Kỹ thuật lập pháp
Để bảo đảm yêu cầu về kỹ thuật lập
pháp, nên đưa khoản 1 Điều 47 (Giấy phép
quy hoạch xây dựng) của Luật hiện hành và
khoản 1 Điều 130 (Xây dựng công trình
khẩn cấp) của Dự thảo Luật lên Điều 3 (Giải
thích từ ngữ); làm rõ thế nào là “công trình
có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp; công trình
có ảnh hưởng lớn đến an toàn cộng đồng và
môi trường; khu vực cấm xây dựng; dự án
đầu tư xây dựng có công năng phục vụ hỗn
hợp khác; các nội dung khác theo yêu cầu
của người quyết định đầu tư; công trình xây
dựng sử dụng vốn khác có quy mô lớn hoặc
có ảnh hưởng lớn đến an toàn, lợi ích cộng
đồng; các cơ chế đặc thù khác; để sử dụng
cho việc tổ chức các sự kiện hoặc hoạt động
khác trong thời gian ngắn.” để hiểu và áp
dụng thống nhất, tránh sai lầm, tùy tiện, lợi
dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền
khi áp dụng những quy định này. Rà soát, bổ
sung hành vi bị cấm, nhất là đối với cơ quan,
tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp là pháp nhân
thương mại như hành vi vi phạm quy định
về bảo vệ an toàn công trình phòng, chống
thiên tai. để bảo đảm tính thống nhất của
hệ thống pháp luật, nhất là với quy định của
Bộ luật Hình sự và Luật Phòng, chống thiên
tai. Thống nhất một số thuật ngữ như: “quy
định pháp luật có liên quan; quy định của
pháp luật có liên quan; quy định của pháp
luật khác có liên quan”; “công trình khẩn
cấp; công trình xây dựng khẩn cấp; công
trình xây dựng theo lệnh khẩn cấp”.
Bên cạnh đó, mặc dù đây là Dự thảo sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng
nhưng đã có đến 09 điều khoản giao cho
Chính phủ quy định chi tiết. Do đó, chúng
tôi đề nghị cần cân nhắc, quy định cụ thể hơn
ngay trong Dự thảo Luật những điều khoản
này của Luật Xây dựng
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp ý dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật xây dựng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 6(406) - T3/202026 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
1 Chính phủ (2019), Tờ trình số 366/TTr-CP ngày 28/8/2019 của Chính phủ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Xây dựng.
Về cơ bản, chúng tôi tán thành với nhiều quy định của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Xây dựng (sau đây gọi là Dự thảo Luật). Ngoài ra, chúng tôi có một số
ý kiến cụ thể như sau:
1. Tên gọi, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Xây dựng
Về cơ bản, tên gọi, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Xây dựng là hợp lý. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, Dự thảo Luật
gÓp Ý dự Thảo luậT sỬa đỔi, bỔ sung
MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT XÂY DỰNG
Nguyễn Mạnh Cường*
Đỗ Đức Hồng Hà**
* ThS. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.
** TS. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.
Tóm tắt:
Luật Xây dựng năm 2014 được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho các hoạt động đầu tư xây dựng phù hợp với thực tiễn của đất
nước. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật Xây
dựng năm 2014 đã xuất hiện một số vướng mắc, hạn chế, bất cập;
đồng thời xuất hiện yêu cầu mới đòi hỏi cấp thiết phải sửa đổi,
bổ sung Luật này1. Bài viết góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Xây dựng.
Abstract:
The Law on Construction of 2014 was issued to create a legal
ground for construction activities appropriate with the practical
context of the country. However, in the process of enforcement
of the Law on Construction of 2014, there are several shortcoming
and inadequacies recognized; at the same time, it is required to
urgently to amend the law for new contexts of developments. This
article provides comments on the draft law on amendment of a
number of articles of the Law on Contstruction.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Xây dựng; Xây dựng;
Quy hoạch.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 19/02/2020
Biên tập : 27/02/2020
Duyệt bài : 07/03/2020
Article Infomation:
Keywords: The Law on Construction;
Construction; Master Plan
Article History:
Received : 19 Feb. 2020
Edited : 27 Feb. 2020
Approved : 07 Mar. 2020
27Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
cần được mở rộng phạm vi sửa đổi. Hiện
nay, các văn bản pháp luật về xây dựng tuy
đã quy định khá đầy đủ về quy hoạch xây
dựng, cấp phép xây dựng, nhưng tình hình
xây dựng không phép, xây dựng sai phép,
trái phép vẫn diễn ra tương đối phổ biến; ở
các thành phố lớn, dự án chung cư cao tầng
vẫn tiếp tục được xây dựng tạo thêm áp lực
về gia tăng dân số, quá tải về hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội trong khu vực nội
thành; công tác di dời và quản lý quỹ đất sau
khi di dời đối với một số cơ quan, tổ chức
chưa được thực hiện nghiêm, tiến độ di dời
thực hiện rất chậm; quỹ đất sau khi di dời
chưa được bàn giao lại cho thành phố để ưu
tiên xây dựng, phát triển các công trình công
cộng. Vì vậy, để bảo đảm trật tự, kỷ cương
trong xây dựng, cần quy định rõ hơn trách
nhiệm của các chủ thể trong việc lập, thẩm
định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố,
thực hiện, đánh giá, điều chỉnh, tổ chức thực
hiện quy hoạch xây dựng.
2. Ban quản lý dự án (Khoản 3 Điều 1 Dự
thảo Luật)
Khoản 3 Điều 1 Dự thảo Luật quy định:
“Căn cứ điều kiện cụ thể của dự án sử dụng
vốn ngân sách nhà nước, người quyết định
đầu tư dự án giao cho Ban quản lý dự án
đầu tư xây dựng chuyên ngành, Ban quản lý
dự án đầu tư xây dựng khu vực làm chủ đầu
tư; trường hợp không có Ban quản lý dự án
thì người quyết định đầu tư lựa chọn cơ
quan, tổ chức có đủ điều kiện để làm chủ đầu
tư”. Quy định này có thể dẫn đến tình trạng
tùy tiện, tiêu cực trong việc lựa chọn chủ đầu
tư dự án. Vì vậy, Dự thảo Luật cần quy định
lại theo hướng, đối với các dự án sử dụng
vốn đầu tư công, người quyết định đầu tư dự
án sẽ giao cho Ban quản lý dự án đầu tư xây
dựng chuyên ngành, Ban quản lý dự án đầu
tư xây dựng khu vực làm chủ đầu tư. Nếu
các Ban này không đáp ứng được các điều
kiện chuyên môn cụ thể hoặc trong trường
hợp không có Ban quản lý dự án thì người
quyết định đầu tư sẽ lựa chọn cơ quan, tổ
chức có đủ điều kiện để làm chủ đầu tư.
3. Thời gian lập quy hoạch (Khoản 15
Điều 1 Dự thảo Luật)
Khoản 15 Điều 1 Dự thảo Luật sửa đổi,
bổ sung Điều 59 Luật Xây dựng hiện hành
theo hướng giảm đáng kể thời gian thẩm
định dự án đầu tư xây dựng, cụ thể là:
“a) Đối với dự án nhóm A, thời gian
thẩm định dự án không quá 30 ngày làm việc
(giảm 10 ngày so với Luật Xây dựng hiện
hành);
b) Đối với dự án nhóm B, thời gian thẩm
định dự án không quá 20 ngày làm việc
(giảm 10 ngày so với Luật Xây dựng hiện
hành);
c) Đối với dự án nhóm C thời gian thẩm
định dự án không quá 15 ngày làm việc
(giảm 05 ngày so với Luật Xây dựng hiện
hành).”
Chúng tôi cho rằng, việc giảm đáng kể
thời gian thẩm định dự án đầu tư xây dựng
là tích cực, góp phần đẩy nhanh tiến độ triển
khai dự án, góp phần khắc phục tình trạng
giải ngân chậm như đã xảy ra trong thời gian
qua. Tuy nhiên, thực tế triển khai dự án đầu
tư xây dựng (gồm cả trình tự lập đồ án quy
hoạch xây dựng) cho thấy, việc tổ chức lấy
ý kiến các tổ chức cá nhân, cộng đồng dân
cư thường kéo dài hơn so với thời gian quy
định do các nguyên nhân như: đồ án nằm
trên nhiều quận, huyện, phường, xã; sự phối
hợp chưa tốt của chính quyền một số địa
phương trong công tác tổ chức lấy ý kiến;
thời gian tổng hợp, báo cáo tiếp thu giải trình
sau khi lấy ý kiến... Cộng thêm rất nhiều các
công việc cần phải thực hiện trong quá trình
thu thập tài liệu, nghiên cứu, lập phương án,
báo cáo thông qua các cấp, hoàn chỉnh qua
từng bước. Do đó, phần lớn các dự án đâù tư
xây dựng không đảm bảo thời gian quy định
của Luật nêu trên. Vì vậy, để bảo đảm tính
Số 6(406) - T3/202028 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
khả thi của Luật, đề nghị cân nhắc sửa đổi,
bổ sung theo hướng giảm đáng kể thời gian
thẩm định dự án đầu tư xây dựng như trong
Dự thảo Luật. Bên cạnh đó, cần làm rõ thêm
cơ sở và giải pháp của việc giảm đáng kể
thời gian thẩm định dự án đầu tư xây dựng
và đánh giá thêm tác động của sửa đổi này
để bảo đảm tính khả thi của Luật. Đồng thời,
cân nhắc điều chỉnh thời gian lập đồ án quy
hoạch xây dựng để bảo đảm tính thống nhất
và tính khả thi của các quy định này.
4. Quyền, trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức thẩm định, thẩm tra dự án đầu tư
xây dựng (Khoản 19 Điều 1 Dự thảo Luật)
Điều 71 Luật Xây dựng hiện hành quy
định rõ, riêng biệt về quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể thẩm định dự án đầu tư xây dựng
tại các khoản khác nhau. Tuy nhiên, khoản
19 Điều 1 Dự thảo Luật sửa đổi Điều 71 lại
quy định chung, không phân tách quyền và
trách nhiệm của chủ thể. Chúng tôi cho rằng,
chế độ pháp lý trong việc thực hiện giữa
quyền và trách nhiệm là khác nhau, theo đó
quyền là những việc mà chủ thể được phép
làm, còn trách nhiệm là những việc mà chủ
thể bắt buộc phải thực hiện. Việc quy định
gộp chung giữa quyền và trách nhiệm như
trong Dự thảo Luật là một bước lùi, không
bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch trong thực
hiện pháp luật. Vì vậy, đề nghị tách riêng về
quyền và về trách nhiệm như Điều 71 của
Luật Xây dựng hiện hành. Bên cạnh đó, mặc
dù Dự thảo Luật đã bỏ quyền thu phí thẩm
định dự án của chủ thể thẩm định nhưng vẫn
quy định “Chi phí thẩm tra, phí thẩm định
dự án, thiết kế được tính trong tổng mức đầu
tư của dự án” (điểm đ khoản 3 Điều 56 của
Dự thảo Luật). Do đó, chúng tôi kiến nghị
cần làm rõ các chủ thể thẩm định, thẩm tra
có được quyền thu phí, chi phí không; lý do
của việc phân biệt giữa phí và chi phí trong
thẩm tra, thẩm định; tính phù hợp của các
quy định này với Luật Phí và lệ phí và Danh
mục phí được ban hành kèm theo Luật.
5. Trình tự thực hiện và trách nhiệm
phá dỡ công trình (Khoản 39 Điều 1 Dự
thảo Luật)
Khoản 39 Điều 1 Dự thảo Luật quy định
“quyết định phá dỡ hoặc quyết định cưỡng
chế phá dỡ công trình xây dựng được gọi
chung là Quyết định phá dỡ”; đồng thời,
điểm c và d khoản 3 Điều 118 Dự thảo Luật
quy định: “c) Người có thẩm quyền quyết
định phá dỡ công trình chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hậu quả do không ban
hành quyết định, quyết định không kịp thời
hoặc quyết định trái với quy định của pháp
luật; d) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách
nhiệm theo dõi, đôn đốc việc phá dỡ công
trình xây dựng trên địa bàn”. Từ thực tiễn
tháo dỡ một số công trình xây dựng thời gian
qua (công trình nhà 8B Lê Trực; Công viên
nước Thanh Hà, Hà Nội), chúng tôi thấy, nếu
giao hết trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc
phá dỡ công trình cho Ủy ban nhân dân cấp
xã trong nhiều trường hợp sẽ không khả thi,
nhất là đối với các công trình lớn hoặc có vị
trí nằm ở địa bàn nhiều xã và cũng không
phù hợp với quy định tại Điều 73 Luật Xử
lý vi phạm hành chính là “người có thẩm
quyền xử phạt đã ra quyết định xử phạt có
trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc chấp
hành quyết định xử phạt” (trong đó có quyết
định buộc tháo dỡ công trình). Do đó, đề
nghị cân nhắc về tính khả thi và tính đồng
bộ, thống nhất của quy định này với hệ thống
pháp luật.
6. Trách nhiệm lập, thẩm quyền phê
duyệt nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây
dựng (Khoản 54 Điều 1 Dự thảo Luật)
Khoản 54 Điều 1 Dự thảo Luật sửa đổi,
bổ sung điểm a khoản 1 Điều 164 như sau:
29Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
“a) Thực hiện quản lý nhà nước về hoạt
động đầu tư xây dựng, trật tự xây dựng trên
địa bàn theo phân cấp của Chính phủ; ban
hành văn bản theo thẩm quyền; chỉ đạo tổ
chức thực hiện các quy hoạch xây dựng, kế
hoạch đầu tư xây dựng; được phân cấp, ủy
quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ban
quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế tổ chức
lập, thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ, đồ án
quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết xây
dựng khu chức năng; tổ chức hướng dẫn,
kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật
trong hoạt động đầu tư xây dựng“.
Theo chúng tôi, quy định này là chưa
bảo đảm tính khả thi. Thực tế cho thấy,
năng lực của Ủy ban nhân dân cấp huyện
không đồng đều, nhiều trường hợp không
đủ năng lực để thẩm định, phê duyệt quy
hoạch, nhất là trường hợp quy hoạch chi tiết
khu chức năng có tính chất quan trọng nếu
quy định “... phân cấp, ủy quyền cho Ủy
ban nhân dân cấp huyện, ... tổ chức lập,
thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ, đồ án quy
hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết xây
dựng khu chức năng” dẫn đến rất khó đảm
bảo tiến độ và chất lượng nhiệm vụ, đồ án
quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết xây
dựng khu chức năng2. Vì vậy, chúng tôi đề
nghị cân nhắc quy định tại khoản 54 Điều
1 Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung điểm a
khoản 1 Điều 164 theo hướng không “...
phân cấp, ủy quyền cho Ủy ban nhân dân
cấp huyện, ... tổ chức lập, thẩm định, phê
duyệt nhiệm vụ, đồ án quy hoạch phân khu,
quy hoạch chi tiết xây dựng khu chức
năng” mà nên giao “Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt
nhiệm vụ, đồ án quy hoạch phân khu, quy
hoạch chi tiết xây dựng khu chức năng”.
7. Nội dung điều chỉnh cục bộ quy
hoạch nông thôn
Luật Xây dựng hiện hành (và cả Dự
thảo Luật) đều không quy định điều chỉnh
cục bộ quy hoạch đối với các loại Quy
hoạch xây dựng vùng huyện, Quy hoạch
chung xây dựng xã, Quy hoạch chi tiết xây
dựng điểm dân cư nông thôn (Luật Xây
dựng hiện hành chỉ quy định điều chỉnh cục
bộ quy hoạch xây dựng khu chức năng tại
khoản 2 Điều 37 và Dự thảo Luật này cũng
không sửa đổi, bổ sung quy định này). Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện, một số vị
trí nằm trong khu vực đã được phê duyệt
quy hoạch xây dựng vùng huyện, đủ điều
kiện để xem xét việc điều chỉnh và cần thiết
phải được điều chỉnh cục bộ quy hoạch
chung nêu trên, đáp ứng nhu cầu thực hiện
các dự án đầu tư xây dựng, phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương.
Vì Luật Xây dựng hiện hành và cả các
Nghị định hướng dẫn có liên quan cũng
không quy định và hướng dẫn điều chỉnh cục
bộ quy hoạch đối với các loại Quy hoạch xây
dựng vùng huyện, Quy hoạch chung xây
dựng xã, Quy hoạch chi tiết xây dựng điểm
dân cư nông thôn dẫn đến lúng túng trong
việc thực hiện. Để khắc phục bất cập này,
chúng tôi đề nghị cân nhắc bổ sung vào Luật
Xây dựng quy định điều chỉnh cục bộ quy
hoạch đối với các loại Quy hoạch xây dựng
vùng huyện, Quy hoạch chung xây dựng xã,
Quy hoạch chi tiết xây dựng điểm dân cư
nông thôn.
2 Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo số 708 ngày 22/01/2020 của Đoàn đại biểu
Quốc hội Thành phố Hà Nội về kết quả giám sát việc thực hiện Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội
đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 của Thủ tướng
Chính phủ. Giai đoạn giám sát từ năm 2011 đến năm 2019.
8. Loại hình khu chức năng
Khoản 25 Điều 3 Luật Xây dựng hiện
hành quy định “Khu chức năng bao gồm khu
kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao; khu du lịch; khu nghiên cứu,
đào tạo; khu thể dục thể thao”. Như vậy, các
khu sinh thái, cảng hàng không và một số
đầu mối hạ tầng kỹ thuật không thuộc khu
chức năng nên không có cơ sở để điều chỉnh
quy hoạch cho các khu này. Thực tế hiện
nay, riêng Thành phố Hà Nội đã và đang
triển khai nhiều đồ án Quy hoạch chi tiết
hoặc điều chỉnh quy hoạch chi tiết khu chức
năng đặc thù theo quy trình của Luật Xây
dựng (ví dụ: cảng ICD, cảng Phù Đổng,
nghĩa trang Yên Kỳ và các công trình đầu
mối hạ tầng kỹ thuật đơn chức năng như nhà
máy nước mặt, khu xử lý rác thải, trạm điện
500KV... đã được Bộ Xây dựng thống nhất
lập bản vẽ tổng mặt bằng). Để có cơ sở pháp
lý triển khai lập quy hoạch xây dựng cũng
như điều chỉnh cục bộ quy hoạch hoặc tổng
mặt bằng dự án đầu tư xây dựng các khu
sinh thái, cảng hàng không và một số đầu
mối hạ tầng kỹ thuật như đã nêu trên, đề
nghị rà soát hệ thống pháp luật để không bỏ
sót, không tạo khoảng trống của “Khu chức
năng là các khu sinh thái, cảng hàng không
và một số đầu mối hạ tầng kỹ thuật”3 trong
Luật Xây dựng.
9. Kỹ thuật lập pháp
Để bảo đảm yêu cầu về kỹ thuật lập
pháp, nên đưa khoản 1 Điều 47 (Giấy phép
quy hoạch xây dựng) của Luật hiện hành và
khoản 1 Điều 130 (Xây dựng công trình
khẩn cấp) của Dự thảo Luật lên Điều 3 (Giải
thích từ ngữ); làm rõ thế nào là “công trình
có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp; công trình
có ảnh hưởng lớn đến an toàn cộng đồng và
môi trường; khu vực cấm xây dựng; dự án
đầu tư xây dựng có công năng phục vụ hỗn
hợp khác; các nội dung khác theo yêu cầu
của người quyết định đầu tư; công trình xây
dựng sử dụng vốn khác có quy mô lớn hoặc
có ảnh hưởng lớn đến an toàn, lợi ích cộng
đồng; các cơ chế đặc thù khác; để sử dụng
cho việc tổ chức các sự kiện hoặc hoạt động
khác trong thời gian ngắn...” để hiểu và áp
dụng thống nhất, tránh sai lầm, tùy tiện, lợi
dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền
khi áp dụng những quy định này. Rà soát, bổ
sung hành vi bị cấm, nhất là đối với cơ quan,
tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp là pháp nhân
thương mại như hành vi vi phạm quy định
về bảo vệ an toàn công trình phòng, chống
thiên tai... để bảo đảm tính thống nhất của
hệ thống pháp luật, nhất là với quy định của
Bộ luật Hình sự và Luật Phòng, chống thiên
tai. Thống nhất một số thuật ngữ như: “quy
định pháp luật có liên quan; quy định của
pháp luật có liên quan; quy định của pháp
luật khác có liên quan”; “công trình khẩn
cấp; công trình xây dựng khẩn cấp; công
trình xây dựng theo lệnh khẩn cấp”...
Bên cạnh đó, mặc dù đây là Dự thảo sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng
nhưng đã có đến 09 điều khoản giao cho
Chính phủ quy định chi tiết. Do đó, chúng
tôi đề nghị cần cân nhắc, quy định cụ thể hơn
ngay trong Dự thảo Luật những điều khoản
này của Luật Xây dựng n
Số 6(406) - T3/202030 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
3 Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo số 708 ngày 22/01/2020 của Đoàn đại biểu
Quốc hội Thành phố Hà Nội về kết quả giám sát việc thực hiện Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội
đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 của Thủ tướng
Chính phủ. Giai đoạn giám sát từ năm 2011 đến năm 2019.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gop_y_du_thao_luat_sua_doi_bo_sung_mot_so_dieu_cua_luat_xay.pdf