“Điều 31. Tư vấn pháp luật
1.
2. Đối với vụ việc đơn giản, người
thực hiện TGPL phải tư vấn ngay và ghi
chép những nội dung chính trong phiếu tư
vấn pháp luật. Phiếu tư vấn pháp luật được
lập thành hai bản, một bản giao cho người
được TGPL, một bản được lưu giữ trong hồ
sơ vụ việc.
3. Đối với vụ việc phức tạp, cần có
thời gian nghiên cứu, xác minh hoặc vụ việc
thiếu những giấy tờ, tài liệu có liên quan thì
người thực hiện TGPL phải viết phiếu hẹn
hoặc yêu cầu bổ sung các giấy tờ, tài liệu
còn thiếu.
Trong thời hạn không quá mười lăm
ngày, kể từ ngày thụ lý vụ việc hoặc nhận đủ
các giấy tờ, tài liệu cần bổ sung, người thực
hiện TGPL có trách nhiệm nghiên cứu và trả
lời bằng văn bản cho người được TGPL;
trong trường hợp vụ việc cần có thời gian để
xác minh thì thời hạn này có thể kéo dài
nhưng không quá ba mươi ngày.
4. Đối với vụ việc yêu cầu tư vấn được
chuyển đến bằng thư tín, người thực hiện
TGPL có trách nhiệm trả lời bằng văn bản
trong thời hạn không quá mười lăm ngày, kể
từ ngày nhận được yêu cầu TGPL”
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp ý hoàn thiện một số nội dung của dự thảo luật trợ giúp pháp lý (Sửa đổi), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Chính sách trợ giúp pháp lý
Điều 4 Dự thảo Luật TGPL sửa đổi
(Dự thảo Luật) quy định về chính sách
TGPL nhưng chưa thể hiện đầy đủ được nội
dung chính sách TGPL của Đảng và Nhà
nước ta. Theo chúng tôi, Dự thảo Luật cần
kế thừa chính sách TGPL quy định tại Điều
6 Luật TGPL năm 2006, đồng thời bổ sung
thêm một số chính sách như chính sách xã
hội hóa hoạt động TGPL, thu hút và huy
động mọi nguồn lực xã hội tham gia thực
hiện TGPL cùng với Nhà nước; chính sách
27
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
1 Dự thảo trình Phiên họp thứ 6 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV (tháng 01/2017).
GOÁP YÁ HOAÂN THIÏÅN MÖÅT SÖË NÖÅI DUNG CUÃA
DÛÅ THAÃO LUÊÅT TRÚÅ GIUÁP PHAÁP LYÁ (SÛÃA ÀÖÍI)
Trần Huy Liệu*
* TS, LS. Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: trợ giúp pháp lý.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 09/04/2017
Biên tập: 17/04/2017
Duyệt bài: 21/04/2017
Article Infomation:
Keywords: legal aids.
Article History:
Received: 09 Apr. 2017
Edited: 17 Apr. 2017
Approved: 21 Apr. 2017
Tóm tắt:
Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) năm 2006 đang được xin ý kiến nhân dân để
sửa đổi, bổ sung, nhằm điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động TGPL, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp
luật, phù hợp với Hiến pháp và thể chế hóa chính sách xã hội hóa hoạt động
TGPL của Đảng và Nhà nước. Bài viết góp ý một số nội dung để hoàn thiện
Dự thảo Luật TGPL (sửa đổi) này1.
Abstract:
The Law on Legal Aid (2006) is under consultation from the people for
amendments in order to comprehensively govern the social relations arising
in the legal aid activitíe, ensuring the consistency and unification of the legal
system, in line with the Constitution and institutionalization of the Party and
State's socialization policy of the legal aid activities. This article provides
some ideas for improvements of the Bill of Law on Legal Aid (Amended).
ưu đãi thuế thu nhập, hỗ trợ tổ chức xã hội
tham gia TGPL. Những chính sách này mặc
dù chưa được Luật TGPL năm 2006 thể hiện
trong các điều khoản quy định về chính
sách, nhưng đã được lồng ghép trong các
chế định về tổ chức thực hiện TGPL và
người thực hiện TGPL của Luật TGPL năm
2006 và đã được áp dụng trong thực tiễn.
2. Người được trợ giúp pháp lý
- Về khoản 6 Điều 7 Dự thảo Luật:
Theo Điều 10 Luật TGPL năm 2006 và Điều
2 Nghị định số 07/NĐ-CP ngày 12/01/2007
của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật
TGPL và Nghị định số 14/NĐ-CP ngày 5/2
2013 sửa đổi Nghị định số 07/NĐ-CP thì
người được TGPL bao gồm: người nghèo;
người có công với cách mạng (trong đó liệt
sỹ là người có công với cách mạng nhưng đã
chết thì thân nhân của họ là cha đẻ, mẹ đẻ,
vợ hoặc chồng, con đẻ của liệt sỹ và người
có công nuôi dưỡng liệt sỹ được hưởng chính
sách ưu đãi của Nhà nước); người dân tộc
thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người già cô
đơn, trẻ em, người tàn tật, người nhiễm HIV,
nhiễm chất độc hóa học không nơi nương
tựa; trẻ em bị tước quyền tự do (hay còn gọi
là bị buộc tội) theo Điều 37 Công ước quốc
tế về Quyền trẻ em năm 1990 mà Việt Nam
là thành viên; trẻ em (quy định tại Điều 30
Luật Trẻ em năm 2016).
Theo Điều 4 Luật Người khuyết tật
năm 2010 thì người khuyết tật được TGPL
(thay thế cho “người tàn tật không nơi
nương tựa” quy định tại Luật TGPL năm
2006 mà không phụ thuộc vào tình trạng có
hoặc không có nơi nương tựa); Luật Phòng,
chống mua bán người năm 2011 bổ sung
thêm nạn nhân bị mua bán được TGPL và
người khuyết tật và nạn nhân bị mua bán
được hưởng TGPL từ năm 2010 - 2011 đến
nay, mà không cần thêm bất cứ điều kiện gì.
Nhưng theo quy định tại Điều 7 Dự
thảo Luật, người khuyết tật (điểm d khoản
6); cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng của liệt sỹ,
con đẻ của liệt sỹ và người có công nuôi
dưỡng liệt sỹ (điểm e khoản 6); nạn nhân bị
mua bán (điểm g khoản 6); trẻ em không
thuộc trường hợp bị buộc tội (điểm b khoản
6) lại phải có thêm điều kiện có hoàn cảnh
khó khăn về tài chính hoặc trẻ em bị buộc
tội (khoản 3) mới có quyền được TGPL. Quy
định này không phù hợp với quy luật phát
triển và chủ trương phát triển kinh tế - xã hội
gắn liền với công bằng và tiến bộ xã hội.
Chúng tôi cho rằng, Dự thảo Luật cần kế
thừa quy định về các đối tượng đã và đang
được hưởng TGPL từ năm 1998 đến nay. Cụ
thể, Điều 7 Dự thảo Luật nên được thiết kế
như sau:
“Điều 7. Người được trợ giúp pháp lý
1. Người thuộc hộ nghèo theo quy
định của pháp luật (Theo Quyết định số
59/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 và chuẩn
nghèo đa chiều giai đoạn 2016 - 2020 của
Thủ tướng Chính phủ);
2. Người có công với cách mạng theo
pháp luật về ưu đãi người có công với cách
mạng (Theo Điều 2 Pháp lệnh Ưu đãi người
có công với cách mạng);
3. Trẻ em theo pháp luật về trẻ em
(Điều 30 Luật Trẻ em 2016);
3. Người khuyết tật theo Luật Người
khuyết tật (Điều 4 Luật Người khuyết tật
năm 2010);
4. Nạn nhân bị mua bán theo Luật
Phòng, chống mua bán người (Điều 32 Luật
Phòng, chống mua bán người 2011);
5. Người dân tộc thiểu số thường trú
tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn (Điều 10 Luật TGPL năm
2006);
28
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
6. Người cao tuổi, người nhiễm HIV
không nơi nương tựa2 (Điều 10 Luật TGPL
2006 và Nghị định số 07/NĐ-CP ngày
12/01/2007 hướng dẫn thi hành Luật
TGPL);
7. Người được TGPL theo các điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam là thành viên” (một số Công ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên có quy định về
một số đối tượng yếu thế được TGPL như
Công ước quốc tế về Quyền trẻ em).
Ngoài ra, cần căn cứ vào điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước để
cân nhắc việc mở rộng thêm các đối tượng
được TGPL như: người bị buộc tội thuộc hộ
cận nghèo (khoản 5 Điều 7); người bị buộc
tội dưới 18 tuổi (bổ sung thêm người chưa
thành niên từ 16 đến 18 tuổi) (khoản 3 Điều
7); người từ đủ 16 đến 18 tuổi là người bị
hại trong vụ án hình sự (điểm c khoản 6
Điều 7); nạn nhân bị bạo lực gia đình (điểm
h khoản 6 Điều 7).
3. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
(Chương III)
Thứ nhất, theo quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 10 Dự thảo Luật, tổ chức hành
nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật muốn
trở thành tổ chức thực hiện TGPL thì phải
có đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều
13 và được “cơ quan quản lý nhà nước
(QLNN) có thẩm quyền về TGPL” ở trung
ương và địa phương lựa chọn và ký hợp
đồng thực hiện TGPL.
Luật TGPL năm 2006 đã tạo môi
trường pháp lý thuận lợi cho các tổ chức xã
hội tham gia TGPL bằng quy định: Các tổ
chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp
luật có nguyện vọng tham gia TGPL chỉ cần
đăng ký tham gia TGPL tại Sở Tư pháp. Khi
được cấp giấy đăng ký tham gia TGPL thì
có quyền thực hiện TGPL theo pháp luật về
TGPL. Cơ quan QLNN làm nhiệm vụ
QLNN, giám sát, thanh tra, kiểm tra việc
thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật.
Trong khi đó, quy định của điểm a khoản 2
Điều 10 Dự thảo Luật chủ yếu là định tính,
mang nặng ý chí chủ quan của chủ thể đánh
giá. Điều này gây ảnh hưởng tới quyền tham
gia thực hiện TGPL của các tổ chức hành
nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật.
Thứ hai, quy định của khoản 1 Điều
13 Dự thảo Luật đặt ra các điều kiện để cơ
quan QLNN có thẩm quyền lựa chọn ký hợp
đồng thực hiện TGPL với tổ chức tham gia
TGPL, để các tổ chức hành nghề luật sư, tổ
chức tư vấn pháp luật tự nguyện đăng ký
tham gia TGPL bằng nguồn lực của mình đã
làm phức tạp thêm thủ tục hành chính khi đi
đăng ký tham gia thực hiện TGPL. Các điều
kiện này, vô hình chung trở thành các loại
giấy phép con, gây trở ngại, phiền hà cho
việc tham gia TGPL của các tổ chức hành
nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật muốn
tham gia TGPL. Điều này không phù hợp
với chương trình cải cách hành chính và đơn
giản hóa thủ thực hành chính, xây dựng
29
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
2 Theo Luật TGPL năm 2006 là Người già (người đủ 60 tuổi trở lên) cô đơn, không nơi nương tựa. Sau này Luật Người
cao tuổi quy định Người cao tuổi là người đủ 60 tuổi trở lên, nên có thể sử dụng thuật ngữ người cao tuổi (thay cho
người già) không nơi nương tựa cũng phù hợp. Về cụm từ “không nơi nương tựa” đã áp dụng nhiều năm không có
vướng mắc bởi theo cách hiểu chung là người không có người thân có trách nhiệm chăm sóc, phụng dưỡng. Vì vậy,
không nên sử dụng cụm từ “có hoàn cảnh khó khăn về tài chính” mang chất định tính, chưa xác định, chưa có tiêu
chí để hiều thống nhất thế nào là hoàn cảnh khó khăn về tài chính và ai là người có thẩm quyền xác nhận hoàn cảnh
đó... dễ gây ra tiêu cực, quan liêu, cửa quyền, gây phiền hà cho dân.
Chính phủ kiến tạo và phục vụ nhân dân,
không tạo môi trường pháp lý thuận lợi thu
hút các tổ chức xã hội tham gia thực hiện
TGPL cùng với Nhà nước, là rào cản cho
việc thực hiện xã hội hóa hoạt động TGPL.
Thứ ba, Điều 22 Dự thảo Luật liệt kê
một số chức danh tư pháp và người làm
công tác pháp luật đã nghỉ hưu có thể cộng
tác viên TGPL, không bao gồm luật sư là
không phù hợp với Luật Luật sư năm 2013.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng, Điều 22 cần bổ
sung quy định luật sư, tư vấn viên pháp luật
được làm cộng tác viên TGPL.
Thứ tư, Điều 14 Dự thảo Luật quy
định về hợp đồng thực hiện TGPL giữa cơ
quan QLNN với tổ chức tham gia TGPL.
Chúng tôi cho rằng, về bản chất, đây
là hoạt động TGPL của Nhà nước. Do Trung
tâm TGPL chưa đủ nguồn lực thực hiện
TGPL nên phải ký hợp đồng thuê tổ chức
hành nghề luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý
và trả thù lao cho họ khi thực hiện xong vụ
việc TGPL theo hợp đồng. Việc lựa chọn tổ
chức, trình tự và hình thức hợp đồng (dân
sự) cung cấp dịch vụ pháp lý đã được pháp
luật dân sự điều chỉnh, rất quen thuộc với
các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch
vụ công. Vì vậy, không cần thiết phải quy
định trong Luật TGPL, và càng không cần
thiết phải giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quy định cụ thể trình tự thực hiện hay bản
mẫu của hợp đồng này.
Thứ năm, để tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho các tổ chức tham gia thực hiện
TGPL, đề nghị sửa đổi nội dung Điều 15 Dự
thảo Luật, quy định trực tiếp thủ tục đăng ký
tham gia TGPL cho phù hợp với tên điều mà
không cần giao cho Chính phủ hướng dẫn
nữa, cụ thể như sau:
“Điều 15. Đăng ký tham gia trợ
giúp pháp lý
1. Tổ chức hành nghề luật sư, Trung
tâm Tư vấn pháp luật có nguyện vọng tham
gia thực hiện TGPL phải đăng ký bằng văn
bản về phạm vi, hình thức, lĩnh vực TGPL
tại Sở Tư pháp nơi đã cấp Giấy đăng ký hoạt
động.
2. Tổ chức đề nghị đăng ký tham gia
thực hiện TGPL nộp cho Sở Tư pháp 01
(một) bộ hồ sơ bao gồm: Giấy đề nghị đăng
ký tham gia TGPL; danh sách luật sư, tư vấn
viên pháp luật sẽ tham gia thực hiện TGPL.
3. Trong thời hạn bảy ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, Sở Tư
pháp cấp Giấy đăng ký tham gia TGPL cho
tổ chức đã đề nghị và thông báo cho Trung
tâm TGPL nhà nước để phối hợp hoạt động.
Trong trường hợp từ chối phải thông báo rõ
lý do bằng văn bản.
4. Trong thời hạn bảy ngày làm việc,
kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký tham gia
TGPL, tổ chức được cấp Giấy đăng ký thực
hiện công bố công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng ở địa phương về các nội
dung của Giấy đăng ký tham gia TGPL.
Việc thực hiện TGPL được tính từ khi đã
thực hiện việc công bố công khai Giấy đăng
ký tham gia TGPL.
5. Giấy Đăng ký tham gia TGPL được
thực hiện theo mẫu thống nhất do Bộ trưởng
Bộ Tư pháp ban hành và thực hiện TGPL
phù hợp với phạm vi, hình thức, lĩnh vực
pháp luật được ghi trong Giấy đăng ký hoạt
động.
Việc đăng ký tham gia TGPL không
phải trả lệ phí”.
4. Người thực hiện trợ giúp pháp lý
(Chương IV)
Thứ nhất, điểm b khoản 1 Điều 18
Dự thảo Luật quy định: “Luật sư thực hiện
TGPL theo hợp đồng với Trung tâm TGPL
nhà nước”, trong khi Điều 49 Luật Luật sư
năm 2013 không cho phép luật sư hành nghề
tại Công ty luật và Văn phòng luật sư ký hợp
đồng cung cấp dịch vụ pháp lý với một cơ
quan, tổ chức khác. Trường hợp luật sư hành
30
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
nghề với tư cách cá nhân thì được ký hợp
đồng lao động với cơ quan, tổ chức khác,
được nhận lương và chỉ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó.
Vì vậy, để luật sư có điều kiện tham
gia TGPL, ký hợp đồng cộng tác với Trung
tâm TGPL thì phải kế thừa chế định cộng tác
viên TGPL theo quy định hiện hành. Với lý
do đó, chúng tôi đề nghị Điều 18 Dự thảo
Luật cần được thiết kế như sau:
“Điều 18. Người thực hiện trợ giúp
pháp lý
1. Người thực hiện TGPL bao gồm:
a) Trợ giúp viên pháp lý;
b) Cộng tác viên TGPL;
c) Luật sư;
d) Tư vấn viên pháp luật làm việc
trong tổ chức tư vấn pháp luật (không cần
quy định có 02 năm kinh nghiệm mới được
TGPL như Dự thảo, bởi vì đây là điều kiện
chỉ gây phiền hà cho tư vấn viên pháp luật).
3. Người thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì không được thực hiện TGPL
(kế thừa khoản 3 Điều 20 Luật TGPL năm
2006):
a) Đang bị truy cứu trách nhiệm hình
sự; đã bị kết án mà chưa được xóa án tích
về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm
trọng do cố ý; đã bị kết án về tội phạm
nghiêm trọng do cố ý, tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý kể cả trường hợp đã được xóa
án tích;
b) Đang bị áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở
giáo dục hoặc quản chế hành chính;
c) Mất năng lực hành vi dân sự hoặc
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
d) Bị xử lý kỷ luật bằng hình thức
buộc thôi việc mà chưa hết thời hạn ba năm,
kể từ ngày quyết định buộc thôi việc có hiệu
lực;
đ) Bị thu hồi Thẻ Trợ giúp viên pháp
lý, Chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc Giấy
chứng nhận tư vấn viên pháp luật”.
Thứ hai, cần quy định rõ ràng, cụ thể
hình thức tham gia thực hiện TGPL của luật
sư và tư vấn viên pháp luật đồng bộ với pháp
luật về luật sư (Điều 21, 31 Luật Luật sư và
4 Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư), với
pháp luật về tư vấn pháp luật. Theo hướng
này, đề nghị bổ sung vào Dự thảo Luật các
điều quy định về tham gia TGPL của luật sư
và tư vấn viên pháp luật như sau:
“Điều... luật sư tham gia thực hiện
trợ giúp pháp lý
Luật sư tham gia thực hiện TGPL
bằng các hình thức sau đây:
1. Luật sư tham gia TGPL với hình
thức thực hiện nghĩa vụ TGPL và đạo đức
nghề nghiệp luật sư (đã quy định tại các
Điều 21, 31 Luật Luật sư và 4 Quy tắc đạo
đức nghề nghiệp của luật sư);
2. Luật sư thực hiện TGPL với tư cách
hành nghề cá nhân ký hợp đồng lao động
với Trung tâm TGPL nhà nước (phù hợp với
Điều 49 Luật Luật sư);
3. Luật sư thực hiện TGPL với tư cách
cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà
nước theo quy định của Luật này (Điều 22
Dự thảo cần bổ sung quy định luật sư có
nguyện vọng được làm cộng tác viên
TGPL);
4. Luật sư thực hiện TGPL tại tổ chức
hành nghề luật sư đã đăng ký tham gia
TGPL;
5. Luật sư thực hiện TGPL bằng tất cả
các hình thức TGPL quy định tại khoản 2
Điều 28 Luật này”.
Quy định như trên sẽ tạo môi trường
pháp lý cho luật sư lựa chọn hình thức tham
gia TGPL phù hợp với khả năng của mình.
Luật sư thực hiện TGPL theo khoản 2, 3
được Nhà nước trả lương hoặc tiền bồi
31
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
dưỡng vụ việc TGPL theo quy định của
pháp luật. Luật sư thực hiện TGPL theo
khoản 1và khoản 4 Điều này thì thực hiện
bằng chính nguồn lực của mình.
- Tương tự như quy định về luật sư, đề
nghị bổ sung thêm một điều quy định về tư
vấn viên pháp luật tham gia TGPL, bởi điểm
c khoản 1 Điều 18 quy định tư vấn viên pháp
luật cũng là người thực hiện TGPL, nhưng
chưa rõ ràng, cụ thể theo hướng kế thừa
Điều 24 Luật TGPL năm 2006, như sau:
“Điều... Tư vấn viên pháp luật tham
gia trợ giúp pháp lý
1. Tư vấn viên pháp luật tham gia
TGPL theo sự phân công của tổ chức tư vấn
pháp luật đã đăng ký tham gia TGPL, tham
gia TGPL với tư cách cộng tác viên của
Trung tâm TGPL nhà nước.
2. Tư vấn viên pháp luật thực hiện
TGPL bằng hình thức tư vấn pháp luật và
hòa giải”.
5. Hình thức, hoạt động trợ giúp pháp lý
(Chương V)
Thứ nhất, về hình thức trợ giúp pháp
lý (khoản 2 Điều 28 Dự thảo Luật)
Khoản 2 Điều 28 Dự thảo Luật quy
định chỉ có 3 hình thức dịch vụ pháp lý là
tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại
diện ngoài tố tụng (bỏ hình thức hòa giải).
Một số ý kiến đóng góp cho Dự thảo cũng
như bản Dự thảo Báo cáo giải trình, tiếp thu,
chỉnh lý Dự thảo Luật TGPL cũng cho rằng,
nên bỏ hình thức hòa giải bởi vì “hoạt động
hòa giải được điều chỉnh bằng Luật Hòa giải
ở cơ sở”. Chúng tôi cho rằng ý kiến này
không có tính thuyết phục, bởi hòa giải ở cơ
sở và hòa giải trong TGPL có những điểm
khác nhau về chủ thể thực hiện hòa giải, tính
chất, độ phức tạp của tranh chấp và địa bàn
của các bên tranh chấp. Hòa giải ở cơ sở do
Hòa giải viên thực hiện đối với tranh chấp
(thường là những tranh chấp, vi phạm pháp
luật nhỏ) trong cộng đồng dân cư mà các
bên tranh chấp cùng chung sống trong phạm
vi thôn, bản, ấp... Còn hòa giải trong TGPL
do người thực hiện TGPL thực hiện đối với
những tranh chấp dân sự phức tạp mà Hòa
giải viên không đủ kiến thức và kỹ năng để
thực hiện, những vụ việc mà tổ hòa giải đã
thực hiện nhưng không thành công, nên lại
“đến tay” tổ chức TGPL; những vụ việc mà
các bên tranh chấp không ở cùng thôn, bản,
ấp mà ở các huyện, tỉnh khác nhau..., kể cả
những vụ việc đã khởi kiện tại Tòa án mà
thấy rằng hòa giải sẽ tốt hơn thì cũng được
thực hiện để rút đơn khởi kiện tại Tòa án.
Như vậy, việc hòa giải trong TGPL hoàn
toàn vượt ra khỏi sự điều chỉnh của Luật
Hòa giải ở cơ sở do pháp luật dân sự, tố tụng
dân sự, pháp luật đất đai... điều chỉnh. Vì
vậy, việc Dự thảo Luật bỏ hình thức hòa giải
sau 17 năm hình thành và phát triển hình
thức TGPL là điều không phù hợp.
Thứ hai, Điều 30 Dự thảo Luật với tiêu
đề: “Tiếp nhận yêu cầu TGPL” là chưa phù
hợp với nội dung của Điều này. Hơn nữa,
quy định yêu cầu TGPL của người được
TGPL không rõ ràng về phương thức, thủ tục
yêu cầu TGPL, gây khó khăn cho người
được TGPL khi thực hiện thủ tục hành chính
này. Để khắc phục bất cập này, chúng tôi đề
nghị sửa đổi lại tiêu đề của Điều 30 là “Yêu
cầu TGPL” như Điều 33 Luật TGPL năm
2006. Yêu cầu TGPL của người được TGPL
là thủ tục hành chính, vì vậy, nội dung Điều
30 cần quy định rõ ràng, cụ thể tên gọi, hồ
sơ yêu cầu TGPL cần có những gì, phải nộp
cho ai, theo phương thức nào và thủ tục thật
sự cần thiết và đơn giản để người được
TGPL biết phải làm gì và làm như thế nào
khi có yêu cầu TGPL. Cụ thể, Điều 30 Dự
thảo Luật nên được thể hiện như sau:
“Điều 30. Yêu cầu trợ giúp pháp lý
1. Khi có yêu cầu TGPL, người được
TGPL phải nộp 01 bộ hồ sơ cho tổ chức thực
hiện TGPL. Hồ sơ gồm có: Đơn yêu cầu
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
TGPL, bản sao có chứng thực giấy tờ chứng
minh là người được TGPL và các giấy tờ, tài
liệu có liên quan đến vụ việc TGPL (nếu có).
2. Hồ sơ yêu cầu TGPL được nộp trực
tiếp tại trụ sở của tổ chức thực hiện TGPL
hoặc được gửi đến tổ chức thực hiện TGPL
qua dịch vụ bưu chính hoặc các hình thức
khác.
Trong trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp
tại trụ sở của tổ chức thực hiện TGPL, người
được TGPL chỉ cần nộp đơn yêu cầu TGPL
và xuất trình bản chính giấy tờ chứng minh
mình là người được TGPL. Trường hợp
chưa có đơn yêu cầu thì người thực hiện
TGPL có trách nhiệm phát mẫu tờ đơn và
hướng dẫn họ điền vào mẫu đơn và ký hoặc
điểm chỉ vào đơn yêu cầu TGPL. Trường
hợp người được TGPL không thể tự mình
viết đơn yêu cầu thì người thực hiện TGPL
có trách nhiệm ghi các nội dung yêu cầu
TGPL vào mẫu đơn, để họ tự đọc hoặc đọc
lại cho họ nghe và yêu cầu họ ký tên hoặc
điểm chỉ vào đơn”.
Thứ ba, Điều 31 Dự thảo Luật quy
định thủ tục thụ lý vụ việc TGPL nhưng
chưa rõ ràng, cụ thể, khó hiểu, đề nghị chỉnh
lý lại như sau:
“Điều 31. Thụ lý vụ việc trợ giúp
pháp lý
1. Người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu
TGPL phải kiểm tra các giấy tờ, nội dung có
liên quan đến yêu cầu TGPL; nếu hồ sơ có
đủ điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 30
(theo hướng sửa trên đây) và yêu cầu TGPL
thuộc vụ việc, đối tượng, phạm vi, hình thức
TGPL quy định tại các Điều 7, 27 và 28 của
Luật này thì phải thụ lý ngay, ghi vào Sổ thụ
lý và đề nghị người có thẩm quyền phân
công người thực hiện TGPL cho người được
TGPL.
2. Trong trường hợp người được
TGPL còn thiếu những giấy tờ chứng minh
là người được TGPL hoặc giấy tờ, tài liệu
có liên quan đến vụ việc TGPL thì người
tiếp nhận hồ sơ phải hướng dẫn họ cung cấp
bổ sung các giấy tờ, tài liệu đó để thụ lý vụ
việc TGPL.
3. Trong trường hợp yêu cầu TGPL
không đủ điều kiện để thụ lý theo quy định
tại khoản 1 Điều này thì tổ chức thực hiện
TGPL được từ chối thụ lý và thông báo rõ
lý do bằng văn bản cho người có yêu cầu
TGPL biết”.
Thứ tư, Điều 34 có tiêu đề là “Tư vấn
pháp luật”, tuy nhiên, trong nội dung lại quy
định cả về hoạt động hòa giải, giải quyết
khiếu nại là không không logic. Vì vậy,
chúng tôi đề nghị chỉnh sửa lại Điều này như
sau:
“Điều 31. Tư vấn pháp luật
1.....
2. Đối với vụ việc đơn giản, người
thực hiện TGPL phải tư vấn ngay và ghi
chép những nội dung chính trong phiếu tư
vấn pháp luật. Phiếu tư vấn pháp luật được
lập thành hai bản, một bản giao cho người
được TGPL, một bản được lưu giữ trong hồ
sơ vụ việc.
3. Đối với vụ việc phức tạp, cần có
thời gian nghiên cứu, xác minh hoặc vụ việc
thiếu những giấy tờ, tài liệu có liên quan thì
người thực hiện TGPL phải viết phiếu hẹn
hoặc yêu cầu bổ sung các giấy tờ, tài liệu
còn thiếu.
Trong thời hạn không quá mười lăm
ngày, kể từ ngày thụ lý vụ việc hoặc nhận đủ
các giấy tờ, tài liệu cần bổ sung, người thực
hiện TGPL có trách nhiệm nghiên cứu và trả
lời bằng văn bản cho người được TGPL;
trong trường hợp vụ việc cần có thời gian để
xác minh thì thời hạn này có thể kéo dài
nhưng không quá ba mươi ngày.
4. Đối với vụ việc yêu cầu tư vấn được
chuyển đến bằng thư tín, người thực hiện
TGPL có trách nhiệm trả lời bằng văn bản
trong thời hạn không quá mười lăm ngày, kể
từ ngày nhận được yêu cầu TGPL”n
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gop_y_hoan_thien_mot_so_noi_dung_cua_du_thao_luat_tro_giup_p.pdf