Nội dung của các nguyên tắc cần được
quy định cụ thể, ví dụ:
- Nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong xử
phạt VPHC có nội dung: 1) Mọi vi phạm
hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn
kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi
hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải
được khắc phục theo đúng quy định của
pháp luật; 2) Không ai có thể bị coi là đã vi
phạm hành chính và bị xử phạt vi phạm nếu
không đủ căn cứ và theo trình tự được pháp
luật quy định; 3) Việc xử lý VPHC phải đúng
thẩm quyền và thủ tục được pháp luật quy
định; 4) Nghiêm cấm mọi hình thức xúc
phạm danh dự, nhân phẩm người bị xử lý vi
phạm hành chính; 5) Một hành vi vi phạm
hành chính chỉ bị xử phạt một lần; nhiều
người cùng thực hiện một hành vi vi phạm
hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử
phạt về hành vi vi phạm hành chính đó; 6)
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều
lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”.
- Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
có nội dung: 1) Mọi cá nhân vi phạm hành
chính phải chịu trách nhiệm hành chính
không phụ thuộc vào giới tính, dân tộc, tiếng
nói, nguồn gốc xuất thân, tình trạng tài sản,
địa vị xã hội, nơi cư trú, tín ngưỡng, tôn giáo
và những lý do khác; 2) Các điều kiện miễn
trừ trách nhiệm đối với đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân, thẩm phán, kiểm sát
viên, điều tra viên do pháp luật quy định.
- Nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh
VPHC có nội dung: 1) Cá nhân, tổ chức chỉ
bị truy cứu trách nhiệm hành chính nếu có
lỗi khi thực hiện hành vi vi phạm; 2) Cá
nhân, tổ chức chưa bị coi là đã vi phạm hành
chính nếu lỗi của người thực hiện hành vi vi
phạm chưa được chứng minh theo quy định
của pháp luật; 3) Người bị truy cứu trách
nhiệm hành chính không phải chứng minh
mình không vi phạm trừ những trường hợp
luật định; 4) Mọi nghi ngờ về lỗi của người
bị truy cứu trách nhiệm hành chính được giải
thích theo hướng có lợi cho họ.
- Nguyên tắc tranh tụng không chỉ dừng
ở quyền được giải trình quy định tại khoản
1 Điều 63 mà phải bao gồm các quyền, như
cung cấp chứng cứ, yêu cầu xác minh, thu
thập chứng cứ, quyền được yêu cầu người
làm chứng, yêu cầu trưng cầu giám định,
quyền có mặt và phát biểu quan điểm, ý kiến
của mình, quyền nhờ luật sư hoặc người
khác tham gia phiên họp xem xét việc xử
phạt VPHC
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp ý sửa đổi, bổ sung luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
1. Sửa đổi phạm vi điều chỉnh
Theo tác giả, các biện pháp xử lý hành
chính cần được tách ra khỏi phạm vi điều
chỉnh của Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 (Luật XLVPHC 2012) và được
quy định trong một văn bản luật riêng vì
những lý do sau đây:
Thứ nhất, các biện pháp xử lý vi phạm
hành chính (VPHC) được quy định tại khoản
3 Điều 2 Luật XLVPHC 2012, là các biện
pháp được áp dụng đối với cá nhân “vi phạm
pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội
mà không phải là tội phạm”, không tương
ứng với một loại trách nhiệm pháp lý nào.
GÓP Ý SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
luậT XỬ lÝ vi phẠm hành chÍnh nĂm 2012
Nguyễn Cảnh Hợp
PGS.TS. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Vi phạm hành chính, trách
nhiệm hành chính, xử phạt vi phạm
hành chính.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 12/03/2020
Biên tập : 16/03/2020
Duyệt bài : 18/03/2020
Article Infomation:
Keywords: Administrative violations;
administrative responsibility;
administrative sanctions.
Article History:
Received : 12 Mar. 2020
Edited : 16 Mar. 2020
Approved : 18 Mar. 2020
Tóm tắt:
Để bảo đảm chất lượng của việc sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012, bài viết này phân tích, chỉ ra một số
bất cập, hạn chế trong quy định của Luật và đề xuất kiến nghị
hoàn thiện.
Abstract:
This article provides analysis of a number of inadequacies and
shortcoming in the provisions of the Law on Law on Handling
of Administrative Violations of 2012 and also proposed
recommendations for further improvements of the Law so that it
is to ensure the quality of the amendments to the Law.
Số 6(406) - T3/202032 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Do đó, tên gọi của Luật không phù hợp với
loại vi phạm này, tức không phải VPHC.
Đây cũng không phải là biện pháp trách
nhiệm hình sự vì cơ sở để áp dụng không
phải là tội phạm. Do đó, về bản chất, đây là
các biện pháp cưỡng chế hành chính đặc
biệt: đặc biệt về đối tượng, cơ sở áp dụng,
điều kiện áp dụng, nội dung cưỡng chế, thẩm
quyền và thủ tục áp dụng.
Thứ hai, mặc dù quy định trong cùng
một đạo luật, nhưng các nội dung cụ thể về
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính lại
được quy định riêng, tách khỏi xử phạt
VPHC, từ đối tượng áp dụng, nguyên tắc,
thời hiệu, thời hạn áp dụng, nội dung các
biện pháp cho đến thẩm quyền và thủ tục áp
dụng. Trong khi đó, có một số điều khoản
quy định chung cho cả xử phạt VPHC và áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính chưa
thật hợp lý, ví dụ:“khiếu nại, tố cáo và khởi
kiện trong XLVPHC” (Điều 15), “Trách
nhiệm của người có thẩm quyền XLVPHC”
(Điều 16), tình tiết giảm nhẹ (Điều 9), tình
tiết tăng nặng (Điều 10), v.v...
Thứ ba, trên cơ sở Pháp lệnh Trình tự,
thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân,
chúng ta có thể xây dựng một luật riêng về
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với
đầy đủ nội dung về đối tượng áp dụng, các
biện pháp cụ thể, thẩm quyền và thủ tục áp
dụng. Điều này không phức tạp về kỹ thuật
lập pháp, trong khi đó mọi vấn đề liên quan
đến áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
sẽ được giải quyết rành mạch, nhất quán,
triệt để, thể hiện sâu sắc nguyên tắc bảo đảm
quyền con người, quyền công dân.
2. Bổ sung quy định về trách nhiệm hành
chính
Luật XLVPHC 2012 không đề cập đến
trách nhiệm hành chính mà chỉ quy định về
xử phạt vi phạm hành chính. Tác giả cho
rằng, chỉ khi nào xác định rành mạch cơ sở
của trách nhiệm hành chính, các trường hợp
không phải chịu trách nhiệm hành chính,
nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hành chính,
các trường hợp miễn truy cứu trách nhiệm
hành chính,v.v... thì mới có thể quy định về
xử phạt VPHC phù hợp.
Xử phạt, nếu theo định nghĩa của Luật
chỉ là “áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả” (khoản 2 Điều 2 Luật
XLVPHC 2012), nhưng đó là kết quả của cả
quá trình gồm nhiều hoạt động nhằm xác
định trách nhiệm hành chính. Vì vậy, trước
khi quy định về xử phạt, phải quy định đầy
đủ những vấn đề của trách nhiệm hành
chính. Tác giả cho rằng, trong một số điều,
Luật XLVPHC 2012 sử dụng thuật ngữ chưa
hợp lý như: khoản 1 Điều 6 “thời hiệu xử
phạt VPHC” (cần thay bằng “thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hành chính”); Điều 11
“những trường hợp không xử phạt VPHC”
(cần thay bằng “những trường hợp không
phải là vi phạm hành chính”, hoặc “miễn
trách nhiệm hành chính”). Bên cạnh đó, do
không quy định về trách nhiệm hành chính
nên trong trường hợp vi phạm có tổ chức hay
trường hợp vi phạm chưa đạt hoặc tự ý nửa
chừng chấm dứt vi phạm (là những trường
hợp Luật XLVPHC 2012 không quy định)
thì không rõ trách nhiệm phải gánh chịu như
thế nào?
Từ những phân tích nêu trên, tác giả cho
rằng, cần sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC
2012 về trách nhiệm hành chính như sau:
- Bổ sung một điều quy định về cơ sở
của trách nhiệm hành chính với nội dung “cá
nhân, tổ chức phải chịu trách nhiệm hành
chính khi có lỗi trong việc thực hiện hành vi
VPHC được pháp luật quy định”.
33Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
- Sửa đổi các trường hợp không xử phạt
VPHC tại Điều 11 thành “các trường hợp
không bị coi là vi phạm hành chính”.
- Bổ sung một điều quy định về miễn
trách nhiệm hành chính (do hành vi không
còn nguy hiểm cho xã hội, thời hiệu xử phạt
đã hết, v.v... (tương tự như quy định của Bộ
luật Hình sự).
- Sửa đổi tên gọi của Điều 9 thành “Các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hành chính”,
Điều 10 thành “Các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hành chính”, nếu không sẽ không rõ
giảm nhẹ hay tăng nặng cái gì.
- Bổ sung một điều quy định về trường
hợp vi phạm có tổ chức (đồng phạm) và
phân hóa trách nhiệm của từng chủ thể tham
gia.
- Bổ sung một điều quy định về tự ý nửa
chừng chấm dứt vi phạm và vi phạm chưa
đạt.
3. Hoàn thiện khái niệm xử phạt vi phạm
hành chính
Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật
XLVPHC 2012, “xử phạt vi phạm hành
chính là việc người có thẩm quyền xử phạt
áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc
phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực
hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính”. Mục đích của quy định tại khoản 2
Điều 2 này chỉ là để phân biệt xử phạt VPHC
với áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.
Theo định nghĩa này, nội dung của xử
phạt VPHC thể hiện ở việc áp dụng hình
thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
vi phạm; xử phạt VPHC đồng nhất với việc
ra quyết định xử phạt (trong đó ghi rõ người
thực hiện hành vi vi phạm, hành vi vi phạm
cụ thể, điều luật được áp dụng, hình thức,
mức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu
quả vi phạm được quy định trong các nghị
định của Chính phủ quy định về xử phạt
VPHC trong các lĩnh vực cụ thể). Hơn nữa,
quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật XLVPHC
2012 cũng không chính xác khi rơi vào các
trường hợp không ra quyết định xử phạt quy
định tại Điều 65 của Luật này, tức các trường
hợp chỉ ra quyết định áp dụng biện pháp
khắc phục hậu quả mà không xử phạt (hết
thời hiệu xử phạt, trường hợp cá nhân VPHC
chết, mất tích, tổ chức vi phạm hành chính
đã giải thể, phá sản v.v...).
Theo tác giả, xử phạt VPHC cần được
hiểu là toàn bộ các hoạt động nhằm xác
minh, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ
và chứng minh các tình tiết của VPHC cụ
thể, lựa chọn quy phạm cần áp dụng đối với
cá nhân, tổ chức vi phạm theo quy định của
pháp luật và ra quyết định xử phạt.
Vì vậy, cần quy định một điều riêng định
nghĩa về xử phạt VPHC, một điều riêng quy
định về áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả, trong đó gồm áp dụng hình thức xử
phạt VPHC và áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả; đồng thời, cần quy định một điều
về “áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả” như quy định tại khoản 2 Điều 65.
4. Bổ sung quy định về chứng minh,
chứng cứ
Luật XLVPHC 2012 là một văn bản luật
lớn, gần như Bộ luật, vì vậy, các điều, khoản
của Luật cần quy định cụ thể. Mỗi một thuật
ngữ cần được quy định với nội hàm đầy đủ,
ví dụ, vi phạm hành chính, đồng phạm, vi
phạm có tổ chức, tự ý nửa chừng chấm dứt
vi phạm, vi phạm chưa đạt, lỗi cố ý, lỗi vô
ý, tái phạm, vi phạm hành chính nhiều lần,
tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự
kiện bất ngờ, sự kiện bất khả kháng, người
không có năng lực trách nhiệm hành chính,
người nghiện ma túy,...
Số 6(406) - T3/202034 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Xử phạt vi phạm hành chính là một tập
hợp của nhiều hành động, từ xác định hành
vi vi phạm, chủ thể thực hiện, các tình tiết
khách quan, chủ quan cấu thành vi phạm, kết
thúc bằng việc áp dụng chế tài phù hợp với
quy định của pháp luật. Nói chính xác hơn:
xử phạt VPHC là quá trình truy cứu trách
nhiệm hành chính, nó không chỉ là việc ra
quyết định áp dụng hình thức, mức xử phạt
và biện pháp khắc phục hậu quả.
Xử phạt vi phạm phải bảo đảm yêu cầu
không làm oan sai đối với người bị xử phạt.
Chỉ khi xác minh, thu thập đầy đủ chứng cứ
và đánh giá chúng một cách toàn diện thì
việc xử phạt mới không bị oan sai, bảo đảm
nguyên tắc xử phạt khách quan. Tuy nhiên,
Luật XLVPHC 2012 chỉ mới đề cập đến
trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính
như một nguyên tắc mà chưa quy định rõ thế
nào là chứng minh và chứng minh như thế
nào, chứng minh bằng phương tiện pháp lý
nào, chưa quy định tương xứng với nội dung
và tầm quan trọng của vấn đề chứng minh
như một chế định của pháp luật XLVPHC1.
Các điều 58 (Lập biên bản vi phạm), 59 (Xác
minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành
chính), 60 (Xác định giá trị tang vật vi phạm
hành chính để làm căn cứ xác định khung
tiền phạt, thẩm quyền xử phạt), 61 (Giải
trình), 64 (Sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ
thuật nghiệp vụ trong việc phát hiện vi phạm
hành chính) Phần hai Chương III chỉ mới thể
hiện một phần không đáng kể nội dung của
chứng minh.
Thực tế đã có không ít vụ vi phạm cần
nhiều thời gian và sử dụng nhiều biện pháp
nghiệp vụ, chuyên môn để xác minh, thu
thập chứng cứ, làm rõ các tình tiết của vụ
việc. Ví dụ, Công ty Sơn HP bị Cục Hải
quan thành phố Hải Phòng xử phạt vi phạm
về hành vi khai không đúng mã số thuế khi
làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa. Cục Hải
quan thành phố Hải Phòng đã xử phạt Công
ty bằng giá trị một lần thuế trốn cùng với
truy thu thuế tổng cộng hơn 16 tỷ đồng vì
cho rằng, hàng nhập khẩu là sơn thành phẩm
mà không phải nguyên liệu. Đơn vị giám
định, sau hai lần giám định, đã có kết luận
trái ngược nhau, dẫn đến thuế suất rất khác
nhau: kết luận lần đầu coi hàng nhập khẩu là
sơn thành phẩm, nhưng kết luận lần hai (sau
khi hỏi các cơ quan hữu quan) khẳng định
hàng nhập khẩu là nguyên liệu bán thành
phẩm dùng để sản xuất sơn. Chỉ sau khi
Công ty Sơn HP khởi kiện vụ án hành chính
thì các chứng cứ mới được Tòa án xác minh,
đánh giá đúng đắn, dẫn đến kết quả quyết
định xử phạt VPHC của Cục trưởng Hải
quan thành phố Hải Phòng bị hủy. Công ty
Sơn HP không bị xử phạt phạt và truy thu 16
tỷ đồng nữa2.
Rõ ràng trong vụ xử phạt vi phạm này,
chứng cứ là yếu tố quyết định và việc trưng
cầu giám định là hoàn toàn cần thiết. Tuy
nhiên, toàn bộ việc thu thâp, đánh giá chứng
cứ này lại do cơ quan hải quan quyết định,
chứ không phải do yêu cầu của người bị xử
phạt. Quá trình quyết định trưng cầu giám
1 Điểm đ khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC 2012.
2 Xem Quyết định giám đốc thẩm 02/2012/HC-GĐT ngày 16/03/2012 xét xử vụ án hành chính về khiếu kiện
quyết định truy thu thuế và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế của Công ty cổ phần Sơn HP,
https://thegioiluat.vn/an-le/quyet-dinh-giam-doc-tham-02-2012-hc-gdt-xet-xu-vu-an-hanh-chinh-ve-khieu-
kien-quyet-dinh-truy-thu-thue-va-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-trong-linh-vuc-thue-119/.
định và việc giám định không được pháp
luật quy định cho nên những đòi hỏi đối với
chứng cứ như tính xác thực, tính có liên quan
và tính hợp pháp đều không được đặt ra.
Vì vậy, tác giải cho rằng, cần sửa đổi
Luật XLVPHC năm 2012 theo hướng bổ
sung một chương quy định cụ thể các vấn đề
liên quan đến chứng cứ, chứng minh như:
định nghĩa, phân loại chứng cứ, nguồn
chứng cứ, các hoạt động xác minh, thu thập,
cất giữ, bảo quản chứng cứ, đánh giá chứng
cứ, các tình tiết phải chứng minh, những tình
tiết không phải chứng minh.
Bên cạnh đó, tác giả cho rằng, thực tế có
nhiều vụ vi phạm mà việc chứng minh vi
phạm rất phức tạp, nên thời hạn ra quyết
định xử phạt (Điều 66 của Luật) hiện nay,
với hai lần gia hạn không quá 60 ngày là
chưa tương xứng, cần phải được kéo dài
hơn.
5. Luật hóa thẩm quyền của Chính phủ
quy định hành vi vi phạm trong các lĩnh
vực
Khoản 1 Điều 2 Nghị định số
81/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật XLVPHC 2012 quy định: “Việc quy
định hành vi vi phạm hành chính phải bảo
đảm các yêu cầu sau đây: a) Có vi phạm các
quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm, điều cấm
của pháp luật về trật tự quản lý hành chính
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước; b) Đáp
ứng yêu cầu bảo đảm trật tự quản lý hành
chính nhà nước; c) Hành vi vi phạm hành
chính phải được mô tả rõ ràng, cụ thể để có
thể xác định và xử phạt được trong thực
tiễn”; khoản 2 quy điṇh: “Việc quy định hình
thức xử phạt, mức xử phạt đối với từng hành
vi vi phạm hành chính phải căn cứ vào các
yếu tố sau đây: a) Tính chất, mức độ xâm hại
trật tự quản lý hành chính nhà nước của hành
vi vi phạm; đối với hành vi vi phạm không
nghiêm trọng, có tính chất đơn giản, thì phải
quy định hình thức xử phạt cảnh cáo; b) Mức
thu nhập, mức sống trung bình của người
dân trong từng giai đoạn phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước; c) Mức độ giáo dục, răn
đe và tính hợp lý, tính khả thi của việc áp
dụng hình thức, mức phạt”.
Những nội dung trên đây thực chất là
quan điểm chỉ đạo đối với việc ban hành các
nghị định quy định xử phạt VPHC trong các
lĩnh vực, vì vậy, chúng cần được thể hiện
trong luật với tính chất là các nguyên tắc chỉ
đạo cho việc ban hành nghị định của Chính
phủ.
6. Quy định đầy đủ, cụ thể các nguyên tắc
xử phạt vi phạm hành chính
Điều 3 Luật XLVPHC 2012 quy định về
nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính, trong
đó liệt kê 6 nguyên tắc xử phạt vi phạm hành
chính. Quy định của Luật về các nguyên tắc
còn khái quát và chưa thật đầy đủ. Để bảo
đảm hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính, tác giả cho rằng, cần tách các
nguyên tắc thành từng điều luật riêng và bổ
sung thêm một số nguyên tắc, cụ thể như
sau:
Bảo đảm pháp chế trong xử phạt vi
phạm hành chính.
Bình đẳng trước pháp luật trong xử phạt
vi phạm hành chính.
Việc xử phạt vi phạm hành chính được
tiến hành nhanh chóng, công khai, khách
quan, bảo đảm công bằng.
Việc xử phạt vi phạm hành chính phải
căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi
phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm
nhẹ, tình tiết tăng nặng.
Nghĩa vụ chứng minh VPHC (hay “suy
đoán không có lỗi).
Nguyên tắc tranh tụng.
35Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Số 6(406) - T3/202036 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Tiếng nói, chữ viết sử dụng khi tiến
hành xử phạt vi phạm hành chính.
Trách nhiệm đấu tranh phòng, chống vi
phạm hành chính.
Trách nhiệm của người có thẩm quyền
XLVPHC.
Trách nhiệm quản lý công tác thi hành
pháp luật về XLVPHC.
Trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan,
đơn vị trong công tác XLVPHC.
Giám sát công tác XLVPHC.
Khiếu nại trong xử phạt vi phạm hành
chính.
Bảo đảm thi hành các quyết định xử phạt
VPHC.
Áp dụng Luật XLVPHC đối với hành vi
vi phạm hành chính ở ngoài lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nội dung của các nguyên tắc cần được
quy định cụ thể, ví dụ:
- Nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong xử
phạt VPHC có nội dung: 1) Mọi vi phạm
hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn
kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi
hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải
được khắc phục theo đúng quy định của
pháp luật; 2) Không ai có thể bị coi là đã vi
phạm hành chính và bị xử phạt vi phạm nếu
không đủ căn cứ và theo trình tự được pháp
luật quy định; 3) Việc xử lý VPHC phải đúng
thẩm quyền và thủ tục được pháp luật quy
định; 4) Nghiêm cấm mọi hình thức xúc
phạm danh dự, nhân phẩm người bị xử lý vi
phạm hành chính; 5) Một hành vi vi phạm
hành chính chỉ bị xử phạt một lần; nhiều
người cùng thực hiện một hành vi vi phạm
hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử
phạt về hành vi vi phạm hành chính đó; 6)
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều
lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”.
- Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
có nội dung: 1) Mọi cá nhân vi phạm hành
chính phải chịu trách nhiệm hành chính
không phụ thuộc vào giới tính, dân tộc, tiếng
nói, nguồn gốc xuất thân, tình trạng tài sản,
địa vị xã hội, nơi cư trú, tín ngưỡng, tôn giáo
và những lý do khác; 2) Các điều kiện miễn
trừ trách nhiệm đối với đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân, thẩm phán, kiểm sát
viên, điều tra viên do pháp luật quy định.
- Nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh
VPHC có nội dung: 1) Cá nhân, tổ chức chỉ
bị truy cứu trách nhiệm hành chính nếu có
lỗi khi thực hiện hành vi vi phạm; 2) Cá
nhân, tổ chức chưa bị coi là đã vi phạm hành
chính nếu lỗi của người thực hiện hành vi vi
phạm chưa được chứng minh theo quy định
của pháp luật; 3) Người bị truy cứu trách
nhiệm hành chính không phải chứng minh
mình không vi phạm trừ những trường hợp
luật định; 4) Mọi nghi ngờ về lỗi của người
bị truy cứu trách nhiệm hành chính được giải
thích theo hướng có lợi cho họ.
- Nguyên tắc tranh tụng không chỉ dừng
ở quyền được giải trình quy định tại khoản
1 Điều 63 mà phải bao gồm các quyền, như
cung cấp chứng cứ, yêu cầu xác minh, thu
thập chứng cứ, quyền được yêu cầu người
làm chứng, yêu cầu trưng cầu giám định,
quyền có mặt và phát biểu quan điểm, ý kiến
của mình, quyền nhờ luật sư hoặc người
khác tham gia phiên họp xem xét việc xử
phạt VPHCn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gop_y_sua_doi_bo_sung_luat_xu_ly_vi_pham_hanh_chinh_nam_2012.pdf