Như vậy, thuật ngữ “thủ trưởng trực
tiếp” tại Điều 66 Luật XLVPHC có đồng
nhất với thuật ngữ “cấp trên trực tiếp” tại
Điều 77 Luật XLVPHC hay không? Nghị
định số 97 không những không làm rõ mà
còn “đánh đồng” thuật ngữ “thủ trưởng trực
tiếp” với “cấp trên trực tiếp”18. Nếu là đồng
nhất với nhau thì khi tiến hành sửa đổi Luật
XLVPHC chỉ nên sử dụng thống nhất một
thuật ngữ pháp lý. Hơn nữa, việc sử dụng
nhiều thuật ngữ để biểu thị một nghĩa, có nội
hàm pháp lý giống nhau là hoàn toàn không
phù hợp với nguyên tắc kỹ thuật lập pháp.
Ngược lại, nếu khác nhau thì cũng không có
cơ sở cho sự phân biệt này vì Nghị định số
97 đã “ngụ ý” hai thuật ngữ này đồng nhất
với nhau.
Dưới góc độ ngôn ngữ thì “cấp trên”
là “người có chức vụ cao hơn những người
khác trong một cơ quan hay tổ chức”19, còn
“thủ trưởng” là “người đứng đầu một cơ
quan, một tổ chức”20. Khác với pháp luật
một số quốc gia quy định cho cả cấp phó
có quyền xử phạt VPHC21, ở nước ta, pháp
luật về xử phạt VPHC đề cao vai trò và trao
quyền xử phạt cho người đứng đầu. Chỉ khi
người đứng đầu giao quyền hay ủy quyền
cho cấp phó thì cấp phó mới có quyền xử
phạt. Chính vì vậy, việc giảm, miễn tiền
phạt cũng phải do “thủ trưởng trực tiếp” chứ
không đơn thuần chỉ là “cấp trên trực tiếp”
quyết định22. Ngoài ra, cũng không nên sử
dụng thuật ngữ “cấp trên” vì đây là cách
dùng từ trong văn nói. Có lẽ, nhận thấy sự
“bất ổn” này nên ngoại trừ Điều 77 và 79
sử dụng thuật ngữ “cấp trên” thì những điều
khoản khác trong Luật XLVPHC đều ưu tiên
sử dụng thuật ngữ “thủ trưởng” (Điều 18,
39, 66, 123, 125, 128, 130).
Từ phân tích trên, chúng tôi cho rằng,
Luật XLVPHC cần sử dụng thống nhất một
thuật ngữ pháp lý là “thủ trưởng trực tiếp”,
đồng thời quy định cụ thể “thủ trưởng trực
tiếp” có thẩm quyền gia hạn thời hạn ra
quyết định xử phạt VPHC và giảm, miễn
tiền phạt; đối với các chức danh có thẩm
quyền xử phạt cao nhất trong một lĩnh vực
như Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Chánh thanh
tra Bộ, Tổng cục trưởng, Luật XLVPHC cần
giao cho tập thể các cơ quan này (tập thể
UBND cấp tỉnh, Bộ, Tổng cục) quyền quyết
định việc gia hạn thời hạn ra quyết định xử
phạt VPHC và giảm, miễn tiền phạt
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hạn chế của luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 nhìn từ góc độ kỹ thuật lập pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KỸ THUẬT LẬP PHÁP1
1 Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài nghiên cứu khoa học “Thực trạng và hướng hoàn thiện một số biện pháp
khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính” do TS. Cao Vũ Minh làm chủ nhiệm.
Cao Vũ Minh*
* TS. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Tóm tắt:
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được kỳ vọng mang đến
nhiều tác động tích cực trong hoạt động đấu tranh, phòng chống
các vi phạm hành chính. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật lập pháp, nội
dung của luật này vẫn còn những hạn chế nhất định. Bài viết phân
tích, đánh giá những bất cập liên quan đến kỹ thuật lập pháp trong
các quy định của luật này, đồng thời đề xuất phương hướng hoàn
thiện.
Abstract:
The Law on Handling of Administrative Violations of 2012
has been expected to bring positive impacts in struggling and
preventing the administrative violations.
However, in terms of the legislative technique, several
particular inadequacies can be indicated in this law. This article
provides analysis and assessments of the inadequacies related
to legislative techniques in the provisions of this law and also
suggestions for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: vi phạm hành chính, hình thức
xử phạt.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 02/10/2017
Biên tập: 03/10/2017
Duyệt bài: 11/10/2017
Article Infomation:
Keywords: administrative violation,
sanctioning types.
Article History:
Received: 02 Oct. 2017
Edited: 03 Oct. 2017
Approved: 11 Oct. 2017
HẠN CHẾ CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH NĂM 2012
1. Những quy định chưa chính xác trong
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
1.1 Vấn đề khái niệm “hành vi vi
phạm hành chính”
Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 (Luật XLVPHC) quy
định: “Vi phạm hành chính (VPHC) là hành
vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC”.
Định nghĩa này thể hiện các dấu hiệu pháp
lý cơ bản của VPHC sau đây: i. hành vi, ii.
tính trái pháp luật của hành vi, iii. có lỗi,
iv. được pháp luật quy định là VPHC. Như
vậy, có thể khẳng định, VPHC là hành vi trái
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
95Số 3+4 (355+356) T02/2018
pháp luật. Do đó, không thể sử dụng thuật
ngữ “hành vi VPHC”, bởi “VPHC” trước
hết đã là hành vi và tất nhiên đây là hành vi
trái pháp luật. Đáng tiếc là Luật XLVPHC
lại nhiều lần sử dụng thuật ngữ “hành vi
VPHC”. Theo thống kê của chúng tôi, trong
Luật XLVPHC có 19 điều luật sử dụng thuật
ngữ “hành vi VPHC”2. Nếu đã thống nhất
với định nghĩa “VPHC là hành vi trái pháp
luật” thì không nên sử dụng thuật ngữ “hành
vi VPHC” vì đây là một cách lặp từ không
chính xác.
Tương tự như định nghĩa “VPHC”,
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 cũng có
định nghĩa về vi phạm hình sự - tức là tội
phạm. Theo đó, vi phạm hình sự (tội phạm)
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ mà theo quy định
phải bị xử lý hình sự. Tội phạm là hành vi
nên không thể sử dụng thuật ngữ “hành vi
tội phạm”. Một điều đáng lưu ý là tuy BLHS
năm 2015 có nhiều lỗi về kỹ thuật nhưng
tuyệt nhiên trong 426 điều của BLHS năm
2015, không có điều luật nào sử dụng thuật
ngữ “hành vi tội phạm”. BLHS năm 2015
không sử dụng thuật ngữ “hành vi tội phạm”
là chính xác về mặt ngữ nghĩa. Do đó, sự tồn
tại của thuật ngữ “hành vi VPHC” là không
có cơ sở. Nhằm đảm bảo tính chính xác của
ngôn ngữ pháp luật, cần thay thế thuật ngữ
“hành vi VPHC” bằng thuật ngữ “VPHC”.
1.2 Về những trường hợp không xử
phạt VPHC
Điều 11 Luật XLVPHC năm 2012
quy định, không xử phạt VPHC đối với các
trường hợp sau đây:
- Thực hiện hành vi VPHC trong tình
thế cấp thiết;
2 Đó là các điều 2, 3, 4, 10, 11, 12, 20, 22, 23, 27, 52, 55, 57, 59, 61, 67, 68, 125, 134 trong Luật XLVPHC.
3 Khoản 5 Điều 2 Luật XLVPHC quy định: “người không có năng lực trách nhiệm hành chính là người thực hiện hành vi
VPHC trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình”.
- Thực hiện hành vi VPHC do phòng
vệ chính đáng;
- Thực hiện hành vi VPHC do sự kiện
bất ngờ;
- Thực hiện hành vi VPHC do sự kiện
bất khả kháng;
- Người thực hiện hành vi VPHC
không có năng lực trách nhiệm hành chính;
người thực hiện hành vi VPHC chưa đủ tuổi
bị xử phạt VPHC theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 5 của Luật này.
Ngoài sự không chính xác khi sử dụng
thuật ngữ “hành vi VPHC” như đã nói thì
điều khoản trên còn có điểm sai sót về mặt
lý luận. VPHC là hành vi trái pháp luật, có
lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm hành
chính thực hiện. Trong khi đó, các trường
hợp rơi vào tình thế cấp thiết, sự kiện bất
ngờ, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất khả
kháng hay người không có năng lực trách
nhiệm hành chính, người chưa đủ tuổi bị
xử phạt VPHC thì lại không thỏa mãn đầy
đủ các dấu hiệu của VPHC. Vì vậy, những
trường hợp này không thể gọi là VPHC.
Cụ thể, người không có năng lực
trách nhiệm hành chính3, sự kiện bất ngờ,
sự kiện bất khả kháng không tồn tại yếu tố
lỗi của chủ thể. Tình thế cấp thiết, phòng vệ
chính đáng thì tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi đã bị loại trừ - tức là không
có hành vi trái pháp luật. Về hình thức, chủ
thể thực hiện hành vi trong tình thế cấp thiết
và phòng vệ chính đáng tuy có dấu hiệu của
VPHC, nhưng trong các hành vi đó có một
số tình tiết nhất định làm mất đi tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Do đó,
người thực hiện hành vi đó không bị xem là
VPHC. Ngoài ra, để có thể xem là có năng
lực trách nhiệm hành chính, cá nhân phải
đạt một độ tuổi nhất định. Nói cách khác, độ
tuổi cũng đã được quy định là điều kiện quan
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
96 Số 3+4 (355+356) T02/2018
trọng để trở thành chủ thể của VPHC. Nếu
không thỏa các dấu hiệu cấu thành VPHC
(thiếu yếu tố lỗi, hành vi trái pháp luật) thì
không phải là VPHC. Vì vậy, không thể gọi
là VPHC trong tình thế cấp thiết, phòng vệ
chính đáng, sự kiện bất ngờ, sự kiện bất
khả kháng. Theo chúng tôi, Điều 11 Luật
XLVPHC năm 2012 cần sửa đổi như sau:
“Không xử phạt VPHC đối với các
trường hợp:
1. Tình thế cấp thiết;
2. Phòng vệ chính đáng;
3. Sự kiện bất ngờ;
4. Sự kiện bất khả kháng;
5. Người thực hiện hành vi trái pháp
luật không có năng lực trách nhiệm hành
chính; người thực hiện hành vi trái pháp luật
chưa đủ tuổi bị xử phạt VPHC theo quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 5 của Luật này”.
1.3 Các biện pháp cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt VPHC
Để đảm bảo thi hành quyết định xử
phạt VPHC, khoản 2 Điều 86 Luật XLVPHC
quy định các biện pháp cưỡng chế thi hành
quyết định xử phạt trong trường hợp cá
nhân, tổ chức bị xử phạt không tự nguyện
chấp hành quyết định xử phạt bằng các biện
pháp sau:
a) Khấu trừ một phần lương hoặc một
phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản của
cá nhân, tổ chức vi phạm;
b) Kê biên tài sản có giá trị tương ứng
với số tiền phạt để bán đấu giá;
c) Thu tiền, tài sản khác của đối tượng
bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
VPHC do cá nhân, tổ chức khác đang giữ
trong trường hợp cá nhân, tổ chức sau khi vi
phạm cố tình tẩu tán tài sản.
d) Buộc thực hiện biện pháp khắc
phục hậu quả”.
Theo quy định của pháp luật, người
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng
chế theo thứ tự và chỉ áp dụng các biện
pháp tiếp theo khi không thể áp dụng các
biện pháp cưỡng chế trước đó hoặc đã áp
dụng nhưng chưa thu đủ số tiền bị cưỡng
chế. Theo chúng tôi, ba biện pháp được quy
định tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 86 Luật
XLVPHC là các biện pháp cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt VPHC. Tuy nhiên,
điểm d khoản 2 Điều 86 đưa cả quy định
“buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả” là biện pháp cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt VPHC, thì chưa thật sự thuyết
phục.
Dưới góc độ lý luận, biện pháp khắc
phục hậu quả là hình thức cưỡng chế do Nhà
nước tiến hành, buộc người VPHC phải thực
hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định nhằm
mục đích hạn chế hoặc khôi phục lại tình
trạng ban đầu do VPHC gây ra. Như vậy,
biện pháp khắc phục hậu quả là một hình
thức của cưỡng chế hành chính chứ không
phải là một hình thức hay biện pháp cưỡng
chế thi hành quyết định xử phạt VPHC. Về
mặt tính chất, việc đặt biện pháp “buộc thực
hiện biện pháp khắc phục hậu quả” bên cạnh
các biện pháp quy định tại điểm a, b, c khoản
2 Điều 86 Luật XLVPHC là khiên cưỡng. Ý
nghĩa của các biện pháp cưỡng chế thi hành
quyết định xử phạt VPHC là nhằm đảm bảo
thi hành các quyết định xử phạt VPHC trên
thực tế (ở đây, chủ yếu là các quyết định
phạt tiền). Trong khi đó, mục đích của biện
pháp “buộc thực hiện biện pháp khắc phục
hậu quả” là nhằm khôi phục lại trật tự quản
lý đã bị các VPHC xâm hại, đưa các quan hệ
pháp luật trở lại tình trạng ban đầu. Điều này
cũng được thể hiện thành nguyên tắc trong
Nghị định số 166/2013/NĐ-CP của Chính
phủ - nghị định về cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt VPHC “chỉ áp dụng các biện
pháp tiếp theo khi không thể áp dụng các
biện pháp cưỡng chế đó hoặc đã áp dụng
nhưng chưa thu đủ số tiền bị cưỡng chế theo
quyết định cưỡng chế”.
Dưới góc độ thực tiễn, xử phạt VPHC
là việc người có thẩm quyền xử phạt áp
dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc
phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực
hiện VPHC. Do đó, “quyết định xử phạt
VPHC” là văn bản chứa đựng trong đó cả
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
97Số 3+4 (355+356) T02/2018
“hình thức xử phạt” và “biện pháp khắc
phục hậu quả”. Một khi cá nhân, tổ chức
chấp hành quyết định xử phạt VPHC thì chủ
thể đó cũng đã chấp hành các hình thức xử
phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả -
tức đã có “buộc thực hiện biện pháp khắc
phục hậu quả”. Ngoại lệ vẫn có trường hợp
cá nhân, tổ chức chỉ chấp hành các hình thức
xử phạt mà không chấp hành biện pháp khắc
phục hậu quả4 và trường hợp này, người có
thẩm quyền sẽ giải quyết thế nào? Tất nhiên,
để khôi phục lại tình trạng ban đầu, người
có thẩm quyền sẽ áp dụng biện pháp “buộc
thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả” đối
với cá nhân, tổ chức không tự nguyện chấp
hành biện pháp khắc phục hậu quả. Vấn đề
có tính thực tiễn đặt ra là người có thẩm
quyền sẽ ban hành loại văn bản nào để buộc
người vi phạm phải thực hiện biện pháp
khắc phục hậu quả? Trường hợp “Quyết
định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
VPHC” được ban hành thì không hợp lý
vì thực ra người vi phạm đã chấp hành các
hình thức xử phạt, chỉ chưa chấp hành biện
pháp khắc phục hậu quả; trường hợp “Quyết
định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
VPHC” được ban hành thì cũng không hợp
lý vì loại quyết định này chỉ áp dụng cho
các trường hợp không ra quyết định xử phạt
VPHC. Vì sự không rõ ràng này mà nhiều
địa phương đã tự “thiết kế” mẫu quyết định
áp dụng trong trường hợp người vi phạm
đã chấp hành các hình thức xử phạt nhưng
không chịu chấp hành các biện pháp khắc
phục hậu quả5.
Để lấp “lỗ hổng” nêu trên, Nghị định
số 97/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày
4 Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật XLVPHC của UBND tỉnh Sóc Trăng theo Quyết định số 582/QĐ-BTP ngày
25/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch tổng kết thi hành Luật XLVPHC.
5 Quyết định số 2463/QĐ-UBND ngày 20/8/2013 của Chủ tịch UBND Thị xã Đồng Xoài - Bình Phước về việc cưỡng
chế thi hành biện pháp khắc phục hậu quả do VPHC gây ra trong hoạt động xây dựng đối với bà Vũ Thị Lâm.
6 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ sẽ có hiệu lực vào ngày 05/10/2017. Do đó, trước ngày
Nghị định này có hiệu lực, vẫn không có biểu mẫu chung để áp dụng trong trường hợp người vi phạm đã chấp hành các
hình thức xử phạt nhưng không chịu chấp hành các biện pháp khắc phục hậu quả trong quyết định xử phạt VPHC.
7 Xem thêm Mẫu quyết định số 10 trong Phụ lục một số biểu mẫu xử phạt VPHC ban hành kèm theo Nghị định số
97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ.
8 Ngô Huy Cương, Một số bất cập của Luật Trẻ em năm 2016, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 13, năm 2017.
19/7/2013 của Chính phủ6 (Nghị định số 97)
đã xây dựng một mẫu quyết định riêng về
cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc
phục hậu quả7. Mẫu quyết định này được sử
dụng để cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp
khắc phục hậu quả đối với chủ thể VPHC
mà không tự nguyện chấp hành các biện
pháp khắc phục hậu quả trong quyết định
xử phạt VPHC. Tuy nhiên, ngay cả như vậy
thì việc đặt biện pháp “buộc thực hiện biện
pháp khắc phục hậu quả” nằm “lẩn khuất”
với các biện pháp có mục đích thu được tiền
của người vi phạm là điều không hợp lý.
Theo chúng tôi, chỉ nên quy định ba biện
pháp tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 86 Luật
XLVPHC là các biện pháp cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt VPHC; tách biện
pháp “buộc thực hiện biện pháp khắc phục
hậu quả” thành một điều luật độc lập và chỉ
áp dụng trong trường hợp đối tượng bị xử
phạt không tự nguyện chấp hành các biện
pháp khắc phục hậu quả.
2. Các quy định thừa hay có sự trùng lắp
trong Luật
Thời gian gần đây, rất nhiều các văn
bản luật, trong đó có Luật XLVPHC, đã đặt
tên cho từng điều luật. Tên của điều luật
không có giá trị pháp lý (hay giá trị quy
định) mà chỉ có giá trị về tra cứu hay dẫn
chiếu8. Tuy nhiên, một khi đã chọn cách xây
dựng tên cho từng điều luật thì phải quán
triệt nguyên tắc các quy định, các khoản
trong điều luật đó phải là bộ phận cấu thành
hay là thành phần cấu tạo nên tên điều luật.
Đối chiếu với Luật XLVPHC thì tên
của nhiều điều luật đã không tuân thủ theo
kỹ thuật viết luật như trên. Đơn cử, Điều 68
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
98 Số 3+4 (355+356) T02/2018
Luật XLVPHC có ba khoản: khoản 1 quy
định về các nội dung cần phải thể hiện trong
quyết định xử phạt VPHC, khoản 2 quy
định về thời hạn thi hành quyết định xử phạt
VPHC, khoản 3 quy định về kỹ thuật ban
hành một quyết định xử phạt VPHC. Trong
khi đó, tên của cả Điều 68 Luật XLVPHC
chỉ là “Nội dung quyết định xử phạt VPHC”.
Như vậy, tên của Điều 68 chỉ khái quát được
khoản 1 Điều 68 nhưng không bao gồm
được khoản 2 và khoản 3 Điều 68.
Chúng tôi cho rằng, việc đưa khoản
2 và khoản 3 vào Điều 68 là không hợp lý
vì hai khoản này không nằm trong tên gọi
của điều luật: “Nội dung quyết định xử phạt
VPHC”. Một điều cần lưu ý là khoản 2 Điều
68 Luật XLVPHC9 lại hoàn toàn trùng với
khoản 1 Điều 73 Luật XLVPHC10; tương tự,
khoản 3 Điều 68 Luật XLVPHC11 cũng có
nội dung trùng lắp với khoản 2 và 3 Điều
67 Luật XLVPHC12. Thậm chí, tình trạng
trùng lắp còn được tìm thấy trong nhiều
điều khoản khác của Luật XLVPHC. Cụ thể,
khoản 1 Điều 78 Luật XLVPHC quy định:
“Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định xử phạt, cá nhân, tổ chức
bị xử phạt phải nộp tiền phạt tại Kho bạc
Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho
bạc Nhà nước được ghi trong quyết định xử
phạt”. Theo chúng tôi, quy định này là thừa
và không cần thiết bởi quyết định phạt tiền
chỉ là một loại quyết định xử phạt. Do đó,
thời hạn thi hành quyết định phạt tiền đã
được quy định chung trong Điều 73 về thi
hành quyết định xử phạt VPHC.
9 Khoản 2 Điều 68 Luật XLVPHC quy định: “thời hạn thi hành quyết định là 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử
phạt; trường hợp quyết định xử phạt có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó”.
10 Khoản 1 Điều 73 Luật XLVPHC quy định: “cá nhân, tổ chức bị xử phạt VPHC phải chấp hành quyết định xử phạt trong
thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử phạt VPHC; trường hợp quyết định xử phạt VPHC có ghi thời hạn thi
hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó”.
11 Khoản 3 Điều 68 Luật XLVPHC quy định: “trường hợp ban hành một quyết định xử phạt VPHC chung đối với nhiều
cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi vi phạm hoặc nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi VPHC khác
nhau trong cùng một vụ vi phạm thì nội dung hành vi vi phạm, hình thức, mức xử phạt đối với từng cá nhân, tổ chức
phải xác định cụ thể, rõ ràng”.
12 Khoản 2 và 3 Điều 67 Luật XLVPHC quy định: “trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi VPHC
thì có thể ra 01 hoặc nhiều quyết định xử phạt để quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng cá nhân, tổ chức.
Trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi VPHC khác nhau trong cùng một vụ vi phạm thì có thể ra
01 hoặc nhiều quyết định xử phạt để quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm của từng cá nhân,
tổ chức”.
3. Các quy định không nhất quán và
không rõ chủ thể thực hiện
3.1 Thẩm quyền gia hạn về thời hạn
xử phạt VPHC chưa được quy định cụ thể
Điều 66 Luật XLVPHC quy định về
thời hạn xử phạt VPHC như sau: “Người
có thẩm quyền xử phạt VPHC phải ra quyết
định xử phạt VPHC trong thời hạn 07 ngày,
kể từ ngày lập biên bản VPHC. Đối với vụ
việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không
thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với
vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61
của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử
phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên
bản”. Quy định thời hạn như vậy là cần thiết
vì từ khi lập biên bản vi phạm không phải
lúc nào các chủ thể có thẩm quyền cũng ra
quyết định xử phạt ngay được, họ cần có
thời gian để chuẩn bị, thu thập, xác minh
tài liệu nhằm đưa ra quyết định xử phạt
đúng đắn và chính xác nhất. Từ đó, pháp
luật cho phép xin gia hạn thêm 30 ngày nữa
và việc gia hạn đó phải được “thủ trưởng
trực tiếp” đồng ý bằng văn bản. Tuy nhiên,
Luật XLVPHC không quy định rõ ràng “thủ
trưởng trực tiếp” ở đây là thủ trưởng quản lý
trực tiếp hay thủ trưởng có thẩm quyền xử
phạt. Để khắc phục bất cập này, Nghị định
số 97 giải thích rõ: “Thủ trưởng trực tiếp
của người có thẩm quyền đang giải quyết vụ
việc theo quy định tại các Điều 66 Luật xử
lý VPHC là cấp trên trực tiếp trong quan hệ
hành chính đối với người đang giải quyết vụ
việc” (Điều 6e). Tuy nhiên, trường hợp Chủ
tịch UBND cấp tỉnh, Chánh Thanh tra Bộ,
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
99Số 3+4 (355+356) T02/2018
Tổng cục trưởng gia hạn thì người có thẩm
quyền gia hạn là ai?
Theo Luật Tổ chức Chính phủ năm
2015, Thủ tướng Chính phủ có quyền điều
động, đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch
UBND cấp tỉnh. Do đó, có thể xem Thủ
tướng Chính phủ là “cấp trên trực tiếp trong
quan hệ hành chính” của Chủ tịch UBND
cấp tỉnh. Vì vậy, Chủ tịch UBND cấp tỉnh
phải xin phép Thủ tướng Chính phủ. Tương
tự, Bộ trưởng là người bổ nhiệm Chánh
thanh tra Bộ13 và cũng là người bổ nhiệm
Tổng cục trưởng14. Do đó, Chánh thanh tra
Bộ và Tổng cục trưởng nếu muốn gia hạn
phải xin phép “cấp trên trực tiếp trong quan
hệ hành chính” là Bộ trưởng. Tuy nhiên,
Luật Tổ chức Chính phủ lại không quy định
thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ15, Bộ
trưởng16 về gia hạn thời hạn ra quyết định xử
phạt VPHC; Luật XLVPHC cũng không quy
định Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng có
quyền xử phạt hành chính. Vậy, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng có quyền gia hạn về
thời hạn xử phạt VPHC hay không? Câu hỏi
này vẫn chưa được trả lời.
3.2 Thẩm quyền giảm, miễn tiền phạt
không được quy định rõ ràng
Giảm, miễn tiền phạt là một quy định
thể hiện sự nhân đạo của Nhà nước trong
quá trình xử phạt VPHC. Quy định này
một mặt đảm bảo cho việc thi hành quyết
định xử phạt VPHC trên thực tế, mặt khác
thể hiện sự quan tâm, sẻ chia đối với những
cá nhân bị xử phạt rơi vào hoàn cảnh khó
khăn. Điều kiện để giảm, miễn tiền phạt là
cá nhân bị xử phạt phải có đơn đề nghị giảm,
miễn phần còn lại hoặc toàn bộ tiền phạt gửi
13 Khoản 2 Điều 17 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Chánh Thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ”.
14 Khoản 7 Điều 24 Nghị định số 123/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/9/2016 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định: “Bộ trưởng quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ
chức, đình chỉ công tác Tổng cục trưởng sau khi có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ”.
15 Điều 98 Hiến pháp năm 2013 và Điều 28 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 không quy định quyền gia hạn thời hạn ra
quyết định xử phạt hành chính của Thủ tướng Chính phủ.
16 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Nghị định số 123/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/9/2016 về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ không quy định quyền gia hạn thời hạn ra quyết định xử
phạt hành chính của Bộ trưởng.
17 Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Bình luận khoa học Luật XLVPHC (tập 2), Nxb. Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh,
2015, tr. 442.
người đã ra quyết định xử phạt. Theo quy
định của Luật XLVPHC, trong thời hạn 03
ngày, kể từ ngày nhận được đơn, người đã
ra quyết định xử phạt phải chuyển đơn kèm
hồ sơ vụ việc đến “cấp trên trực tiếp”; trong
thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được đơn,
“cấp trên trực tiếp” phải xem xét quyết định
và thông báo cho người đã ra quyết định xử
phạt, người có đơn đề nghị giảm, miễn biết.
Nếu không đồng ý với việc giảm, miễn thì
phải nêu rõ lý do. Đối với trường hợp Chủ
tịch UBND cấp tỉnh đã ra quyết định xử phạt
thì UBND cấp tỉnh đó xem xét, quyết định
việc giảm, miễn tiền phạt.
Các trường hợp miễn, giảm tiền phạt
dễ nảy sinh tiêu cực, dễ có sự “thỏa hiệp”,
“chung chi” giữa chủ thể xử phạt và người bị
xử phạt. Nếu trao cho một chủ thể nhất định cả
quyền xử phạt lẫn quyền miễn, giảm tiền phạt
thì khó đảm bảo sự công tâm, khách quan. Do
đó, việc giảm, miễn tiền phạt phải do “cấp
trên trực tiếp” của người đã ra quyết định xử
phạt quyết định. Tuy nhiên, đối với trường
hợp Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã ra quyết định
xử phạt thì không phải chuyển đơn xin miễn,
giảm tiền phạt kèm hồ sơ vụ việc lên cấp trên
trực tiếp mà chuyển cho UBND cấp tỉnh, để
thông qua bàn bạc tập thể, cơ quan này sẽ có
sự giải quyết thỏa đáng17.
Theo chúng tôi, quy định trên là hợp
lý bởi như đã trình bày, nếu chuyển đơn
xin miễn, giảm tiền phạt lên “cấp trên trực
tiếp” của Chủ tịch UBND cấp tỉnh - tức là
Thủ tướng Chính phủ thì không hợp lý. Thủ
tướng Chính phủ không có thẩm quyền xử
phạt VPHC, vả lại, là người đứng đầu Chính
phủ, đứng đầu hệ thống hành chính nhà
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
100 Số 3+4 (355+356) T02/2018
nước, Thủ tướng không thể ôm đồm những
công việc hành chính sự vụ cụ thể. Tuy
nhiên, quy định hợp lý này chỉ mang tính
“nửa vời”, không triệt để bởi những chức
danh có thẩm quyền xử phạt như Chánh
thanh tra Bộ, Tổng cục trưởng vẫn phải gửi
đơn xin miễn, giảm tiền phạt kèm hồ sơ
vụ việc lên cấp trên trực tiếp là Bộ trưởng.
Trong khi đó, Bộ trưởng là người đứng đầu
bộ, phải giải quyết những vấn đề thuộc tầm
chính sách chứ không thể sa đà vào những
công việc mang tính vụn vặt.
Ngoài ra, quy định về chủ thể có thẩm
quyền gia hạn về thời hạn xử phạt VPHC và
chủ thể có thẩm quyền giảm, miễn tiền phạt
cũng không nhất quán. Cụ thể, thẩm quyền
gia hạn về thời hạn xử phạt VPHC thuộc về
“thủ trưởng trực tiếp” của người có thẩm
quyền xử phạt, còn thẩm quyền giảm, miễn
tiền phạt lại thuộc về “cấp trên trực tiếp” của
người đã ra quyết định xử phạt.
Như vậy, thuật ngữ “thủ trưởng trực
tiếp” tại Điều 66 Luật XLVPHC có đồng
nhất với thuật ngữ “cấp trên trực tiếp” tại
Điều 77 Luật XLVPHC hay không? Nghị
định số 97 không những không làm rõ mà
còn “đánh đồng” thuật ngữ “thủ trưởng trực
tiếp” với “cấp trên trực tiếp”18. Nếu là đồng
nhất với nhau thì khi tiến hành sửa đổi Luật
XLVPHC chỉ nên sử dụng thống nhất một
thuật ngữ pháp lý. Hơn nữa, việc sử dụng
nhiều thuật ngữ để biểu thị một nghĩa, có nội
hàm pháp lý giống nhau là hoàn toàn không
phù hợp với nguyên tắc kỹ thuật lập pháp.
Ngược lại, nếu khác nhau thì cũng không có
cơ sở cho sự phân biệt này vì Nghị định số
97 đã “ngụ ý” hai thuật ngữ này đồng nhất
với nhau.
18 Điều 6e Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ giải thích: “Thủ trưởng trực tiếp của người có
thẩm quyền đang giải quyết vụ việc theo quy định tại các Điều 66, 77, 125 và 128 Luật XLVPHC là cấp trên trực tiếp
trong quan hệ hành chính đối với người đang giải quyết vụ việc”.
19 Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr. 258.
20 Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, sđd, tr. 1771.
21 Nguyễn Thanh Hà, Thẩm quyền xử phạt VPHC trong dự án Luật xử lý VPHC, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 20,
năm 2011.
22 Trường hợp Chủ tịch UBND cấp xã ra quyết định xử phạt thì Chủ tịch UBND cấp huyện xem xét, quyết định việc giảm,
miễn tiền phạt. Chủ tịch UBND cấp huyện là “thủ trưởng” của Chủ tịch UBND cấp xã. Phó Chủ tịch UBND cấp huyện
có thể là “cấp trên” của Chủ tịch UBND cấp xã nhưng không có quyền xử phạt VPHC nên không thể xem xét, quyết
định việc giảm, miễn tiền phạt.
Dưới góc độ ngôn ngữ thì “cấp trên”
là “người có chức vụ cao hơn những người
khác trong một cơ quan hay tổ chức”19, còn
“thủ trưởng” là “người đứng đầu một cơ
quan, một tổ chức”20. Khác với pháp luật
một số quốc gia quy định cho cả cấp phó
có quyền xử phạt VPHC21, ở nước ta, pháp
luật về xử phạt VPHC đề cao vai trò và trao
quyền xử phạt cho người đứng đầu. Chỉ khi
người đứng đầu giao quyền hay ủy quyền
cho cấp phó thì cấp phó mới có quyền xử
phạt. Chính vì vậy, việc giảm, miễn tiền
phạt cũng phải do “thủ trưởng trực tiếp” chứ
không đơn thuần chỉ là “cấp trên trực tiếp”
quyết định22. Ngoài ra, cũng không nên sử
dụng thuật ngữ “cấp trên” vì đây là cách
dùng từ trong văn nói. Có lẽ, nhận thấy sự
“bất ổn” này nên ngoại trừ Điều 77 và 79
sử dụng thuật ngữ “cấp trên” thì những điều
khoản khác trong Luật XLVPHC đều ưu tiên
sử dụng thuật ngữ “thủ trưởng” (Điều 18,
39, 66, 123, 125, 128, 130).
Từ phân tích trên, chúng tôi cho rằng,
Luật XLVPHC cần sử dụng thống nhất một
thuật ngữ pháp lý là “thủ trưởng trực tiếp”,
đồng thời quy định cụ thể “thủ trưởng trực
tiếp” có thẩm quyền gia hạn thời hạn ra
quyết định xử phạt VPHC và giảm, miễn
tiền phạt; đối với các chức danh có thẩm
quyền xử phạt cao nhất trong một lĩnh vực
như Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Chánh thanh
tra Bộ, Tổng cục trưởng, Luật XLVPHC cần
giao cho tập thể các cơ quan này (tập thể
UBND cấp tỉnh, Bộ, Tổng cục) quyền quyết
định việc gia hạn thời hạn ra quyết định xử
phạt VPHC và giảm, miễn tiền phạt■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
101Số 3+4 (355+356) T02/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- han_che_cua_luat_xu_ly_vi_pham_hanh_chinh_nam_2012_nhin_tu_g.pdf