Ngoài việc, lấy hạt nhân là học thuyết phân
quyền bằng cơ chế kiểm soát, đối trọng,
trong quá trình tìm kiếm một mô hình Nhà
nước ưu việt, các học giả còn xác lập cơ chế
Bảo hiến như là một thành tố quan trọng của
Nhà nước pháp quyền. Theo đó, dù là dùng
cơ chế nào đi chăng nữa thì việc phải có một
cơ quan tài phán Hiến pháp là một điều bắt
buộc. Cơ quan đó, dù có được thiết kế trong
hệ thống cơ quan tư pháp với tư cách là Tòa
án Hiến pháp hay được thiết kế trong hệ
thống cơ quan lập pháp với tư cách là Hội
đồng Bảo Hiến thì cũng là cơ quan nhằm
cùng với cơ quan tư pháp hoàn thiện việc
xét xử các hành vi vi hiến, giải quyết các
tranh chấp khác về thẩm quyền hiến định
trong bộ máy Nhà nước. Ở Việt Nam, trong
quá trình xây dựng Hiến pháp 2013, cơ chế
Bảo Hiến đã được nghiên cứu hướng tới
việc quy định trong Hiến pháp, tuy nhiên vì
nhiều lý do khác nhau, cơ chế Bảo hiến chưa
được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 và cần
thời gian nghiên cứu thêm cho phù hợp với
thực tế xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu cơ chế Bảo
hiến được nghiên cứu và ghi nhận, những
hạn chế này có thể được khắc phục. Tuy
nhiên, trong khi cơ chế Bảo hiến chưa được
nghiên cứu và hoàn thiện, các nhà khoa học,
các nhà hoạch định chính sách cũng có thể
chọn một giải pháp phù hợp với tình hình
hiện nay, đó là có thể tăng thẩm quyền của
cơ quan tư pháp trong việc xét xử các văn
bản lập quy của cơ quan hành pháp./.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gợi mở về cơ chế giám sát quyền hành pháp bằng quyền tư pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 52 (02/2019) 6-11
GỢI MỞ VỀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT QUYỀN HÀNH PHÁP
BẰNG QUYỀN TƯ PHÁP
Phạm Hồng Phong*2
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 6/8/2018
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/2/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 25/2/2019
Tóm tắt: Hành pháp và Tư pháp là hai nhánh quyền cơ bản trong cơ cấu quyền lực Nhà
nước. Ở Việt Nam, quyền hành pháp do các cơ quan hành chính nhà nước thực thi nhằm thực
hiện chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật mà chính phủ là cơ quan
đứng đầu. Hiện nay, nước ta mới chỉ có các văn bản quy định về việc thực thi quyền giám sát
của Quốc hội đối với Chính phủ với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất thực thi quyền giám
sát tối cao đối với bộ máy nhà nước. Điều đó gây ra nhiều bất cập trong thực tế. Do đó, việc
kiểm soát quyền hành pháp cần có cơ chế hiệu quả hơn, trong đó có giám sát bằng quyền tư
pháp.
Từ khóa: hành pháp, tư pháp, cơ chế giám sát hành pháp.
Hành pháp và Tư pháp là hai quyền
cơ bản trong cơ cấu quyền lực Nhà nước.
Quyền hành pháp do các cơ quan hành
chính nhà nước thực thi nhằm thực hiện
chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã
hội bằng pháp luật. Chính phủ là cơ quan
đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp được
giao giữ quyền hành pháp và là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất. Quyền hành
pháp bao gồm hai nội dung cơ bản đó là
quyền lập quy và quyền hành chính. Thực
hiện quyền lập quy, Chính phủ ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật dưới luật nhằm
cụ thể hóa các đạo luật của cơ quan lập pháp
và triển khai thực hiện trong đời sống xã
hội. Thực hiện quyền hành chính, Chính
* Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
phủ thống nhất quản lý mọi mặt của đời
sống xã hội.
Quyền hành pháp có một vị thế đặc
biệt quan trọng trong đời sống xã hội nói
chung và trong cơ cấu quyền lực của bộ máy
Nhà nước nói riêng. Có thể nói, quyền hành
pháp là bộ mặt của chính thể, là thước đo
phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước và
công dân, và là hình ảnh quốc gia trên
trường quốc tế. Sở dĩ quyền hành pháp có vị
thế cao như vậy bởi nó mang trong mình sứ
mệnh, chức năng, nhiệm vụ có tính chất đặc
biệt quan trọng mà không cơ quan nào có
thể có được.
Hành pháp là cơ quan thực thi chính
sách, pháp luật thống nhất trên phạm vi
quốc gia. Mọi chính sách, đạo luật do cơ
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 7
quan lập pháp ban hành đều thông qua sự
triển khai thực hiện của cơ quan hành pháp
để phát huy hiệu lực, hiệu quả trong đời
sống xã hội. Bên cạnh đó, bằng việc thực
hiện quyền lập quy của mình, cơ quan hành
pháp có thể tác động nhằm thúc đẩy hoặc
làm hạn chế khả năng phát huy tác dụng của
một đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành.
Chính sách, pháp luật do cơ quan lập pháp
ban hành dù có tốt mà cơ quan hành pháp
thực thi không tốt cũng không mang lại hiệu
quả tích cực trong đời sống xã hội. Không
những vậy, thực tế quản lý nhà nước cho
thấy, cơ quan hành pháp còn có khả năng
lập và trình các dự án Luật.
Trong hệ thống cơ quan quyền lực
nhà nước, cơ quan hành pháp sử dụng quyền
lực nhà nước tác động một cách trực tiếp
đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tác
động đến mọi đối tượng bị quản lý một cách
thường xuyên, liên tục và bằng pháp luật.
Điều này cho thấy ưu thế vượt trội của
quyền hành pháp so với các cơ quan quyền
lực nhà nước khác, theo đó, quyền lập pháp
có tác động gián tiếp đến đời sống xã hội,
các cá nhân, tổ chức trong đời sống xã hội,
quyền tư pháp đóng vai trò như trung gian
thực hiện chức năng phân xử.
Trong quá trình thực hiện chức năng
quản lý nhà nước, cơ quan hành pháp thiết
lập mối quan hệ hành chính với các đối
tượng quản lý là các cá nhân, tổ chức trong
xã hội. Tính chất đặc thù của mối quan hệ
hành chính đó là mệnh lệnh - phục tùng.
Theo đó, cơ quan hành chính thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước bằng các mệnh lệnh
hành chính và đối tượng bị quản lý bắt buộc
phải phục tùng dù muốn hay không và cho
dù mệnh lệnh đó có thể trái pháp luật.
Cũng trong quá trình thực hiện quyền
hành pháp của mình, chỉ có cơ quan hành
pháp mới được sử dụng sức mạnh cưỡng
chế của quyền lực Nhà nước. Các cơ quan
khác không có được quyền này. Bên cạnh
đó, hành pháp cũng nắm trong tay mình
toàn bộ lực lượng cưỡng chế mạnh nhất của
quốc gia, điều này góp phần làm cho hành
pháp chiếm lợi thế không chỉ trong phạm vi
thực thi quyền lực của mình với người dân
mà còn có lợi thế trong mối tương quan
quyền lực với các cơ quan khác. Cơ quan
hành pháp cũng nắm trong tay mọi nguồn
lực xã hội, điều phối các nguồn lực đó trong
quá trình thực thi quyền hành pháp.
Với những ưu thế đó, quyền hành
pháp có xu hướng “bành trướng” quyền lực
trong tương quan với các cơ quan quyền lực
khác trong bộ máy Nhà nước. Tuy nhiên,
những ưu thế đó cũng có thể dẫn đến sự lạm
quyền của cơ quan hành pháp trong quá
trình thực thi quyền lực của mình, xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
cá nhân, tổ chức trong xã hội. Do đó, kiểm
soát quyền hành pháp, chống lạm quyền,
duy trì thế cân bằng giữa quyền hành pháp,
lập pháp, tư pháp trong cơ chế kiểm soát
quyền lực là một nhu cầu khách quan và hết
sức cần thiết của mọi thể chế. Trong quá
trình nghiên cứu hoàn thiện thể chế nhà
nước hướng tới xây dựng một Nhà nước dân
chủ, bảo vệ người dân, chống lại sự lạm
quyền, các học giả đã cho ra đời học thuyết
tam quyền phân lập với nội dung cốt lõi là
cơ chế kiềm chế và đối trọng lẫn nhau giữa
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
trong bộ máy nhà nước. Đây cũng là tiêu chí
quan trọng nhất của học thuyết về Nhà nước
pháp quyền tư sản.
Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, những năm gần đây các nhà
chính trị, các học giả đã quan tâm nghiên
cứu nhằm hoàn thiện cơ chế kiểm soát
8 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
quyền lực, đặc biệt tập trung vào việc kiểm
soát quyền hành pháp. Có rất nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về cơ chế giám
sát đối với hoạt động của chính phủ với tư
cách là cơ quan thực thi quyền hành pháp.
Tuy nhiên, các công trình đó mới tập trung
nghiên cứu các cơ chế giám sát của cơ quan
lập pháp với tư cách là cơ quan quyền lực
cao nhất thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với bộ máy nhà nước nói chung và cơ
quan hành pháp nói riêng. Ngoài ra cũng có
những công trình nghiên cứu về cơ chế giám
sát của các cơ quan, tổ chức đoàn thể trong
hệ thống chính trị với cơ quan hành pháp;
nghiên cứu về vai trò và cơ chế giám sát của
người dân với tư cách là chủ thể của quyền
lực đối với cơ quan hành pháp.
Ở góc độ Cương lĩnh chính trị, lần đầu
tiên, trong văn kiện quan trọng nhất của
Đảng, vấn đề kiểm soát quyền lực chính
thức được Đảng đặt ra để nghiên cứu áp
dụng.
Ở góc độ Luật học, mới chỉ có các văn
bản quy định về việc thực thi quyền giám
sát của Quốc hội đối với Chính phủ với tư
cách là cơ quan quyền lực cao nhất thực thi
quyền giám sát tối cao đối với cơ quan hành
pháp. Cụ thể, Hiến pháp, Luật Tổ chức
Quốc hội năm 2001 và Luật Hoạt động giám
sát của Quốc hội năm 2003 quy định việc
thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội
đối với Chính phủ như sau:
- Xem xét báo cáo công tác Chính phủ;
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội;
- Xem xét việc trả lời chất vấn của Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ;
- Thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra
một vấn đề nhất định và xem xét báo
cáo kết quả điều tra của Uỷ ban.
Căn cứ vào kết quả giám sát, Quốc
hội có các quyền sau đây:
Thứ nhất, yêu cầu Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ ban hành văn bản hướng
dẫn thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội;
Thứ hai, bãi bỏ một phần hoặc toàn
bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ trái Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội;
Thứ ba, ban hành nghị quyết về việc
trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị
chất vấn khi xét thấy cần thiết;
Thứ tư, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ
tướng Chính phủ, phê chuẩn việc miễn
nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ.
Thực hiện các quy định của Hiến
pháp và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001
và Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội
năm 2003, trong thời gian gần đây hoạt
động giám sát của Quốc hội đối với Chính
phủ đã được tăng cường. Hoạt động chất
vấn Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ đã đi vào nề
nếp và được các cử tri quan tâm. Phương
thức chất vấn tại các phiên họp của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội ngày càng được sử
dụng phổ biến. Uỷ ban thường vụ Quốc hội
và các Uỷ ban của Quốc hội đã tiến hành
giám sát theo chương trình giám sát ngày
một thường xuyên hơn.
Tuy nhiên, có thể thấy hoạt động
giám sát của Quốc hội dù đã được tăng
cường nhưng hiệu quả còn thấp: Chưa sử
dụng phương thức Ủy ban lâm thời;
ít/không ban hành nghị quyết về trả lời chất
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 9
vấn; không quy được trách nhiệm của nhà
chức trách; không bãi nhiễm được những
người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm
pháp luật.
Vấn đề đặt ra hiện nay trong kiểm soát
quyền hành pháp là: Quy định Chính phủ
chịu trách nhiệm trước Quốc hội và chịu sự
giám sát của Quốc hội, nhưng nếu Chính
phủ vi phạm Hiến pháp, vi phạm luật như
ban hành nghị định trái Hiến pháp, trái luật
hoặc có các hành vi vi phạm Hiến pháp thì
chế độ chịu trách nhiệm như thế nào, cả
Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể hay Thủ
tướng Chính phủ với tư cách là người đứng
đầu Chính phủ phải chịu trách nhiệm. Nếu
là trách nhiệm tập thể như hiện nay thì chỉ
là hình thức, thực chất không chịu trách
nhiệm gì.
Riêng việc nghiên cứu cơ chế giám
sát, kiểm soát quyền hành pháp trong mối
tương quan với quyền tư pháp chưa được
quan tâm nghiên cứu. Bản văn Hiến pháp
2013 nói riêng và các bản văn Hiến pháp
khác nói chung, việc thiết kế mối quan hệ
giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp hết
sức mờ nhạt. Đây có thể coi là một khoảng
trống về mặt lý luận và thực tế rất cần được
các học giả, các chính trị gia quan tâm
nghiên cứu bổ khuyết kịp thời.
Xét về chức năng và thẩm quyền,
quyền tư pháp có chức năng xét xử. Thực
hiện chức năng này, cơ quan tư pháp xét xử
các hành vi vi hiến, các hành vi vi phạm
pháp luật của các cá nhân, tổ chức; phân
định các tranh chấp về thẩm quyền giữa các
cơ quan thuộc hệ thống các cơ quan quyền
lực.
Ở góc độ thể chế, quyền tư pháp là
một quyền trong cơ cấu quyền lực Nhà
nước, là một thiết chế quan trọng trong cơ
chế kiềm chế và kiểm soát lẫn nhau giữa các
cơ quan trong hệ thống quyền lực Nhà nước.
Ở góc độ này, quyền tư pháp mặc nhiên có
chức năng giám sát nhằm kiềm chế quyền
hành pháp, duy trì thế cân bằng giữa quyền
hành pháp, lập pháp trong quá trình vận
hành quyền lực Nhà nước.
Ở Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp
trong mối tương quan với quyền hành pháp
mới chỉ dừng lại ở mức độ thực hiện chức
năng xét xử một số đối tượng cụ thể trong
hệ thống của cơ quan hành pháp. Cụ thể, xét
xử các vụ án hành chính bao gồm việc xét
xử văn bản hành chính cá biệt, xét xử các
hành vi hành chính của cơ quan hành pháp.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xét xử
đó, cơ quan tư pháp có quyền đưa ra các
khuyến nghị nhằm khắc phục những hạn
chế trong công tác quản lý của cơ quan hành
pháp. Xét xử một số hành vi vi hiến của các
cá nhân đã được cụ thể hóa trong Luật hình
sự. Như vậy, việc xét xử các hành vi vi hiến
của cơ quan hành pháp, của các cá nhân
trong cơ quan hành pháp không thuộc phạm
vi điều chỉnh của Luật hình sự hiện đang bị
bỏ ngỏ.
Tương tự như vậy, hoạt động xét xử
các văn bản lập quy của cơ quan hành pháp
có dấu hiệu trái luật, có dấu hiệu vi hiến
cũng chưa được xét xử bởi bất kỳ cơ quan
nào. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, việc
giám sát các văn bản pháp quy được thực
hiện bởi Quốc hội - cơ quan quyền lực tối
cao ở Việt Nam. Việc giao cho Quốc hội
thực thi quyền này là không hiệu quả bởi, ở
Việt Nam các đại biểu không hoạt động
chuyên trách, thường xuyên trong khi đó,
các văn bản pháp quy do cơ quan hành pháp
lại ban hành hàng ngày cho kịp phục vụ nhu
cầu quản lý các mặt của đời sống xã hội.
Cao hơn nữa, việc phân định các tranh
chấp về thẩm quyền có tính chất hiến định
10 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan
thuộc bộ máy nhà nước cũng chưa được
thực hiện bằng quyền tư pháp. Việc phân
định tranh chấp thẩm quyền ở đây không chỉ
hiểu là việc cơ quan có thẩm quyền tư pháp
thực hiện việc phân định tranh chấp theo
trình tự thủ tục tố tụng nhất định mà còn có
ý nghĩa đặc biệt quan trong trong việc thiết
kế, bố trí hệ thống các cơ quan chuyên môn.
Nếu việc này được thực hiện và kiểm soát
tốt sẽ làm cho bộ máy hành pháp nói riêng
và bộ máy Nhà nước nói chung được thiết
kế đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp nhưng
đặc biệt nhất là tránh được tình trạng chồng
chéo về mặt thẩm quyền. Điều này, thời
gian qua, ở Việt Nam không được quan tâm
nghiên cứu cả góc độ lý luận, lẫn thực tiễn
cả trên phương diện Luật học lẫn trên
phương diện khoa học hành chính trong tổ
chức bộ máy nhà nước. Đây chính là
nguyên nhân của thực trạng nhiều văn bản
quản lý Nhà nước chồng chéo, mâu thuẫn
với nhau trong thời gian vừa qua. Đây cũng
là nguyên nhân của việc mâu thuẫn, chồng
chéo về mặt thẩm quyền của các cơ quan
trong bộ máy Nhà nước dẫn đến việc tùy
tiện trong việc xây dựng bộ máy, bố trí nhân
sự. Có thể nói việc giám sát quyền hành
pháp chưa mang lại hiệu quả cao như mong
đợi của các nhà hoạch định chính sách và
của Đảng.
Ngoài việc, lấy hạt nhân là học thuyết phân
quyền bằng cơ chế kiểm soát, đối trọng,
trong quá trình tìm kiếm một mô hình Nhà
nước ưu việt, các học giả còn xác lập cơ chế
Bảo hiến như là một thành tố quan trọng của
Nhà nước pháp quyền. Theo đó, dù là dùng
cơ chế nào đi chăng nữa thì việc phải có một
cơ quan tài phán Hiến pháp là một điều bắt
buộc. Cơ quan đó, dù có được thiết kế trong
hệ thống cơ quan tư pháp với tư cách là Tòa
án Hiến pháp hay được thiết kế trong hệ
thống cơ quan lập pháp với tư cách là Hội
đồng Bảo Hiến thì cũng là cơ quan nhằm
cùng với cơ quan tư pháp hoàn thiện việc
xét xử các hành vi vi hiến, giải quyết các
tranh chấp khác về thẩm quyền hiến định
trong bộ máy Nhà nước. Ở Việt Nam, trong
quá trình xây dựng Hiến pháp 2013, cơ chế
Bảo Hiến đã được nghiên cứu hướng tới
việc quy định trong Hiến pháp, tuy nhiên vì
nhiều lý do khác nhau, cơ chế Bảo hiến chưa
được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 và cần
thời gian nghiên cứu thêm cho phù hợp với
thực tế xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu cơ chế Bảo
hiến được nghiên cứu và ghi nhận, những
hạn chế này có thể được khắc phục. Tuy
nhiên, trong khi cơ chế Bảo hiến chưa được
nghiên cứu và hoàn thiện, các nhà khoa học,
các nhà hoạch định chính sách cũng có thể
chọn một giải pháp phù hợp với tình hình
hiện nay, đó là có thể tăng thẩm quyền của
cơ quan tư pháp trong việc xét xử các văn
bản lập quy của cơ quan hành pháp./.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011)
3. Trần Anh Tuấn: “Một số ý kiến về
hoàn thiện chế định Chính phủ trong sửa đổi
Hiến pháp 1992”, Kỷ yếu Hội thảo về chế định
Chính phủ và chính quyền địa phương trong
Hiến pháp, Hà Nội, ngày 8-3-2013
4. Hiến pháp - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 11
5. Xã hội dân sự ở châu Âu, Nxb. Pháp lý
phổ thông, Hà Nội, 1998.
Địa chỉ tác giả: Tòa án nhân dân cấp cao
TPHCM, ĐT: 0912715838
Email: phamphongtahg@gmai.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- goi_mo_ve_co_che_giam_sat_quyen_hanh_phap_bang_quyen_tu_phap.pdf