In order to understand the present status of heavy metal contamination in Haiphong coast,
rocky oyster (Saccostrea glomerata) and hard clam (Meretrix lyrata) were examined. The concentration of
nine elements (As, Cd, Mn, Cr, Co, Cu, Pb, V and Zn) was determined in whole tissues of these species from
Phu Long, Do Son and Quan Muc in March 2012. The result indicated that Zn, Cu, Mn and As were dominant
elements, whereas Co, Cr, V, Cd, Pb were minor elements in both species. The metal concentrations in these
species were apparently different. While extremely high concentrations of Zn, Cu and Cd were found in the
oysters and these were much higher than those in the clams, the clam tended to highly accumulate Mn, V, and
Cr and these levels were higher than those in oysters. Comparison of heavy metal concentrations in these
species between sites was discussed to determine the poteintial metal contamination in the study areas. The
study suggested that these bivalve species are good biomonitors for water quality in Haiphong coast in
particular and the North Vietnam coast in general.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 606 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hàm lượng một số kim loại nặng trong hàu đá (saccostrea glomerata) và ngao (meretrix lyrata) vùng biển ven bờ Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
268
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 3; 2013: 268-275
ISSN: 1859-3097
HÀM LƯỢNG MỘT SỐ KIM LOẠI NẶNG TRONG HÀU ĐÁ
(SACCOSTREA GLOMERATA) VÀ NGAO (MERETRIX LYRATA)
VÙNG BIỂN VEN BỜ HẢI PHÒNG
Lê Quang Dũng
Viện Tài nguyên và Môi trường biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
246 Đà Nẵng, Ngô Quyền, Hải Phòng, Việt Nam
Email: dunglq@imer.ac.vn
Ngày nhận bài: 7-8-2012
TÓM TẮT: Nhằm tìm hiểu hiện trạng ô nhiễm kim loại nặng (KLN) tại vùng biển ven bờ Hải Phòng, hàm
lượng các kim loại nặng (As, Cd, Mn, Cr, Co, Cu, Pb, V và Zn) trong mô Hàu đá (Saccostrea glomerata) và
ngao (Meretrix lyrata) đã được xác định tại Phù Long, Đồ Sơn, Quần Mục vào tháng 3 năm 2012. Trong số
các KLN nghiên cứu, Zn, Cu, Mn và As là những nguyên tố có hàm lượng cao trong mô của cả hai loài. Mặc
dù mỗi loài có khả năng tích lũy các KLN với hàm lượng khác nhau, hàu đá có khả năng tích lũy rất cao Zn,
Cu và Cd, và hàm lượng các KLN này cao hơn nhiều lần so với ngao trong cùng điểm nghiên cứu. Trong khi
đó, ngao có khả năng hấp thu V, Mn và Cr cao hơn so với hàu. So sánh hàm lượng KLN trong cả ngao và hàu
giữa hai điểm nghiên cứu được đưa ra bàn luận nhằm xác định rủi ro ô nhiễm kim loại nặng của vùng nghiên
cứu. Kết quả nghiên cứu đã xác định được hai loài sinh vật thân mềm này là sinh vật quan trắc (biomonitor)
quan trọng nhằm theo dõi chất lượng môi trường vùng biển ven bờ Hải Phòng nói riêng và miền Bắc Việt Nam
nói chung.
Từ khóa: kim loại nặng, ngao, hàu, ô nhiễm.
MỞ ĐẦU
Chất lượng môi trường đang suy giảm nghiêm
trọng trong thời gian gần đây, đặc biệt môi trường
biển ven bờ. Các chất ô nhiễm từ các hoạt động của
con người được thải vào môi trường đã và đang tích
tụ với nồng độ ngày càng cao, đặc biệt là kim loại
nặng (KLN) [10]. Các chất ô nhiễm bị rửa trôi
xuống các thủy vực xung quanh, một phần chúng
tích tụ lại thủy vực, một phần bị rửa trôi theo các
dòng chảy sông, ngòi đổ vào vùng biển ven bờ. Đây
là nơi thường chịu tác động nhiều nhất của các
nguồn thải do con người như các nguồn từ lục địa,
tại chỗ hoặc từ biển đưa vào. Trong khi đó, vùng
biển ven bờ là nơi tập trung sự phong phú của các
loài sinh vật thủy sinh, các bãi giống và bãi đẻ tự
nhiên và cũng chính là nơi cung cấp nguồn thực
phẩm dồi dào cho con người. Những ảnh hưởng của
chất ô nhiễm đến ở vùng biển ven bờ không những
đến sự sinh trưởng và phát triển của sinh vật, mất đa
dạng sinh học, mà còn tác động đến sức khỏe và đời
sống của người dân vùng ven biển khi tiêu thụ thực
phẩm ô nhiễm. Bên cạnh đó, do sinh vật thủy sinh
tích lũy các chất ô nhiễm trong môi trường qua
nước, trầm tích và thức ăn, hàm lượng các chất ô
nhiễm tích lũy trong sinh vật thường phản ánh chất
lượng môi trường chúng sinh sống. Tuy nhiên, mỗi
loài sinh vật thủy sinh khác nhau có khả năng tích
lũy cũng như đào thải các ô nhiễm khác nhau và
ngưỡng hàm lượng tích lũy chất ô nhiễm tác động
và gây chết trong mỗi loài sinh vật là khác nhau.
Điều này cho thấy một số loài sinh vật có thể được
lựa chọn làm sinh vật giám sát (biomonitor) môi
trường nhằm đánh giá chất lượng môi trường. Tuy
Hàm lượng một số kim loại nặng trong Hàu Đá
269
nhiên phát hiện và lựa chọn được sinh vật tối ưu làm
giám sát sinh học là không đơn giản, do tính đa
dạng sinh học cao ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Hàu đá (Saccostrea glomerata) và ngao
(Meretrix lyrata) là hai loài ăn lọc, sống cố định ở
vùng triều và dưới triều, chúng phân bố khá phổ
biến dọc dải ven biển Việt Nam. Trong khi nhiều
nghiên cứu tập trung vào hiện trạng hàm lượng các
KLN trong ngao không chỉ có miền Bắc, mà hầu hết
các vùng ven biển của Việt Nam như miền Trung và
vùng châu thổ sông Mêkong [4, 14, 16], các nghiên
cứu ở phía Bắc chỉ tập trung vào một vài KLN có
độc tính như Pb, Cd và Hg, các KLN khác hầu như
chưa được quan tâm. Trái ngược với ngao, hàu đá
(Saccostrea glomerata) là đối tượng ít được quan
tâm nghiên cứu tích lũy ô nhiễm, những thông tin về
tích lũy KLN trong hàu đá hầu như không có, trong
khi đó trên thế giới hàu (Saccostrea sp) là một trong
loài thân mềm quan trọng và được xem là sinh vật
giám sát chất lượng môi trường vùng biển ven bờ
[19].
Do vậy, nghiên cứu này tập trung đánh giá hàm
lượng các KLN (As, Cd, Mn, Cr, Co, Cu, Pb, V và
Zn) trong mô hai loài thân mềm là hàu đá
(Saccostrea glomerata) và ngao (Meretrix lyrata),
nhằm xác định loài sinh vật làm giám sát cho chất
lượng nước biển ven bờ Hải Phòng.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thu mẫu
Mẫu sinh vật (ngao và hàu) được thu vào đợt
triều kiệt tháng 3 năm 2012. Trong khi hàu bám trên
đá được thu bằng búa và đục vùng thấp triều tại 2
điểm: Phù Long (Cát Bà) và khu I Đồ Sơn, ngao
được thu tại vùng nuôi ngao tại 2 điểm Phù Long
(Cát Bà) và Quần Mục (Đại Hợp). Vị trí các địa
điểm thu mẫu được trình bày trong hình 1. Do quá
trình tích lũy KLN trong sinh vật có thể phù thuộc
vào kích thước, trọng lượng và độ tuổi, vì vậy hàu
được chọn các cá thể có cùng kích cỡ, mỗi điểm lấy
khoảng 40 - 50 cá thể. Cũng tương tự nhu hàu, ngao
được thu khoảng 40 - 50 cá thể tại mỗi điểm nghiên
cứu có cùng kích cỡ và thời gian thả giống trên
vùng thấp triều. Mẫu ngao được rửa sạch bùn cát
bám tại vùng thu mẫu trước khi được bảo quản ở
50C trong quá trình vận chuyển và được giữ lạnh ở
-150C trong phòng thí nghiệm cho đến khi phân tích.
Hình 1. Sơ đồ thu mẫu vùng biển ven bờ Hải Phòng
Quần Mục
Đồ Sơn
Phù Long
Điểm thu mẫu ngao Điểm thu mẫu hàu
Lê Quang Dũng
270
Chuẩn bị mẫu
Các dụng cụ tiến hành tách mẫu làm bằng
plastic và được ngâm rửa trong axit HNO3 4M và
nước tinh lọc (milli-Q) nhằm tránh nhiễm kim loại
nặng trong quá trình phân tích. Mẫu 2 loài thân
mềm sau khi rã đông được đo kích thước vỏ (chiều
dài, ngang và cao) và cân trọng lượng toàn thân. Sau
khi tách vỏ, mẫu sinh vật được cân khối lượng tươi
và cân lại sau khi xấy khô nhằm xác định độ ẩm của
mẫu. Do hàu đá có khối lượng tươi nhỏ, lựa chọn 4
cá thể hàu có cùng khối lượng trộn thành một mẫu
tại mỗi điểm nghiên cứu. Trái lại, ngao có đủ khối
lượng cho phân tích, được lựa chọn nghiên cứu tích
lũy KLN độc lập từng cá thể.
Phương pháp phân tích mẫu
Phân tích mẫu được thực hiện theo mô tả của
Dũng (2009). Phương pháp phân tích được mô tả
khái quát như sau: Cân một lượng chính xác 100mg
mẫu khô đã nghiền mịn vào bom teflon, sau đó cho
thêm 1,5ml HNO3 vào bom để thực hiện quá trình tự
phân hủy vô cơ trong điều kiện phòng từ 6- 8 tiếng.
Sau đó bom teflon được nắp chặt để đun bằng lò vi
sóng ở 200W trong 8 phút liên tục và được làm lặp
lại 3 lần mỗi lần cách nhau 3-4 tiếng. Sau quá trình
đun mẫu, các bom được làm mát ở 5-10ºC trong
vòng 5-8 tiếng nhằm giảm áp suất bên trong trước
khi mở nắp. Sau khi mở bom, mẫu được pha loãng
bằng nước tinh khiết (milli-Q) định mức đến 40ml.
Trước khi đo bằng máy khối phổ plasma cảm ứng
(ICP-MS), dung dịch mẫu được lọc qua bộ lọc nhựa
(0,45μm) và thêm vào dung dịch chuẩn trong gồm
Sc, In và Bi. Các kim loại nặng gồm As, Cd, Mn,
Cr, Co, Cu, Pb, V và Zn được xác định bằng phương
pháp khối phổ plasma cảm ứng (ICP-MS) trên máy
ELAN 9000 Perkin Elmer (USA). Độ chính xác của
phương pháp phân tích được kiểm tra bằng mẫu
kiểm chuẩn DORM 3 (Ủy ban nghiên cứu quốc gia
Canada). Tỉ lệ thu hồi mẫu sau phân tích đạt từ 82 -
109%.
Phân tích thống kê
Đơn vị biểu diễn hàm lượng các KLN trong
mẫu là mg/kg khô. Các số liệu được tính toán bằng
phần mềm Microsoft excel và số liệu được chuyển
đổi logarit nếu không theo hàm phân phối chuẩn
trước khi so sánh thống kê giữa các điểm thu mẫu
bằng phần mềm Statistica 7.0.
KẾT QUẢ
Kích thước và trọng lượng của 2 loài thân mềm
Kích thước và trọng lượng của 2 loài sinh vật
nghiên cứu được trình bày trong bảng 1. Trọng
lượng và kích thước của ngao giữa hai điểm nghiên
cứu khá đồng đều và không có sự khác biệt lớn (α =
0,05), tại khu vực Phù Long, ngao có kích thước
trung bình là 36.89 ± 0.80 mm và trọng lượng trung
bình 13.61 ± 2,18 g , và tại điểm Quần Mục lần
lượt là 34.83 ± 1.20 mm và 14.60 ± 1,63 g. Khác với
ngao, hàu đá bám chồng lên nhau và hình dáng vỏ
ngoài phức tạp, do vậy các cá thể hàu được tách vỏ
và cân trọng lượng tươi. Khối lượng tươi tổng số
của hàu tại 2 điểm nghiên cứu cũng khá tương đồng,
tại điểm Phù Long là 0.93 ± 0.30 g và tại điểm Đồ
Sơn là 0.91 ± 0.22 g.
Bảng 1. Kích thước và khối lượng của Hàu đá (S. glomerata) và Ngao (M. lyrata)
Tên loài Địa điểm Khối lượng cả vỏ (g) Chiều dài vỏ (mm) Khối lượng thịt tươi (g)
S. glomerata (n=32) Phù Long - - 0,93 ± 0,30
S. glomerata (n=32) Đồ Sơn - - 0,91 ± 0,22
M. lyrata (n=8) Phù Long 13,61 ± 2,18 36,89 ± 0,80 -
M. lyrata (n=8) Quần Mục 14,60 ± 1,63 34,83 ± 1,20 -
Hàm lượng KLN trong mô 2 loài thân mềm.
Hàm lượng KLN trong mô 2 loài thân mềm
được trình bày trong bảng 2. Trong số KLN nghiên
cứu, các kim loại: Zn, Cu, Mn và As có hàm lượng
cao trong cả 2 loài thân mềm, trái lại các KLN khác
như Cd, Co, Cr, Pb và V có hàm lượng thấp hơn.
Tuy nhiên, mỗi loài có khả năng tích lũy KLN khác
nhau. Đối với ngao, xu thế hàm lượng KLN tích lũy
như sau Zn > Mn > Cu > As > V > Co > Cr > Pb >
Cd, trong khi đó hàu có xu hướng tích lũy từ Zn >
Cu > As ≈ Mn > Cd > V > Co > Pb > Cr.
Hàm lượng một số kim loại nặng trong Hàu Đá
271
Bảng 2. Hàm lượng kim loại nặng trong mô hai loài thân mềm (mg/kg)
Kim loại
Ngao Hàu
GHCP
Phù Long (n=8) Quần Mục (n=8) Phù Long (n=8) Đồ Sơn (n=8)
As 10,65 ± 2,65 11,54 ± 4,71 28,58 ± 2,44 11,98 ± 1,02 1
Cd 0,78 ± 0,25 1,15 ± 0,24 4,58 ± 0,86 5,85 ± 1,49 1
Co 2,95 ± 0,42 3,67 ± 1,05 2,45 ± 1,03 1,29 ± 0,36 -
Cr 2,10 ± 0,23 2,33 ± 1,14 0,71 ± 0,28 0,80 ± 0,33 -
Cu 13,14 ± 6,55 10,57 ± 5,56 478,3 ± 214,3 654,9 ± 108,0 30
Mn 39,48 ± 12,00 29,42 ± 12,52 20,14 ± 2,86 15,99 ± 4,35 -
Pb 1,31 ± 0,53 1,08 ± 0,71 1,23 ± 0,09 1,36 ± 0,62 1,5
V 6,10 ± 2,29 2,57 ± 2,10 3,78 ± 0,74 1,41 ± 0,96 -
Zn 60,14 ± 4,54 58,18 ± 7,48 885,3 ± 132,1 902,1 ±110,1 100
GHCP: Giới hạn cho phép theo 43/2007/QĐ-BYT
- : chưa có mức GHCP từ Bộ Y tế
Có sự khác biệt lớn của Cu và Zn tích lũy trong
mô giữa hai loài nghiên cứu: hàu đá có khả năng
tích lũy Cu và Zn với hàm lượng cao và cao hơn 10
lần so với ngao. Thêm vào đó, hàm lượng Cd trong
hàu cao hơn 4-5 lần trong ngao (α<0,05). Trái lại,
Cr, Mn và V trong ngao tích lũy cao hơn trong hàu
(α<0,05), các KLN khác như As, Co và Pb có hàm
lượng trong hai loài không có sự khác biệt nhiều
(hình 2).
Hình 2. Sự khác biệt về hàm lượng KLN trong mô của 2 loài ngao và hàu
So sánh hàm lượng KLN trong sinh vật giữa các
điểm nghiên cứu
Đối với ngao, kết quả so sánh chỉ ra rằng chỉ có
2 kim loại nặng có sự khác biệt ý nghĩa thống kê
giữa 2 điểm nghiên cứu là Cd và V (hình 3A).
Trong đó hàm lượng Cd phát hiện tại Quần Mục cao
hơn so với Phù Long (α<0,05), trái lại hàm lượng V
phát hiện tại Phù Long cao hơn so với Quần Mục.
Các kim loại nặng còn lại có hàm lượng khác nhau
trong ngao tại 2 điểm nghiên cứu nhưng không lớn.
Hình 3. Sự khác biệt hàm lượng KLN tích lũy trong Ngao (A) và Hàu (B) giữa các điểm nghiên cứu
m
g/
kg
A B
m
g/
kg
A B
Lê Quang Dũng
272
Đối với hàu, cũng tương tự như ngao, vanadi
(V) trong mô của chúng thu ở địa điểm Phù Long
cao hơn so với Đồ Sơn (α < 0,05). Trong khi đó, Cd
có hàm lượng chênh lệch giữa hai điểm nghiên cứu,
nhưng không lớn. Ngoài ra, hàm lượng As tại điểm
Phù Long cao hơn so với khu vực Đồ Sơn (α< 0,05),
trong khi đó các KLN khác có hàm lượng trong hàu
tại hai điểm là không có sự khác biệt (hình 3B).
So sánh hàm lượng KLN trong mô của 2 loài sinh
vật với giới hạn cho phép về an toàn thực phẩm
của Bộ Y tế (BYT) và một số nước khác trên thế
giới.
Theo quy định 43/2007/QĐ-BYT về giới hạn
tối đa ô nhiễm sinh học và hóa học trong thực phẩm
của Bộ Y tế trong thực phẩm và theo quy chuẩn kỹ
thuật Quốc Gia đối với giới hạn ô nhiễm KLN trong
thực phẩm (QCVN 8-1: 2011/BYT), hàm lượng giới
hạn cho phép (GHCP) của một số KLN như As, Cd,
Pb, Cu, và Zn được trình bày trên bảng 2. Kết quả
so sánh cho thấy phần lớn hàm lượng các KLN
trong ngao ở khu vực đều dưới ngưỡng GHCP,
ngoại trừ As. Tuy nhiên phần lớn As trong sinh vật
biển tồn tại ở dạng hữu cơ dễ bị đào thải ra ngoài
chiếm khoảng hơn 80 - 90% As tổng số [7]. Như
vậy, hàm lượng As quy đổi trong nghiên cứu này
theo Liu và cs [7] rơi vào ngưỡng GHCP của BYT.
Do vậy, môi trường tại điểm nghiên cứu nuôi ngao
đang có hiện tượng ô nhiễm As.
So sánh GHCP của BYT với kết quả phân tích
của Hàu đá cho thấy phần lớn hàm lượng các KLN
đã vượt ngưỡng, ngoại trừ Pb (bảng 2). Đặc biệt,
hàm lượng Cd, Cu và Zn trong mô Hàu cao hơn rất
nhiều so với GHCP, tuy nhiên do khả năng tích lũy
cao tự nhiên những KLN này của hàu (xem phần
thảo luận bên dưới) từ môi trường xung quanh. Do
vậy, kết quả nghiên cứu này khuyến cáo việc hạn
chế sử dụng hàu đá trong bữa ăn hàng ngày của
người dân vùng ven biển Hải Phòng.
THẢO LUẬN
Thuật ngữ KLN được biết đến như các chất ô
nhiễm gây tác động tiêu cực cho cơ thể sống, tuy
nhiên nhiều nguyên tố kim loại có vai trò quan trọng
trong các quá trình sinh hóa của cơ thể sống như Cu,
Zn, Co, Mn, chúng chỉ thực sự tác động đến sinh
vật với hàm lượng tích lũy lớn vào cơ thể từ môi
trường. Một số khác không đóng vai trò quan trọng
trong cơ thể sinh vật và gây tác động tiêu cực ở
nồng độ rất thấp như Cd, Hg, Pb. Trong cả 2 loài
thân mềm nghiên cứu, 3 nguyên tố Zn, Cu và Mn có
hàm lượng cao nhất, đây là 3 nguyên tố kim loại
thiết yếu cho các quá trình hóa sinh diễn ra trong có
thể sống. Eisler [2] cho rằng hàm lượng các KLN
như Zn, Cu và Mn thường cao trong các loài thân
mềm ăn lọc như vẹm, hàu, trai đặc biệt là Zn do
khả năng tích lũy Zn trong cơ thể sinh vật từ môi
trường không giới hạn và có thể vượt quá nhu cầu
cần thiết của chúng. Khi so sánh với kết quả nghiên
cứu của Tú [16] trên loài ngao M. lyrata khu vực
miền Nam và Nam Trung Bộ. Zn, Cu, và Mn
thường phát hiện với hàm lượng tích lũy cao tại các
điểm nghiên cứu. Thêm vào đó, sự tích lũy đặc biệt
cao của Zn và Cu trong hàu và hàm lượng này cao
hơn rất nhiều so với ngao còn liên quan đến khả
năng cô lập Zn và Cu trong bạch cầu của hàu, điều
này trái ngược với vẹm và ngao, sự tích lũy hai kim
loại diễn ra trong lipofuschin có chứa các túi
granule [19]. Wayne và cs [19] cũng phát hiện rằng
Zn tích lũy cao nhất ở màng áo hàu, hàm lượng Zn
có thể lên khoảng 3.182 ± 983mg/kg khô, trong khi
đó mô thịt tích lũy Zn thấp nhất. Mặc dù Mn cũng là
nguyên tố thiết yếu cho cơ thể, những hiểu biết hiện
nay về vai trò của Mn trong các loài thân mềm hai
mảnh vỏ còn nhiều hạn chế. Vinogradov [18] cho
rằng Mn trong các loài thân mềm hai mảnh vỏ có
vai trò tham gia quá trình hô hấp như nhân đồng là
hemocyanin và sắt là haemoglobin. Tuy nhiên,
Merian [8] cho rằng Mn là một phần của các
enzyme và cùng tham gia vào các phản ứng hóa sinh
trong cơ thể như một số enzym arginase,
oxidoreductases, transferases, hydrolases, ... Bên
cạnh đó, cả 3 KLN này không có sự khác biệt lớn
giữa 2 điểm nghiên cứu, mặc dù Phù Long nằm gần
các khu nuôi trồng thủy sản và công nghiệp hơn so
với Quần Mục và Đồ Sơn. Sự chênh lệch không rõ
nét của 3 nguyên tố này tại hai điểm nghiên cứu có
thể liên quan đến chất lượng môi trường nền khu
vực đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Coban (Co) cũng là một trong những kim loại
thiết yếu cho cơ thể sinh vật, không giống với 3 kim
loại kể trên, Co có hàm lượng tích lũy thấp hơn rất
nhiều. Hàm lượng Co giữa hai loài cũng như 2 điểm
nghiên cứu không có sự khác biệt, hơn nữa hàm
lượng Co này tương đương với kết quả nghiên cứu
của Tú [16] trên loài ngao M. lyrata và nghiên cứu
của Scanes và Roach [13] trên hàu Saccostrea
commercialis khu vực không ô nhiễm. Như vậy hàm
lượng Co tích lũy trong 2 loài hàu và ngao phản ánh
nhu cầu sử dụng Co cho cơ thể sống hơn so với tác
động từ môi trường khu vực nghiên cứu.
Hàm lượng một số kim loại nặng trong Hàu Đá
273
Các KLN như As, Cd và Pb là nguyên tố không
đóng vai trò thiết yếu cho cơ thể sống, sự xuất hiện
những KLN này trong cơ thể sinh vật sẽ phản ánh
hiện trạng chất lượng môi trường xung quanh sinh
vật, đặc biệt sinh vật thủy sinh. Xu thế tích lũy của 3
KLN này trong 2 loài sinh vật là khá giống nhau tại
hai điểm nghiên cứu. Tuy nhiên, sự tích lũy As
trong ngao không phản ánh rõ nét sự khác biệt giữa
2 điểm nghiên cứu, trong khi đó hàu phản ánh rõ sự
khác biệt. Sự khác biệt này có thể liên quan đến
nguồn phát thải ô nhiễm tại điểm Phù Long gần khu
nuôi trồng thủy sản và công nghiệp. Trái lại, điểm
Đồ Sơn khá xa khu vực công nghiệp tại Hải Phòng,
chất lượng môi trường chủ yếu chịu tác động từ hoạt
động dân sinh và du lịch. Hàm lượng As tích lũy
trong 2 loài thân mềm là khá cao tại hai điểm nghiên
cứu. As phân bố phổ biến trong môi trường tự
nhiên, đặc biệt vùng nước ngọt. Khác với sinh vật
thủy sinh trong nước ngọt có khả năng tích lũy As
có nguồn gốc từ tự nhiên, hàm lượng As ở sinh vật
biển thường liên quan đến các chất ô nhiễm do con
người sử dụng trong công nghiệp và hóa chất bảo vệ
thực vật. As tích lũy trong sinh vật biển gồm cả vô
cơ và hữu cơ, trong đó dạng vô cơ có độc tính cao
và gây tác động tiêu cực đối với sinh vật. Nghiên
cứu trước đây chỉ ra rằng phần lớn As tích lũy trong
sinh vật hai mảnh vỏ là arsenobetaine và dạng vô cơ
tồn tại chỉ chiếm cao nhất khoảng 22% của As tổng
số trong hàu và vẹm [17]. Thêm vào đó, nghiên cứu
của Liu và cs [7] chỉ ra rằng hàm lượng As vô cơ
tích lũy ở ngao M. lusoria vào khoảng 13,5% trong
As tổng số. Như vậy, nếu As vô cơ trung bình khoảng
12 - 15% trong tổng số As tích lũy trong hàu và ngao,
thì hàm lượng As trong nghiên cứu này khá cao và có
nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng khi sử
dụng hàu và ngao làm thức ăn thường xuyên.
Cadmium (Cd) được phát hiện với hàm lượng
khá cao trong hàu hơn so với ngao tại 2 điểm nghiên
cứu. Fang và cs [3] cũng cho rằng hàu Crassostrea
rivularis tích lũy Cd cao hơn nhiều so với vẹm xanh
Perna viridis và ngao Ruditapes philippinarum
trong cùng điểm nghiên cứu. Nghiên cứu của
Cheung [1] kết luận rằng hàu Crassostrea gigas tích
lũy Cd với hàm lượng rất cao tại Lau Fau Shen,
Hong Kong, mặc dù nồng độ Cd trong nước đo
được là thấp. Điều này cho thấy khả năng hấp thu
cao Cd của hàu từ môi trường xung quanh [1]. Bên
cạnh đó, sự khác biệt hàm lượng Cd giữa 2 điểm
nghiên cứu có thể liên quan đến nguồn gốc phát thải
từ việc sử dụng lượng lớn phân bón của hoạt động
nông nghiệp, đặc biệt là phân bón bổ sung
phosphate có chứa một lượng nhỏ Cd trong đó [11].
Trên thực tế, Quần Mục nằm gần vùng của sông
Văn Úc, là khu vực chịu ảnh hưởng chủ yếu từ hoạt
động nông nghiệp của thành phố Hải Phòng. Quá
trình rửa trôi từ đồng ruộng xuống các con sông và
dòng nước mang các chất ô nhiễm ra vùng biển ven
bờ sẽ ảnh hưởng chất lượng khu vực này.
Không giống Cd và As, hàm lượng chì (Pb)
trong cả ngao và hàu khá tương đồng giữa 2 loài và
2 địa điểm nghiên cứu. So sánh với một số nghiên
cứu trên ngao Meretrix. spp khác, hàm lượng Pb
trong nghiên cứu này cao hơn so với nghiên cứu của
Tú [16] khu vực châu thổ sông Mêkong và tương
đương với hàm lượng Pb tại vịnh Văn Phú và Văn
Phong (Khánh Hòa). Hà và cs [4] công bố kết quả
hàm lượng Pb tích lũy cao trong ngao dầu M.
meretrix tại sông Hàn (Đà Nẵng) (1,59 ± 0,31mg/kg
khô), hàm lượng này cao hơn với kết quả nghiên
cứu này. Thêm nữa, Hà và cs [4] cũng cho rằng sự
tích lũy Pb có thể còn phụ thuộc vào kích thước và
trọng lượng cơ thể. Như vậy, hàm lượng Pb cao trong
cả 2 loài cho thấy rủi ro tiềm ẩn của ô nhiễm Pb trong
môi trường và sinh thái khu vực nghiên cứu.
Vanadium (V) là một trong những nguyên tố
khá phổ biến trên lớp vỏ trái đất (0,2%) và V cũng
là nguyên tố vi lượng cần thiết cho một số loài sinh
vật [8]. Tuy nhiên do việc khai thác dầu thô và đốt
nhiên liệu hóa thạch là những nguồn phát thải chính
làm tăng nhanh hàm lượng V trong môi trường biển
[9]. Hiện có ít nghiên cứu về tích lũy V trong sinh
vật thủy sinh, đặc biệt là nhóm thân mềm. Một số
nghiên cứu chỉ ra rằng sự tích lũy cao V trong sinh
vật biển liên quan đến nguồn phát thải ô nhiễm
trong môi trường từ các hoạt động cảng biển, khu
công nghiệp hóa dầu, khu chế xuất titan, phế thải từ
công nghiệp luyện thép [5]. V có thể gây độc đối
với sinh vật ở nồng độ cao và độc tính của V tăng
lên phụ thuộc vào dạng oxi hóa của nó. Kết quả
nghiên cứu trên 2 loài ngao và hàu đều chỉ ra rằng
hàm lượng V tại điểm Phù Long cao hơn so với
Quần Mục và Đồ Sơn. Như vậy, hàm lượng V trong
ngao và hàu tăng cao tại khu vực Phù Long phản
ánh rõ nét nguồn thải V từ hoạt động con người đưa
vào môi trường. Trên thực tế điểm Phù Long nằm
gần cửa Lạch Huyện là nơi có nhiều loại tàu biển
trọng tải lớn như tàu trở dầu, than đá, du lịch, tàu
khách, qua lại tấp nập hàng ngày. Các hoạt động
vận tải thủy qua khu vực này có thể là nguyên nhân
chính gây tăng hàm lượng V tích lũy trong sinh vật
từ môi trường.
Lê Quang Dũng
274
Không giống với các nguyên tố kim loại khác,
Chromium (Cr) được xem là nguyên tố vi lượng cho
một số ít loài sinh vật. Cr có hai dạng chính là Cr
hóa trị III và VI, dạng Cr hóa trị III có nguồn gốc tự
nhiên, tích lũy trong cơ thể sống và chúng tham gia
vào một số phản ứng hóa sinh trong tế bào; dạng Cr
hóa trị VI có độc tính cao, có thể gây đột biến gen,
gây ung thư nguồn gốc của Cr VI là từ các hoạt
động công nghiệp như mạ crom, luyện thép [8].
Hàm lượng Cr trong mô ngao và hàu trong nghiên
cứu này ở dạng tổng số. Do vậy khó có thể phân biệt
được dạng Cr tồn tại trong cơ thể sinh vật. So sánh
với nghiên cứu của Tú [16], hàm lượng Cr tích lũy
trong ngao và hàu của nghiên cứu này đều cao hơn,
sự khác biệt này có thể liên quan đến hàm lượng Cr
trong môi trường nền giữa hai vùng nghiên cứu. Do
hàm lượng Cr trong cả 2 loài tích lũy trong 2 vùng
nghiên cứu là không có sự chênh lệch đáng kể. Hơn
nữa, Papadopoulu [12] cho rằng những loài hai
mảnh vỏ có khả năng hấp thu cao Cr trong môi
trường, hàm lượng Cr trong cả 5 loài hai mảnh vỏ ở
một vài vùng nước tại Hy Lạp cao hơn 16.000 đến
260.000 lần nồng độ Cr trong nước. Nghiên cứu này
cũng chỉ ra không có phát hiện ảnh hưởng đến sức
khỏe con người khi tiêu thụ các loài hai mảng vỏ có
tích lũy cao Cr.
KẾT LUẬN
Ngao và hàu đá đều có khả năng tích lũy cao
các kim loại nặng, sự khác biệt về hàm lượng KLN
trong hai loài giữa hai điểm nghiên cứu đều phản
ánh mối liên quan đến hiện trạng chất lượng môi
trường xung quanh chúng, đặc biệt các kim loại
nặng có độc tính cao như Cd, Pb và As. Hàm lượng
cao của Cd, Pb và As trong cả hai loài tại khu vực
nghiên cứu cho thấy bắt đầu xuất hiện mức độ rủi ro
ô nhiễm KLN trong môi trường.
Bên cạnh đó, hàm lượng KLN Cu, Zn và Cd
trong mô hàu đá đặc biệt cao, cần hạn chế sử dụng
hàu đá trong bữa ăn hàng ngày của người dân vùng
ven biển nhằm tránh rủi ro về an toàn thực phẩm.
Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy cả ngao
và hàu đá đều là sinh vật phù hợp cho chương trình
quan trắc đánh giá chất lượng môi trường theo thời
gian tại vùng biển ven bờ Hải Phòng nói riêng và
miền Bắc Việt Nam nói chung.
Lời cám ơn: Tác giả xin chân thành cảm ơn các bạn
đồng nghiệp tại Trạm biển Đồ Sơn đã giúp đỡ trong
quá trình thực hiện nghiên cứu. Tác giả xin chân
thành cảm ơn TS. Lưu Văn Diệu đã có có nhiều
nhận xét và góp ý xây dựng để hoàn thiện bài báo
này. Nghiên cứu này nhận được sự hỗ trợ kinh phí
từ đề tài cấp Viện Khoa học và Công nghệ Việt
Nam mã số VAST.ĐL.06/12-13.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cheung Y. H., Wong M.H., 1992. Comparison
of trace metal contents of sediments and
mussels collected within and outside Tolo
Harbor, Hong Kong. Environmental
Management, 16 (6): 743-751
2. Eisler R, 1981. Trace metal concentrations in
marine organisms. Pergamon Press, New York.
3. Fang Z., Cheung R. Y. H. 1 , Wongm. H., 2003.
Heavy metals in oysters, mussels and clams
collected from coastal sites along the Pearl
River Delta, South China. Journal of
Environmental Sciences, 15 (1): 9-24, 2003.
4. Phạm Thị Hồng Hà, Nguyễn Văn Khánh, Lê Thị
Quế, 2009. Nghiên cứu tích lũy kim loại nặng
chì (Pb) và cadmium (Cd) ở Sò lông (Anadara
subcrenata Lischke) và Ngao dầu (Meretrix
meretrix Linnaeus) vùng cửa sông, thành phố
Đà Nẵng. Tạp chí Sinh học 31 (3): 87-93.
5. Herber R. F. M., Stoeppler M., 1994. Trace
element analysis in biological specimens.
Techniques and instrumentation in analytical
chemistry, Vol 15: 527-537.
6. Le Q. Dung, Shirai K., Nguyen D. C., Miyazaki
N., Arai T., 2009. Heavy metals in tropical eel
Anguilla marmorata from the central part of
Vietnam. Water, Air, and Soil Pollution, 204,
69-78.
7. Liu C. W., Liang C. P., Lin K. H., Jang C. S.,
Wang S. W., Huang Y. K., Hsueh Y. M., 2007.
Bioaccumulation of arsenic compounds in
aquacultural clams Meretrix lusoria and
assessment of potential carcinogenic risks to
human health by ingestion. Chemosphere, 69:
128-134.
8. Merian E., 1991. Metals and their compounds
in the Environment: Occurrence, analysis and
biological relevance. Weinheim, New York,
Basel and Cambridge.
9. Metwalli, M. E. S., Al-Muzaini, S., Jacob, P. G.,
Bahloul, M., Urushigawa, Y., Sato, S.,
Matsmura, A., 1997. Petroleum hydrocarbons
and related heavy metals in the near-shore
Hàm lượng một số kim loại nặng trong Hàu Đá
275
marine sediments of Kuwait. Environ. Int. 23,
115-121.
10. Đặng Hoài Nhơn, Nguyễn Thị Kim Anh, Nguyễn
Mai Lựu, Nguyễn Ngọc Anh, Lê Xuân Sinh,
2010. Kim loại nặng trong trầm tích tầng mặt
ven bờ miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1999-
2009. Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường
biển, tập 15, 173-184.
11. Ngo Ngoc Hung, Nguyen Bao Ve, Buresh R. J.,
Bayley M., Watanabe T., 2005. Sustainability of
paddy soil fertility in Vietnam. Session 12:
Conservation of soil, water, and environment in
rice cultures.
wrrc/wrrcPDF/session12-02.pdf.
12. Papadopoulu, C., 1973. The elementary
composition of marine invertebrates as a
contribution to the sea pollution investigation.
Proc. MAMBO meeting, Castellabate, Italy,
June 18-22, 1973. 18 pp.
13. Scanes P. R., Roach A. C., 1999. Determining
natural ‘background’ concentrations of trace
metals in oysters from New South Wales,
Australia. Environmental Pollution, 105: 437-
446.
14. Nguyễn Công Thành, Đỗ Thị Tuyết, Nguyễn
Xuân Phúc, Mai Thị Yến, 2011. Nghiên cứu sự
tích tụ kim loại trong ngao (Meretrix lyrata) ở
một số vùng ven biển Bắc Bộ. Tạp chí Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, 11, 15-23.
15. Thomson J. D., Pirie B. J. S., George S. G.,
1985. Jounal of Experiment Marine Biololgy
and Ecology, 85, 37-45.
16. Tu N. P. C., Ha N. N., Agusa T., Ikemoto T.,
Tuyen B. C., Tanabe S., Takeuchi I., 2010.
Concentrations of trace elements in Meretrix
spp. (Mollusca: Bivalva) along the coasts of
Vietnam. Fish Science, 76: 677-686.
17. Valette-Silver N. J., Riedel G. F., Crecelius E.
A., Windom H., Smith R. G., Dolvin S. S., 1999.
Elevated arsenic concentrations in bivalves
from the southeast coasts of the USA. Mar
Environ Res. 48: 311-333.
18. Vinogradov, A. P., 1953. The elementary
chemical composition of marine organisms.
Memoirs Sears Foundation for Marine
Research. New Haven, Connecticut.
19. Wayne A. R., William A. M., Frank K., John A.
N., Rosalind H., 2005. The use of the oyster
Saccostrea glomerata as a biomonitor of trace
metal contamination: intra-sample, local scale
and temporal variability and its implications for
biomonitoring.
CONCENTRATION OF TRACE METALS IN ROCKY OYSTER
(SACCOSTREA GLOMERATA) AND HARD CLAM
(MERETRIX LYRATA) IN HAIPHONG COAST
Le Quang Dung
Institute of Marine Environment and Resources-VAST
ABSTRACT: In order to understand the present status of heavy metal contamination in Haiphong coast,
rocky oyster (Saccostrea glomerata) and hard clam (Meretrix lyrata) were examined. The concentration of
nine elements (As, Cd, Mn, Cr, Co, Cu, Pb, V and Zn) was determined in whole tissues of these species from
Phu Long, Do Son and Quan Muc in March 2012. The result indicated that Zn, Cu, Mn and As were dominant
elements, whereas Co, Cr, V, Cd, Pb were minor elements in both species. The metal concentrations in these
species were apparently different. While extremely high concentrations of Zn, Cu and Cd were found in the
oysters and these were much higher than those in the clams, the clam tended to highly accumulate Mn, V, and
Cr and these levels were higher than those in oysters. Comparison of heavy metal concentrations in these
species between sites was discussed to determine the poteintial metal contamination in the study areas. The
study suggested that these bivalve species are good biomonitors for water quality in Haiphong coast in
particular and the North Vietnam coast in general.
Keywords: heavy metals, clam, oyster, contamination.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3533_11949_1_pb_0244_2079595.pdf