỳ hội nghị lần thứ 15 nhận ra rằng từ
cốt lõi của khái niệm, nếu không có gì trái
ngược với kết luận của Hội nghị, trong phạm
vi của khu vực phi chính thức, có thể bao
gồm doanh nghiệp hộ gia đình không có tư
cách pháp nhân hoạt động nông, lâm nghiệp
và thuỷ sản nếu thoả mãn các tiêu chuẩn
trong khái niệm khu vực phi chính thức. Tuy
nhiên, từ thực tế thu thập số liệu (mục 16 và
20 của Nghị quyết) đưa ra quan điểm nên
loại trừ hoạt động nông, lâm nghiệp thuỷ sản
(Bảng phân ngành kinh tế, ngành A và B)
khỏi điều tra khu vực phi chính thức và đo
lường chúng một cách riêng biệt. Lý do là ở
các quốc gia đang phát triển có khu vực
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản rộng lớn, chủ
yếu là các doanh nghiệp nhỏ không có tư
cách pháp nhân, không đăng ký kinh doanh
và như thế nếu thu thập các thông tin về các
doanh nghiệp như vậy trong điều tra khu
vực phi chính thức sẽ phải mở rộng cuộc
điều tra và tăng chi phí. Thêm vào đó, hầu
hết ngành thống kê của các nước đều đã có
một hệ thống riêng để tiến hành điều tra
nông nghiệp mà có thể đã bao gồm (hoặc
dễ dàng mở rộng một cách tương đối để
bao gồm) điều tra về các doanh nghiệp hộ
chuyªn san thèng kª khu vùc phi chÝnh thøc 39
gia đình hoạt động nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản. Về mặt khái niệm, định nghĩa, phân
loại, nội dung điều tra, thiết kế bảng hỏi, thời
kỳ thu thập thông tin, dàn mẫu và các bước
chọn mẫu, tổ chức điều tra tại địa bàn, v.v..
đặt trong điều tra nông nghiệp sẽ phù hợp
hơn trong điều tra khu vực phi chính thức
nhằm đạt được những yêu cầu đo lường
hoạt động nông nghiệp và các hoạt động
khác có liên quan.
Tuy nhiên, Kỳ hội nghị lần thứ 15 của
ICLS khuyến nghị rằng các hoạt động phi
nông nghiệp của doanh nghiệp hộ gia đình
hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông
nghiệp nên được bao gồm trong điều tra khu
vực phi chính thức nếu chúng thoả mãn các
tiêu chuẩn đã được kết luận. Kinh nghiệm
cho thấy những hoạt động phi nông nghiệp
như vậy thường là những hoạt động thứ hai
của hộ gia đình nông nghiệp hoặc những
hoạt động trong thời gian nông nhàn.
4.4. Vùng nông thôn
Nhận biết được một số lượng lớn các
hoạt động phi chính thức ở vùng nông thôn
các nước và tính tương tự của các hoạt
động này với các hoạt động phi chính thức
vùng thành thị, Kỳ hội nghị lần thứ 15 của
ICLS khuyến nghị rằng, về mặt nguyên tắc,
khu vực phi chính thức nên bao gồm các
doanh nghiệp đóng trên địa bàn nông thôn
cũng như các doanh nghiệp đóng trên địa
bàn thành thị. Tuy nhiên, các quốc gia bắt
đầu tiến hành điều tra khu vực phi chính
thức với sự lựa chọn thu thập số liệu ở
những vùng giáp với thành thị trừ khi nguồn
lực và dàn chọn mẫu sẵn có cho phép điều
tra toàn bộ lãnh thổ quốc gia.
4.5. Dịch vụ chuyên môn và kỹ thuật
Trong quá khứ, đôi khi có gợi ý rằng
các doanh nghiệp hoạt động cung cấp dịch
vụ chuyên môn hoặc kỹ thuật bởi những
người tự làm như bác sỹ, luật sư, kế toán,
kiến trúc sư, kỹ sư, v.v... nên được loại ra
khỏi khu vực phi chính thức bởi các hoạt
động này có đặc điểm riêng cũng như trình
độ kỹ năng và chuyên môn cao. Tuy nhiên,
Kỳ hội nghị lần thứ 15 khuyến nghị rằng nên
có cách thức đặc biệt cho những doanh
nghiệp như vậy, để xác định các doanh
nghiệp đó có được tính hoặc không được
tính trong khu vực phi chính thức giống như
các doanh nghiệp khác không.
4.6. Người gia công
Kỳ Hội nghị lần thứ 15 của ICLS
khuyến nghị rằng người gia công nên được
bao gồm trong các doanh nghiệp thuộc khu
vực phi chính thức nếu họ thành lập doanh
nghiệp cho bản thân như những người tự
làm, và nếu những doanh nghiệp này thoả
mãn các tiêu chuẩn trong khái niệm về khu
vực phi chính thức.
Các tiêu chuẩn để phân biệt người gia
công tự làm với người gia công làm thuê
bao gồm:
• Thu nhập nhận được là một hàm của
sản lượng sản xuất và chi phí tương ứng
với công sức lao động bỏ ra;
• Không có sự hiện diện của hợp đồng
lao động với doanh nghiệp nhận hàng hoá và
dịch vụ được sản xuất bởi người gia công;
• Ra quyết định dựa vào thị trường, quy
mô hoạt động và tình hình tài chính; và
• Sở hữu máy móc hoặc thiết bị.
Ở các quốc gia có số lượng người gia
công nhiều hoặc ở các quốc gia người gia
công đại diện cho một nhóm đặc biệt được
những người sử dụng số liệu quan tâm, Hội
nghị quốc tế khuyến nghị rằng người gia
công tự làm nên được tách thành nhóm nhỏ
riêng biệt thuộc doanh nghiệp khu vực phi
chính thức.
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 40
4.7. Lao động làm thuê hộ gia đình
Chưa có sự nhất trí giữa Kỳ hội nghị
lần thứ 15 của ICLS liên quan đến cách thức
xử trí lao động làm thuê trong các hộ gia
đình (như người giúp việc, thợ giặt là, bảo
vệ, tài xế, và thợ làm vườn) đối với khu vực
phi chính thức. Hội nghị đã chỉ ra rằng, trong
rất nhiều trường hợp, không có khả năng để
phân biệt thực sự trong số lao động làm
thuê hộ gia đình, người nào là người tự làm
(là người sở hữu doanh nghiệp hộ gia đình
không có tư cách pháp nhân sản xuất dịch
vụ để bán ra thị trường), người nào là người
được thuê bởi các hộ gia đình (như người
làm thuê cho doanh nghiệp hộ gia đình
không có tư cách pháp nhân sản xuất sản
phẩm tự tiêu dùng cho bản thân hộ). Hơn
nữa, số liệu về lao động làm thuê hộ gia
đình và tiền lương của họ luôn có sẵn từ
nguồn khác như trong điều tra lực lượng lao
động hoặc trong điều tra thu nhập - chi tiêu
hộ gia đình, vì vậy không cần thiết phải tính
đến những đối tượng như vậy trong điều tra
khu vực phi chính thức.
Với những lý do như vậy, vấn đề khu
vực phi chính thức có bao gồm lao động làm
thuê hộ gia đình hay không được Kỳ hội
nghị lần thứ 15 của ICLS để mở dành cho
từng quốc gia dựa trên trường hợp cụ thể
của quốc gia mình và hướng sử dụng thống
kê tự xác định. Tuy nhiên, Hội nghị khuyến
nghị rằng nếu lao động làm thuê hộ gia đình
được bao gồm trong khu vực phi chính thức,
nhóm lao động này nên được tách thành
nhóm nhỏ riêng để nâng cao tính so sánh
quốc tế về thống kê.
Chỉ đến Kỳ hội nghị lần thứ 17 của
ICLS thì vấn đề này mới được bàn đến
nhiều hơn. Trong hướng dẫn khái niệm
thống kê về việc làm phi chính thức của Kỳ
hội nghị lần thứ 17 của ICLS chỉ rõ hộ gia
đình tuyển dụng lao động như những người
làm thuê trong hộ của mình nên được loại ra
khỏi khu vực phi chính thức. Việc không
chấp thuận này tuân theo một khuyến nghị
của Nhóm chuyên gia tư vấn về Thống kê
Khu vực Phi chính thức (nhóm Delhi) tại Kỳ
hội nghị lần thứ 3 của nhóm này. Điều này
không liên quan đến người tự làm là người
sở hữu doanh nghiệp hộ gia đình không có
tư cách pháp nhân sản xuất ra dịch vụ làm
thuê để bán và những người được doanh
nghiệp này tuyển dụng.
4.8. Tính so sánh giữa các khái niệm
của các quốc gia
Bản trích yếu thống kê chính thống về
việc làm trong khu vực phi chính thức của
ILO (ILO, 2002c) mô tả vấn đề so sánh các
khái niệm về khu vực phi chính thức đang
được các quốc gia sử dụng. Từ khi thông
qua Nghị quyết về thống kê việc làm trong
khu vực phi chính thức của Kỳ hội nghị lần
thứ 15 của ICLS, nhiều cơ quan thống kê các
nước đã có nỗ lực để phát triển và cải thiện
thống kê chính thống về khu vực phi chính
thức, mặc dù nguồn lực hạn chế của thống
kê nói chung và thống kê khu vực phi chính
thức nói riêng. Có một số số liệu hiện có dựa
trên khái niệm quốc tế về khu vực phi chính
thức đầu tiên vào năm 1993, những khái
niệm này không đồng nhất với những khái
niệm thống kê quốc tế được Kỳ hội nghị lần
thứ 15 thông qua. Thậm chí dựa trên các
khái niệm của Kỳ hội nghị lần thứ 15, đôi khi
số liệu không thể so sánh giữa các quốc gia,
do tính phù hợp giữa trường hợp cụ thể của
quốc gia với khái niệm quốc tế.
Vấn đề so sánh số liệu hiện có là kết
quả cụ thể của các yếu tố sau: sự khác biệt
về khái niệm mà số liệu thống kê dựa trên đó
để thu thập thông tin; sự khác biệt trong
nhóm ngành kinh tế bao hàm, đặc biệt về
khía cạnh bao gồm hay không bao gồm hoạt
động nông nghiệp; sự khác biệt trong việc sử
chuyªn san thèng kª khu vùc phi chÝnh thøc 41
dụng các tiêu chuẩn để xác định khu vực phi
chính thức, ví dụ quy mô lao động của doanh
nghiệp/đơn vị cơ sở và không đăng ký doanh
nghiệp; Khác nhau về ranh giới sử dụng làm
tiêu chuẩn quy mô lao động; bao gồm hoặc
không bao gồm lao động làm thuê hộ gia
đình, được tuyển dụng bởi hộ gia đình hoặc
người hoạt động sản xuất dịch vụ để phục vụ
tự tiêu dùng của hộ gia đình; bao gồm hoặc
không bao gồm người làm công việc thứ hai
thuộc khu vực phi chính thức; bao gồm hoặc
không bao gồm người tham gia vào các hoạt
động chuyên môn và kỹ thuật.
Một sự khác biệt lớn với khái niệm quốc
tế ở chỗ một số quốc gia chưa sử dụng tiêu
chuẩn về tính hợp pháp của doanh nghiệp
(doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân). Thông thường ở các quốc gia
không sử dụng tiêu chuẩn quốc tế thiếu hệ
thống sổ sách kế toán hoàn chỉnh khi đo
lường khu vực phi chính thức, đặc biệt khi
số lượng các doanh nghiệp bán tư cách
pháp nhân chưa được xác định. Nói cách
khác, số liệu đôi khi sẽ là các doanh nghiệp
nhỏ hoặc doanh nghiệp vi mô, bao gồm các
đơn vị có tư cách pháp nhân hoặc bán tư
cách pháp nhân. Điều này dẫn đến ước tính
thái quá quy mô của khu vực phi chính thức.
Vấn đề ngang bằng trở lên quan trọng
khi thực tế một số quốc gia bao hàm hoạt
động quy mô nhỏ hoặc hoạt động nông
nghiệp không đăng ký trong định nghĩa của
quốc gia về khu vực phi chính thức, trong
khi đó các quốc gia khác thì không. Vì mức
độ phổ biến rộng lớn của các hoạt động
nông nghiệp ở hầu hết các nước ở vùng
nông thôn, sự khác biệt như vậy có ảnh
hưởng lớn đến tính so sánh quốc tế số liệu
của vùng nông thôn so với vùng thành thị.
Nhiều quốc gia, ở đó số liệu sẵn có sử
dụng tiêu chuẩn không đăng ký đối với
doanh nghiệp, riêng tiêu chuẩn này hoặc kết
hợp với tiêu chuẩn khác như quy mô nhỏ
hoặc loại địa điểm SXKD khi định nghĩa về
khu vực phi chính thức. Trong hầu hết các
trường hợp tiêu chuẩn tiêu chuẩn đại diện
cho không đăng ký của doanh nghiệp như là
tư cách pháp nhân, hoặc là đăng ký thuế,
đăng ký doanh nghiệp hoặc đăng ký vì mục
tiêu thống kê. Nhiều quốc gia khác sử dụng
quy mô nhỏ như là một tiêu chuẩn để định
nghĩa khu vực phi chính thức, một tiêu
chuẩn này hoặc kết hợp với tiêu chuẩn
không đăng ký của doanh nghiệp hoặc loại
địa điểm SXKD. Tiêu chuẩn không đăng ký
lao động doanh nghiệp được sử dụng chủ
yếu để định nghĩa việc làm không đăng ký.
Điểm ranh giới cho tiêu chuẩn quy mô
khác nhau giữa các quốc gia. Tuy nhiên, có
những điểm cắt tham khảo như "nhỏ hơn 5",
"5 hoặc nhỏ hơn", "nhỏ hơn 10" hoặc "10
hoặc nhỏ hơn". Trong khi hầu hết các quốc
gia sử dụng cùng một giới hạn về quy mô cho
mọi nhóm ngành hoạt động kinh tế, thì một số
quốc gia lại sử dụng những giới hạn quy mô
khác nhau đối với các ngành kinh tế khác
nhau. Một số khác biệt giữa các quốc gia cũng
xuất phát từ tiêu chuẩn quy mô nào được áp
dụng đối với doanh nghiệp cho toàn bộ hoặc
mỗi đơn vị cơ sở của nó (nếu lớn hơn 1), và
khi nào tiêu chuẩn đó là tổng số người tham
gia vào hoạt động SXKD hoặc khi nào tiêu
chuẩn quy mô là số lượng lao động.
Số liệu quốc tế sẵn có về số người
được tuyển dụng và khu vực phi chính thức
thường chỉ là những người có công việc
chính hoặc công việc duy nhất thuộc khu
vực phi chính thức và không bao gồm số
người có công việc thứ hai thuộc khu vực
phi chính thức như nông dân và nhân viên
Nhà nước. Vì số lượng người với công việc
thứ hai thuộc khu vực phi chính thức có thể
rất lớn ở một số quốc gia, số liệu không bao
gồm số người với công việc thứ hai thuộc
khu vực phi chính thức nên được xem xét là
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 42
ước lượng mức thấp của tổng việc làm
trong khu vực phi chính thức.
Sự khác biệt cuối cùng bắt nguồn từ
khái niệm về khu vực phi chính thức là số
lượng các quốc gia không thống kê tất cả
người tự làm có nghề nghiệp là chuyên môn
và kỹ thuật, do đặc điểm nghề nghiệp của họ.
5. Khuyến nghị của nhóm Delhi
Kỳ hội nghị lần thứ 15 của ICLS cung
cấp sự linh hoạt đáng kể cho các quốc gia
để định nghĩa và đo lường khu vực phi
chính thức. Một số nhân tố của tính linh hoạt
là do yêu cầu, bởi vì Nghị quyết của Kỳ hội
nghị lần thứ 15 của ICLS là khuyến nghị đầu
tiên của quốc tế về chủ đề này và đã để lại
một khoảng trống nhằm thu nạp được nhiều
kinh nghiệm từ thực tiễn ứng dụng và bởi vì
mục tiêu chính của Khuyến nghị là hướng
dẫn kỹ thuật cho sự phát triển của thống kê
khu vực phi chính thức ở cấp độ quốc gia để
thoả mãn những thông tin cần thiết về thống
kê cho người dùng tin. Các nhân tố linh hoạt
khác bắt nguồn từ việc chưa đạt được sự
thống nhất.
Tuy nhiên, tính linh hoạt làm giảm bớt
tính so sánh quốc tế. Để giải quyết vấn đề
này, nhóm Delhi, thành lập vào năm 1997,
ban đầu là một nhóm chuyên mục báo cáo
cho Uỷ ban Thống kê của Liên Hợp Quốc,
đang nỗ lực để hài hoà các khái niệm quốc
gia về khu vực phi chính thức vào khung
chung của khái niệm quốc tế. Nhóm Delhi
nhận ra rằng có giới hạn trong việc hài hoà.
Tuy nhiên, trên quan điểm hài hòa tối đa
nhất có thể, nhóm Delhi có thể chỉ ra một
tập hợp con của khu vực phi chính thức một
cách đồng đều và dành cho các quốc gia có
thể tạo ra số liệu mang tính so sánh quốc tế.
Theo đó, nhóm Delhi đã thông qua nội dung
sau đây:
“Vì khu vực phi chính thức thể hiện bản
thân nó bằng nhiều cách khác nhau ở nhiều
quốc gia nên các khái niệm quốc gia về khu
vực phi chính thức không thể hoà hợp một
tuyệt đối ở thời điểm hiện tại. Các cơ quan
quốc tế nên phổ biến số liệu khu vực phi
chính thức tương ứng với các khái niệm quốc
gia sử dụng. Để nâng cao tính so sánh quốc
tế về thống kê phi chính thức, các cơ quan
quốc tế cũng nên phổ biến số liệu về tập hợp
con của khu vực phi chính thức, tập hợp con
này được xác định một cách thống nhất.” (Cơ
quan Thống kê Trung ương/Ấn Độ, 1999)
Để có được tập hợp con này, nhóm
Delhi đã thông qua các khuyến nghị sau:
1. Mọi quốc gia nên sử dụng tiêu chuẩn
về tính hợp pháp của đơn vị (các doanh
nghiệp không có tư cách pháp nhân), loại sổ
sách kế toán (không có hệ thống sổ sách kế
toán hoàn chỉnh) và nơi tiêu thụ sản phẩm
(ít nhất là có một số sản phẩm bán ra thị
trường).
2. Chỉ định giới hạn quy mô lao động
của doanh nghiệp trong khái niệm của quốc
gia về khu vực phi chính thức đã được để
cho quốc gia tự suy xét. Tuy nhiên, trong
các báo cáo quốc tế, các quốc gia nên cung
cấp các số liệu riêng biệt về các doanh
nghiệp với quy mô nhỏ hơn 5 lao động.
Trong trường hợp doanh nghiệp gồm nhiều
đơn vị cơ sở, giới hạn quy mô nên được áp
dụng cho đơn vị cơ sở có quy mô lớn nhất.
3. Các quốc gia sử dụng các tiêu chuẩn
về quy mô lao động nên cung cấp số liệu
phân tổ cho các doanh nghiệp cả chưa đăng
ký và đã đăng ký.
4. Các quốc gia sử dụng tiêu chuẩn về
chưa đăng ký nên cung cấp số liệu phân tổ
cho các doanh nghiệp mà có quy mô lao
động nhỏ hơn 5 lao động và cả các doanh
nghiệp có quy mô từ 5 lao động trở lên.
5. Các quốc gia có bao hàm cả các hoạt
động nông nghiệp trong khu vực phi chính
chuyªn san thèng kª khu vùc phi chÝnh thøc 43
thức nên cung cấp số liệu chia theo các hoạt
động nông nghiệp và phi nông nghiệp.
6. Các quốc gia nên bao hàm những
người làm công việc chuyên môn và kỹ thuật
nếu những họ thoả mãn các tiêu chuẩn của
khái niệm khu vực phi chính thức.
7. Các quốc gia nên bao gồm dịch vụ
lao động làm thuê trong hộ gia đình trừ khi
những hoạt động này được cung cấp bởi
những lao động làm thuê.
8. Các quốc gia nên thực hiện theo khổ
18 của Nghị quyết trong Kỳ hội nghị lần thứ
15 của ICLS về cách xử trí đối với người gia
công. Các quốc gia nên cung cấp các số liệu
riêng về người gia công đã được tính vào
khu vực phi chính thức.
9. Các quốc gia có tính cả vùng thành
thị và nông thôn nên cung cấp số liệu theo
cả hai vùng.
10. Các quốc gia sử dụng các cuộc
điều tra hộ gia đình hoặc điều tra hỗn hợp
nên cố gắng để bao gồm không chỉ những
người có công việc chính thuộc khu vực phi
chính thức, mà còn bao gồm những người
có công việc chính thuộc khu vực khác và
những người có công việc thứ hai thuộc khu
vực phi chính thức.
Lưu ý rằng ở hầu hết các quốc gia, các
tập hợp con của khu vực phi chính thức có
xu hướng chỉ là một nhóm nhỏ tương đối
của khu vực phi chính thức. Nhóm Delhi
nhận ra rằng trong tương lai cần có sự cố
gắng để mở rộng các tập hợp con thuộc khu
vực phi chính thức
Phụ lục: Khái niệm về doanh nghiệp thuộc khu vực phi chính thức
của một số quốc gia trên thế giới
Quốc gia Nguồn Khái niệm
Brazil Điều tra kinh tế phi
chính thức khu vực
thành thị
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân với số lượng lao động nhỏ hơn 6
(không bao gồm lĩnh vực nông nghiệp)
Mexico Điều tra quốc gia về
nghề nghiệp và việc
làm
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân, không có sổ sách kế toán hoàn
chỉnh và chưa đăng ký (không bao gồm lĩnh
vực nông nghiệp)
Panama Điều tra hộ gia đình Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân với số lượng lao động nhỏ hơn 5
(không bao gồm lĩnh vực nông nghiệp)
Thống kê châu Phi Điều tra 1-2-3 Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách pháp
nhân, chưa đăng ký với cơ quan thống kê quốc
gia hoặc với các cơ quan quản trị khác, và/hoặc
không có hệ thống sổ sách kế toán hoàn chỉnh
(không bao gồm lĩnh vực nông nghiệp)
Ethiopia Điều tra việc làm và
thất nghiệp khu vực
thành thị
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân không có sổ sách kế toán, với số
lượng lao động nhỏ hơn 11 hoặc không có giấy
phép (không bao gồm lĩnh vực nông nghiệp)
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 44
Quốc gia Nguồn Khái niệm
Mali Điều tra lực lượng lao
động năm 2004
Doanh nghiệp tư nhân với số lượng lao động
nhỏ hơn 11, không đăng ký với Cơ quan
quốc gia về bảo đảm xã hội và không có sổ
sách kế toán (không bao gồm lĩnh vực nông
nghiệp)
Tanzania Điều tra lực lượng lao
động hợp nhất
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân (không bao gồm lĩnh vực nông
nghiệp)
Cộng hoà Moldova Điều tra lực lượng lao
động
Doanh nghiệp hộ gia đình chưa đăng ký (bao
gồm lĩnh vực nông nghiệp)
Liên bang Nga Điều tra dân số về các
vấn đề việc làm
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân chưa đăng ký như một thực thể
hợp pháp hoặc không có tư cách pháp nhân
(bao gồm lĩnh vực nông nghiệp)
Nhật Bản Điều tra lực lượng lao
động hộ gia đình
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân nộp thuế cố định hoặc không nộp
thuế với số lượng lao động nhỏ hơn 10
(không bao gồm lĩnh vực nông nghiệp)
Ấn Độ Điều tra mẫu quốc gia,
vòng thứ 55 (1999-
2000)
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân (không bao gồm lĩnh vực nông
nghiệp)
Pakistan Điều tra lực lượng lao
động
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân được sở hữu và hoạt động bởi (i)
người tự làm hoặc (ii) người chủ với số lượng
lao động nhỏ hơn 10 (không bao gồm lĩnh
vực nông nghiệp)
Philippines Điều tra khu vực phi
chính thức thành thị
năm 1995
Doanh nghiệp hộ gia đình không có tư cách
pháp nhân với số lượng lao động nhỏ hơn 10
đối với hoạt động/cơ sở chính và không có hệ
thống sổ sách kế toán hoàn chỉnh (bao gồm
lĩnh vực nông nghiệp)
Nguồn: Cơ quan Thống kê của ILO
Nguyễn Thị Thu Huyền và Nguyễn Hữu Chí (lược dịch)
Tài liệu lược dịch: “Sổ tay điều tra việc làm phi chính thức và khu vực phi chính thức”,
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năm 2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gioi_thieu_cac_khai_niem_chuan_quoc_tu_lien_quan_den_khu_vuc.pdf