In recent years, under the impact of climate change, increasing deforestation and leveling soil, the natural flows
regulating ability of river basins in Tay Nguyen has been declining strongly. Tay Nguyen has four major river systems:
the upstream of Se San river, the upstream of Srepok river, the upstream of Ba river and the upstream of Dong Nai
river. Tay Nguyen also has an abundant water resource, however, in dry season drought occurs consecutively having
widespread influences. The drought is rarely the direct cause of human loss but social – economic and environmental
damage caused by drought is significantly, especially it leads to desertification. In this study, the authors will analyze and
assess the current status of drought and desertification in Tay Nguyen associated with climate change scenarios in the
21st century, proposing solutions to minimize and to respond to drought and desertification in Tay Nguyen.
Just in time (1990 - 2000) in Tay Nguyen territory, drought occurred in 1994, 1995, 1996, 1997 and 1998 droughtprone rice area from 2,000 ha to 130.000ha each crop. In 1998, drought-prone coffee area was 74,400ha, 770,000
people are the lack of water in this drought.
Drought had a great influence on the production winter-spring at the end of the 2012-2013, early summer-autumn in
2013 and water of the people in the provinces of Dak Lak, Dak Nong, Gia Lai, Kon Tum.
Results of expected impacts of climate change to drought and desertification showed appearance of droughts and
desertification gradually increase over time in 2020, 2050, 2100 on areas in Tay Nguyen. Thus, proposing solutions to
minimize drought and desertification in Tay Nguyen territory including: construction of appropriate plant structure,
modern irrigation technologies, water saving, hardened concrete canal systems, increased regulation of water through
generating additional downstream flow of the irrigation water source to meet the summer collection season. Organization
of closely manage water resources and enhancing information, dissemination to local understand the drought response.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 601 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hạn hán, hoang mạc hóa lãnh thổ Tây Nguyên gắn với kịch bản biến đổi khí hậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
310
35(4), 310-317 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2013
HẠN HÁN, HOANG MẠC HÓA LÃNH THỔ
TÂY NGUYÊN GẮN VỚI KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
NGUYỄN LẬP DÂN1, NGUYỄN TRỌNG HIỆU2, VŨ THỊ THU LAN1
E-mail: phongtnnm@gmail.com
1Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Trung tâm KHCN Khí tượng, Thủy văn và Môi trường
Ngày nhận bài: 8 - 9 - 2013
1. Mở đầu
Lãnh thổ Tây Nguyên có ranh giới gần trùng
với địa giới hành chính của 5 tỉnh Kon Tum, Gia
Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Về phía
bắc, giáp với vùng rừng núi của tỉnh Quảng Nam,
phía nam và tây nam giáp các tỉnh Bình Thuận,
Đồng Nai, Bình Phước. Phía đông giáp các tỉnh
đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ: Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận.
Phía tây giáp Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào và
Vương quốc Cam Pu Chia. Diện tích tự nhiên toàn
lãnh thổ Tây Nguyên là 54.473,79 km2.
Tây Nguyên có 4 hệ thống sông lớn, thượng
sông Sê San, thượng sông Ba, thượng sông Srêpôk
và thượng sông Đồng Nai. Theo thống kê, đến năm
2009 dân số của 5 tỉnh Tây Nguyên là 5.107.437
người. Tây Nguyên được gọi là nóc nhà Đông
Dương, là địa bàn quan trọng của cả nước về kinh
tế - xã hội và an ninh quốc phòng.
Tây Nguyên có trữ lượng nước năm phong phú,
nhưng vào thời kỳ mùa khô, hạn hán vẫn xảy ra liên
tiếp. Hạn hán thường gây ảnh hưởng trên diện rộng.
Tuy ít khi là nguyên nhân trực tiếp gây tổn thất về
người, nhưng thiệt hại về kinh tế - xã hội và môi
trường do hạn hán gây ra là rất lớn [1].
Bài báo sẽ phân tích đánh giá thực trạng hạn
hán, hoang mạc hóa lãnh thổ Tây Nguyên, gắn với
kịch bản biến đổi khí hậu thế kỷ XXI.
Đây là một phần kết quả của đề tài “Nghiên
cứu cơ sở khoa học cho giải pháp tổng thể giải
quyết các mâu thuẫn lợi ích trong việc khai thác sử
dụng tài nguyên nước lãnh thổ Tây Nguyên”, mã
số TN3/T02 thuộc Chương trình Khoa học và
Công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Tây
Nguyên, mã số TN3/11-15.
2. Thực trạng hạn hán, phân bố không gian và
diễn biến hạn lãnh thổ Tây Nguyên
2.1. Thực trạng hạn hán
Chỉ trong khoảng thời gian 1990 - 2000 trên lãnh
thổ Tây Nguyên, hạn hán đã xảy ra vào các năm
1994, 1995, 1996, 1997 và 1998 với diện tích lúa bị
hạn mỗi vụ từ 2000 ha đến 130.000 ha. Đợt hạn năm
1998 đã gây hạn cho 10.700ha lúa nước vụ Đông
Xuân (mất trắng 5.320 ha), 13.330 ha lúa vụ mùa
(mất trắng 2.280 ha). Diện tích cây ăn quả và cây
công nghiệp bị hạn là 110.630 ha (bị chết là 13.760
ha), riêng cà phê diện tích bị hạn là 74.400 ha (bị
chết 13.760 ha). Số người bị thiếu nước sinh hoạt
trong đợt hạn này lên đến hơn 770.000 người.
Gần đây nhất, năm 2003 trên lưu vực sông
Srêpôk đã có khoảng 40.400 ha cà phê bị hạn, thiệt
hại ước tính lên tới 277 tỷ đồng.
Đến năm 2008 Tây Nguyên đã xây dựng 1.360
công trình bao gồm: hồ chứa 760 công trình, đập
dâng 558 công trình, trạm bơm 42 công trình, so với
năng lực tưới thiết kế các công trình chỉ đáp ứng
hiệu suất tưới được trên 60% thực tưới [2].
Theo báo cáo tháng 3 năm 2013 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, từ tháng 8/2012,
do khí hậu ENSO hoạt động mạnh đã tác động xấu
đến nguồn nước các tỉnh Tây Nguyên gây thiếu
nước, hạn hán ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất cuối
vụ Đông Xuân 2012-2013, đầu vụ Hè Thu 2013 và
nước sinh hoạt của nhân dân, theo thống kê [3] bị
ảnh hưởng nặng nề nhất là các tỉnh Đắk Lắk, Đắk
Nông, Gia Lai, Kon Tum.
311
Đã có 39.607 ha cây trồng bị thiếu nước bao
gồm: lúa 11.036 ha, cà phê 23.921 ha, cây khác
5007 ha; trong đó hạn nặng đã làm mất trắng 3857
ha. Hầu hết các hồ chứa thủy lợi, thủy điện vừa và
lớn ở Tây Nguyên đều bị thiếu hụt nước nghiêm
trọng, nhiều hồ chứa nhỏ đã cạn hoặc gần xuống
đến mực nước chết không đủ tưới suốt vụ gây ra
hạn hán (bảng 1).
Bảng 1. Diện tích hạn hán các tỉnh Tây Nguyên
(Báo cáo ngày 12/03/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn)
Trong đó (ha)
STT Tỉnh Diện tích gieo trồng thực tế (ha)
Diện tích bị
hạn hán (ha) Lúa Cà Phê Cây khác
Diện tích mất
trắng (ha)
1 Kon Tum 6.920 2.044 805 103 1.136 500
2 Gia Lai 26.630 1.174 793 381 255
3 Đắk Lắk 31.444 22.144 6.898 14.525 721 3.247
4 Đắk Nông 4.027 13.186 1.124 9.293 2.769
5 Lâm Đồng 11.070 1.416 1.416
Tổng cộng 80.091 39.964 11.036 23.921 5.007 4.002
Đánh giá về kinh tế, tỉnh Gia Lai ước tính thiệt
hại do hạn hán gây ra khoảng 196,817 tỷ đồng
trong đó cây cà phê thiệt hại 144,880 tỷ đồng [4].
Tính đến ngày 12/04/2013 tỉnh Đắk Lắk có
khoảng 3486 ha bị mất trắng, trong đó 3047 ha lúa
nước, 103 ha ngô, 278 ha cà phê. Thiệt hại về sản
xuất ước tính hơn 1182 tỷ đồng. Tại thành phố
Buôn Ma Thuột việc cấp nước sinh hoạt trong mùa
khô năm 2013 chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu dùng
nước [5].
Các nguyên nhân chính gây hạn hán ở Tây
Nguyên vừa xảy ra năm 2013 do:
- Mùa mưa năm 2012 kết thúc sớm hơn bình
thường 1-1,5 tháng, tổng lượng mưa cả năm thiếu
hụt so với trung bình nhiều năm 20-30% trong các
tháng mùa mưa thiếu hụt khoảng 40% trong khi đó
từ tháng 8 đến cuối năm 2012 lượng bốc hơi đạt
150-250 mm, tháng 1 và tháng 2/2013 lượng bốc
hơi lớn, lên tới 400-600mm.
- Mực nước và dòng chảy trên các sông suối
thiếu hụt so với trung bình nhiều năm từ 20 đến
60%, nhiều sông suối nhỏ bị cạn kiệt, mực nước
ngầm bị hạ thấp.
2.2. Phân bố không gian và diễn biến thời gian
hạn hán
2.2.1. Tần suất và mùa hạn
Liên quan chặt chẽ với sự hình thành mùa khô
đều đặn hàng năm và sự phân bố thất thường của
lượng mưa trên một số địa điểm trong một số năm,
tần suất hạn ở Tây Nguyên trong các tháng như sau
(bảng 2):
Tháng X: vẫn là một trong những tháng mưa
nhiều song lác đác có hạn ở một số nơi bắc Tây
Nguyên và trung Tây Nguyên. Tuy nhiên, tần suất
hạn rất thấp, nhiều nhất ở Buôn Ma Thuột chỉ
đến 6%.
Tháng XI: là tháng cuối cùng của mùa mưa
song ở hầu hết các nơi, trừ Bảo Lộc, hạn lác đác
xẩy ra trong một số năm nhất là ở bắc Tây Nguyên.
Tần suất hạn trên dưới 20%, chứng tỏ mùa hạn
thực sự bắt đầu ở Kon Tum, Gia Lai và chớm bắt
đầu ở các nơi khác.
Tháng XII: ngay khi mùa mưa kết thúc, mùa
khô hạn ập đến, tần suất hạn lên đến trên 75% ở
bắc Tây Nguyên, 60% ở trung Tây Nguyên và phổ
biến 40 - 60% ở nam Tây Nguyên, trừ Bảo Lộc chỉ
12%.
Tháng I: Có thể coi tháng I là tháng hạn nặng
nhất ở Tây Nguyên với tần suất hạn trên 90% ở bắc
Tây Nguyên, trên 80% ở trung Tây Nguyên và 60 -
80% ở nam Tây Nguyên, trừ Bảo Lộc chưa đến
30%.
Tháng II: Hạn tháng II chỉ thua kém tháng I đôi
chút. Tần suất lên tới 75 - 90% ở bắc Tây Nguyên,
trung Tây Nguyên và khoảng 30 - 60% ở nam Tây
Nguyên, trừ Bảo Lộc chỉ 14%.
Tháng III: Tần suất giảm đi rõ rệt ở bắc Tây
Nguyên, chỉ 20 - 60%, vẫn rất cao ở trung Tây
Nguyên, 70 - 85% và khá thấp ở nam Tây Nguyên,
kể cả vùng Bảo Lộc, chỉ 15 - 30%.
Tháng IV: Mùa hạn nhanh chóng kết thúc ở bắc
Tây Nguyên, nam Tây Nguyên (tần suất hạn dưới
15%) và chỉ còn đáng kể ở trung Tây Nguyên (25 -
30%).
Tháng V: Mùa hạn chấm dứt hoàn toàn trên hầu
312
hết lãnh thổ Tây Nguyên, riêng vùng hạn nổi tiếng
như Ayunpa, hạn vẫn xảy ra trong suốt các tháng
mùa mưa, với tần suất khoảng 10 - 40%.
Như vậy, mùa hạn ở Tây Nguyên kéo dài từ
tháng IX đến tháng IV, tương đối dài ở bắc Tây
Nguyên, trung Tây Nguyên và tương đối ngắn ở
nam Tây Nguyên.
Tần suất hạn trong từng tháng ở bắc và trung
Tây Nguyên cũng nhiều hơn ở nam Tây Nguyên.
Xuất hiện hai vùng có tần suất hạn đặc biệt ở Tây
Nguyên là đặc biệt cao ở Ayunpa và đặc biệt thấp
ở Bảo Lộc.
Bảng 2. Tần suất hạn các tháng (%)
Trạm I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Kon Tum 94 76 24 6 6 9 0 0 0 3 21 79
Pleiku 90 80 58 14 2 4 2 2 0 2 18 76
Ayunpa 100 88 85 30 12 33 2 6 0 3 3 61
Buôn Ma Thuột 84 88 70 26 0 0 2 0 0 6 8 60
Đắk Nông 62 32 15 0 0 0 0 0 0 0 12 56
Đà Lạt 70 56 28 0 8 2 0 0 0 0 8 44
Bảo Lộc 26 14 18 2 2 2 0 0 0 0 0 12
2.2.2. Số tháng hạn trung bình
Trong thời kỳ 1960 - 2009, số tháng hạn trung
bình tương đối nhiều ở bắc Tây Nguyên, trung Tây
Nguyên, nhiều nhất ở Ayunpa và tương đối ít ở
nam Tây Nguyên, ít nhất ở phía nam tỉnh Lâm
Đồng, tiêu biểu là Bảo Lộc.
Hạn diễn biến rất phức tạp, tăng lên hoặc giảm
đi từ nửa thập kỷ này sang nửa thập kỷ khác. Có
thể nhận thấy điều này qua diễn biến từ nửa thập
kỷ đầu, 1961 - 1965, đến các nửa thập kỷ cuối,
2001 - 2005 và 2006 - 2010 (bảng 3).
So với trung bình nhiều năm nửa thập kỷ 1961 -
1965, hạn nặng hơn ở Pleiku, Buôn Mê Thuột, Đà
Lạt và hạn nhẹ hơn rõ rệt ở trong hai nửa thập kỷ
1966 - 1970, 1971 - 1975 ở Buôn Mê Thuột, Đà
Lạt, Bảo Lộc, riêng Pleiku nặng hơn chút ít.
Bảng 3. Số tháng hạn trung bình các nửa thập kỷ và các thời kỳ
Địa điểm Kon Tum Pleiku Ayunpa Buôn Mê Thuột Đắk Nông Đà Lạt Bảo Lộc
1961 -1965 3,6 4,0 2,8 0,4
1966-1970 3,6 3,4 2,0 0,6
1971-1975 3,6 3,2 1,8 0,2
1976-1980 4,0 3,0 4,0 3,0 1,4 2,0 0,4
1981-1985 3,8 3,8 4,2 4,2 2,0 2,6 1,0
1986-1990 3,4 3,2 5,0 3,2 2,2 2,6 1,0
1991-1995 3,6 3,4 4,6 4,0 2,0 2,0 0,4
1996-2000 2,4 2,8 3,2 2,4 1,4 1,6 0,8
2001-2005 3,6 3,8 5,0 3,6 2,0 2,4 1,4
2006-2010 3,5 4,0 5,0 3,2 1,3 1,8 0,6
1980-1999 3,4 3,5 4,5 3,3 1,7 2,0 0,8
1960-1999 3,2 3,5 4,4 3,4 1,8 2,2 0,9
Liên tiếp hai nửa thập kỷ 1976 - 1980 và 1981 -
1985, hạn nhẹ hơn so với trung bình nhiều năm
trên tất cả các tỉnh. Trong nửa thập kỷ 1986 - 1990,
hạn nặng ở Kon Tum, Ayunpa, Đắk Nông, Đà Lạt,
Bảo Lộc song nhẹ hơn ở Pleiku, Buôn Mê Thuột.
Trong các nửa thập kỷ 1991 - 1995, 1996 -
2000, 2001 - 2005 cũng có tình trạng hạn không
tăng hay giảm đồng nhất trên các tỉnh của Tây
Nguyên. Đáng chú ý là, vào nửa thập kỷ gần đây,
2006 -2010, hạn nặng hơn ở bắc Tây Nguyên song
nhẹ hơn ở trung Tây Nguyên và nam Tây Nguyên
so với trung bình nhiều năm.
313
Theo (bảng 3), so với thời kỳ 1960 - 2009 và
thời kỳ 1980 - 1999, hạn nặng hơn ở nhiều nơi
thuộc bắc Tây Nguyên (Kon Tum, Ayunpa), song
nhẹ hơn ở trung Tây Nguyên và nam Tây Nguyên.
Có điều là, mức chênh lệch giữa hai thời kỳ không
quá 0,2 tháng hạn.
3. Hạn hán, hoang mạc hóa gắn với kịch bản
biến đổi khí hậu lãnh thổ Tây Nguyên
3.1. Kịch bản biến đổi khí hậu lãnh thổ Tây
Nguyên trong thế kỷ XXI
Việt Nam đã từng xây dựng và công bố nhiều
kịch bản BĐKH, nước biển dâng (NBD) khác
nhau: Kịch bản BĐKH, NBD năm 1994, kịch bản
BĐKH, NBD 1998, kịch bản BĐKH, NBD 2009
và kịch bản BĐKH, NBD 2012.
Ở đây, kịch bản BĐKH, NBD 2012 thực chất là
phiên bản được điều chỉnh từ kịch bản BĐKH,
NBD 2009 trên một số nguyên tắc cơ bản, trước
hết là cập nhật các thông tin về BĐKH trên thế giới
cũng như trong nước.
Các tác giả đã xây dựng kịch bản BĐKH, NBD
theo 3 mức kịch bản phát thải khác nhau, phát thải
cao, phát thải trung bình, phát thải thấp. Tuy nhiên,
trong hoàn cảnh chung của thế giới và Việt Nam hiện
nay các kịch bản BĐKH còn có những điểm chưa
chắc chắn, do vậy mức kịch bản được dùng là kịch
bản trung bình sẽ có mức độ ổn định nhất định.
3.2. Nội dung kịch bản BĐKH lãnh thổ Tây Nguyên
Theo kịch bản BĐKH, NBD cho Việt Nam,
nhiệt độ trung bình lãnh thổ Tây Nguyên sẽ tăng
khoảng 0,4 - 0,8°C vào năm 2020, 1,1 - 1,5°C vào
năm 2050 và 2,0 - 2,8°C vào năm 2100. Đáng lưu
ý là mức tăng nhiệt độ nhiều nhất ở Lâm Đồng, nơi
có nhiệt độ tương đối thấp và hạn hán tương đối ít.
Mức tăng nhiệt độ không đồng đều trong các
mùa, mùa đông, mùa xuân ít hơn và mùa hè, mùa
thu tăng nhiều hơn so với mức tăng của nhiệt độ
trung bình năm.
Cũng theo kịch bản BĐKH, NBD nói trên, lượng
mưa lãnh thổ Tây Nguyên sẽ tăng 0,3 - 0,9% vào
năm 2020, 0,3 - 2,5% vào năm 2050 và 0,6 - 4,8%
vào năm 2100. Lượng mưa cả năm tăng lên nhờ
lượng mưa tăng trong mùa hè, mùa thu trong khi
lượng mưa mùa đông, mùa xuân vẫn giảm. Đáng
lưu ý là, Lâm Đồng là nơi có lượng mưa tăng ít nhất
so với các tỉnh khác.
3.2.1. Kịch bản trung bình về nhiệt độ
Kịch bản nhiệt độ cho Tây Nguyên được sử
dụng trong bài báo là kịch bản trung bình, nội dung
chủ yếu là mức tăng nhiệt độ trung bình năm, các
mùa: Xuân (X), hè (H), thu (T) và đông (Đ) vào
các năm cuối của mỗi thập kỷ trong thế kỷ XXI.
Theo kịch bản, nhiệt độ trung bình năm và năm
2020 tăng lên 0,5°C so với thời kỳ 1980 -1999
trên hầu hết các tỉnh, trừ Đắk Nông, Lâm Đồng chỉ
tăng 0,4°C; vào năm 2050 ở Lâm Đồng tăng tới
0,8°C, 1,2°C ở Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk và
1,0°C ở Đắk Nông; vào năm 2100 tăng lên 2,3°C ở
Kon Tum, Đắk Lắk, 2,0°C ở Đắk Nông và lên đến
2,5°C ở Gia Lai và 2,8°C ở Lâm Đồng. Về cơ bản,
mức tăng nhiệt độ trong các giai đoạn tương đối
cao ở Lâm Đồng, thứ đến là Gia Lai, Kon Tum,
Đắk Lắk và thấp nhất ở Đắk Nông.
So với mức tăng của nhiệt độ trung bình năm,
mức tăng của nhiệt độ mùa đông vào năm 2020 chỉ
sai khác với mức tăng cả năm 0,1°C, vào năm 2050
sai khác đến 0,2°C và đến năm 2100 sai khác đến
0,4°C. Đáng chú ý là, sự sai khác ở đây là do mức
tăng nhiệt độ trung bình mùa đông thấp hơn mức
tăng nhiệt độ trung bình năm.
So với mức tăng của nhiệt độ trung bình năm,
mức tăng của nhiệt độ trung bình mùa xuân vào
năm 2020 chỉ sai khác đến 0,1°C, vào năm 2050
chỉ sai khác đến 0,2°C, vào năm 2100 sai khác đến
0,4°C. Sai khác ở đây phổ biến do mức tăng nhiệt
độ mùa xuân thấp hơn mức tăng nhiệt độ trung
bình năm.
So với mức tăng của nhiệt độ trung bình năm,
mức tăng của nhiệt độ trung bình mùa hè vào năm
2020 sai khác đến 0,2°C, vào năm 2050 sai khác
đến 0,3°C, vào năm 2100 sai khác đến 0,7°C.
Những sai khác ở đây phổ biến do mức tăng nhiệt
độ trung bình mùa hè cao hơn mức tăng nhiệt độ
trung bình năm, rõ nhất ở Lâm Đồng, Đắk Nông.
So với mức tăng của nhiệt độ trung bình năm,
mức tăng của nhiệt độ trung bình mùa thu vào năm
2020 chỉ sai khác 0,1°C, vào năm 2050 cũng chỉ
0,1°C vào năm 2100 chỉ sai khác 0,2°C. Thông
thường mức tăng của nhiệt độ trung bình mùa thu
cao hơn mức tăng của nhiệt độ trung bình năm.
Như vậy, mức tăng của nhiệt độ mùa hè, mùa
thu cao hơn mùa đông, mùa xuân thấp hơn mức
tăng của nhiệt độ trung bình năm. Sự sai khác này
càng về cuối thế kỷ càng rõ nét, nhất là ở vùng núi
tương đối cao Lâm Đồng (bảng 4).
314
Bảng 4. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (N) mùa đông (Đ), mùa xuân (X), mùa hè (H), mùa thu (T)
so với thời kỳ 1980 - 1999 theo kịch bản phát thải trung bình (B2), (°C)
2020 2050 2100
Tỉnh
Đ X H T N Đ X H T N Đ X H T N
Kon
Tum 0,4 0,5 0,6 0,5 0,5 1,3 1,2 1,2 1,2 1,2 2,5 2,4 2,2 2,2 2,3
Gia
Lai 0,5 0,5 0,6 0,5 0,5 1,2 1,3 1,4 1,2 1,2 2,3 2,5 2,7 2,4 2,5
Đắk
Lắk 0,5 0,5 0,4 0,4 0,5 1,2 1,0 1,2 1,2 1,2 2,3 1,9 2,3 2,5 2,3
Đắk
Nông 0,5 0,4 0,6 0,5 0,4 1,0 0,9 1,3 1,1 1,2 1,8 1,9 2,5 1,9 2,0
Lâm
Đồng 0,4 0,4 0,5 0,4 0,4 1,3 1,3 1,8 1,5 1,5 2,4 2,6 3,5 2,9 2,8
3.2.2 Kịch bản trung bình về lượng mưa
So với thời kỳ 1980 - 1999, mức tăng của
lượng mưa năm vào năm 2020 chỉ là 0,3 - 0,4%
trên 4 tỉnh: Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm
Đồng là 0,9% ở tỉnh Gia Lai, vào năm 2050 là 0,3 -
1,2% ở 4 tỉnh nói trên và 2,5% ở tỉnh Gia Lai, vào
năm 2100 phổ biến trên dưới 2%: 2,1% ở Kon
Tum; 2,4% ở Đắk Lắk; 1,7% ở Đắk Nông song lên
đến 4,8% ở Gia Lai và ngược lại chỉ 0,6% ở
Lâm Đồng.
Khác với nhiệt độ, mức thay đổi của lượng mưa
các mùa rất khác nhau và khác với mức thay đổi
của lượng mưa năm. Dễ dàng phân biệt mức giảm
của lượng mưa trong mùa khô nói chung, bao gồm
mùa đông (XII - II) và mùa xuân (III - V), ngược
lại tăng trong mùa mưa, bao gồm mùa hè (VI -
VIII) và mùa thu (IX - XI).
Mưa giảm so với thời kỳ 1980 -1999 của lượng
mưa mùa đông vào năm 2020 phổ biến là 3%: Kon
Tum, Đắk Nông -2,6 ÷ -2,7%, Gia Lai, Đắk Lắk:
-2,0 ÷ -3,0%, Lâm Đồng giảm 3,8%, vào năm 2050
giảm 7-8%, Lâm Đồng giảm 10,3%; vào năm 2100,
riêng Lâm Đồng giảm 19,7%. Mức giảm so với
1980 - 1999 của lượng mưa mùa xuân vào năm
2020 là trên dưới 2%; -2,7% ở Đắk Nông; -2,1% ở
Kon Tum; -2,0% ở Gia Lai và -1,7 ÷ -1,8% ở Đắk
Lắk, Lâm Đồng, vào năm 2050 là trên dưới 5%:
-6,6% ở Đắk Nông; ở Kon Tum, Gia Lai, -4,7% ở
Lâm Đồng, -4,6% ở Đắk Lắk; vào năm 2100 phổ
biến trên dưới 10%, riêng Đắk Nông giảm 12,7%.
Mức tăng so với thời kỳ 1980 - 1999 của lượng
mưa mùa hè vào năm 2020 khoảng 0,2 - 0,6%, vào
năm 2050 khoảng 0,1 - 1,7%; vào năm 2100 chưa
đến 1% ở Kon Tum, Đắk Lắk, lên đến 2,9% ở Gia
Lai và 3,3% ở Đắk Nông.
Mức tăng so với cuối thế kỷ 20 của lượng mưa
mùa thu vào năm 2020, phổ biến trên dưới 2%:
2,7% ở Gia Lai, 2,6% ở Kon Tum; 2,1% ở Đắk
Lắk, 2,0% ở Đắk Nông và chỉ 1,7% ở Lâm Đồng;
vào năm 2050 là 7,1% ở Gia Lai; 7,0% ở Kon
Tum; 5,7% ở Đắk Lắk; 5,4% ở Đắk Nông và chỉ
4,4% ở Lâm Đồng.
Như vậy, mức giảm của lượng mưa mùa đông
nhiều hơn mùa xuân và mức tăng lượng mưa mùa
thu nhiều hơn mùa hè. Về không gian, đáng chú ý
là mức giảm lượng mưa ở vùng cao Lâm Đồng
nhiều hơn các nơi khác và ngược lại, mức tăng của
lượng mưa ở Lâm Đồng cũng ít hơn các nơi khác
(bảng 5).
Bảng 5. Mức thay đổi lượng mưa năm (N) mùa đông (Đ), mùa xuân (X), mùa hè (H), mùa thu (T)
so với thời kỳ 1980 - 1999 theo kịch bản phát thải trung bình (B2), %
2020 2050 2100
Tỉnh
N Đ X H T N Đ X H T N Đ X H T
Kon Tum 0,4 -2,7 -2,1 0,3 2,6 1,1 -7,0 -5,5 0,5 7,0 2,1 -13,6 -10,6 0,9 13,3
Gia Lai 0,9 -2,9 -2,0 0,6 2,7 2,5 -7,9 -5,5 1,5 7,1 4,8 -15,0 -10,4 2,9 13,6
Đắk Lắk 0,5 -3,0 -1,7 0,0 2,1 1,2 -7,9 -4,6 0,1 5,7 2,4 -15,1 -8,9 0,2 10,9
Đắk Nông 0,3 -2,6 -2,5 0,6 2,0 0,9 -7,0 -6,6 1,7 5,4 1,7 -13,3 -12,7 3,3 10,3
Lâm Đồng 0,4 -3,8 -1,8 0,3 1,7 0,9 -10,3 -4,7 0,7 4,4 0,6 -19,7 -9,0 1,3 8,4
315
4. Xây dựng kịch bản hạn hán cho Tây Nguyên
4.1. Các bước thực hiện
Để xây dựng kịch bản hạn hán cho Tây Nguyên
thực hiện các bước sau đây:
Bước 1: Lựa chọn chỉ tiêu hạn thích hợp với
mục đích cụ thể là xây dựng kịch bản hạn hán.
Bước 2: Xác định các mức tăng của nhiệt độ và
mức thay đổi lượng mưa trên các địa điểm của Tây
Nguyên theo kịch bản BĐKH, NBD vừa được
cập nhật.
Bước 3: Tính toán các chỉ số hạn cho thời kỳ cơ
bản của kịch bản BĐKH, NBD nói chung.
Bước 4: Xác định mức thay đổi của chỉ số hạn
theo các kịch bản trên các tỉnh của Tây Nguyên so
với thời kỳ cơ bản.
Bước 5: Nhận định về tác động của biến đổi khí
hậu đối với nguy cơ hạn hán hoang mạc hóa ở Tây
Nguyên.
4.2. Kết quả xây dựng kịch bản hạn cho
Tây Nguyên
Kịch bản hạn cho Tây Nguyên được xây dựng
trên cơ sở kịch bản BĐKH, NBD tương ứng với
phát thải khí nhà kính ở mức trung bình.
Nội dung kịch bản hạn là cấp độ hạn dự kiến
cho các năm của một số thập kỷ trong thế kỷ XXI,
bao gồm năm 2020 tiêu biểu cho đầu thế kỷ, 2050
tiêu biểu cho giữa thế kỷ và 2100 tiêu biểu cho
cuối thế kỷ. Đó cũng là các mốc thời gian thường
được đề cập đến trong nhiều kịch bản của IPCC
(Intergovernmental Panel on Climate Change)
cũng như các tổ chức quốc tế khác.
Để tiện lợi cho việc thuyết minh kịch bản, mức
độ hạn dự kiến được phân chia thành 9 cấp
sau đây:
- Cấp 0: Số tháng hạn trung bình khoảng 0,0 -
0,9
- Cấp 1: Số tháng hạn trung bình khoảng 1,0 -
1,9
- Cấp 2: Số tháng hạn trung bình khoảng 2,0 -
2,9
- Cấp 3: Số tháng hạn trung bình khoảng 3,0 -
3,9
- Cấp 4: Số tháng hạn trung bình khoảng 4,0 -
4,9
- Cấp 5: Số tháng hạn trung bình khoảng 5,0 -
5,9
- Cấp 6: Số tháng hạn trung bình khoảng 6,0 -
6,9
- Cấp 7: Số tháng hạn trung bình khoảng 7,0 -
7,9
- Cấp 8: Số tháng hạn trung bình khoảng ≥ 8,0
Theo kịch bản hạn đã được xây dựng cấp độ
hạn của các khu vực và các tỉnh của Tây Nguyên
vào các mộc thời gian tương lai như sau:
Năm 2020:
Vào năm 2020, so với thời kỳ 1980 - 1999 hạn
cao hơn 0,2 - 0,7 cấp (ít nhất 0,33 cấp, nhiều nhất
0,61 cấp), cấp hạn phổ biến là 3-4 ở bắc Tây
Nguyên, trung Tây Nguyên (4,1 ở Kon Tum, 4,0 ở
Pleiku, 3,9 Buôn Ma Thuột) cá biệt có vùng lên
đến cấp 5 (Ayunpa: 5,1). Trong khi đó, hạn phổ
biến là cấp 2 ở nam Tây Nguyên (2,2 ở Đắk Nông,
2,3 ở Đà Lạt, cá biệt chỉ cấp 1 ở nam Lâm Đồng
(Bảo Lộc, 1,3).
Năm 2050:
Vào năm 2050, hạn cao hơn so với thời kỳ
1980 - 1999 phổ biến 1 - 2 cấp (ít nhất là 1,2 cấp,
nhiều nhất là 1,87 cấp), cấp hạn phổ biến là cấp 4 ở
bắc Tây Nguyên (4,9 ở Kon Tum, 4,7 ở Gia Lai),
cấp 5 ở trung Tây Nguyên (5,0 ở Buôn Ma Thuột),
cá biệt cấp 6 ở Ayunpa (6,0). Trong khi đó, cấp
hạn phổ biến ở nam Tây Nguyên là 3 (Đắk Nông:
3,1; Đà Lạt: 3,2), cá biệt cấp 2 ở Bảo Lộc (2,7).
Năm 2100:
Vào năm 2100, hạn cao hơn so với thời kỳ
1980 - 1999, khoảng 2,3 - 3,5 cấp (2,33 - 3,49).
Cấp hạn ở bắc Tây Nguyên, trung Tây Nguyên phổ
biến là cấp 6, cá biệt ở Ayunpa lên đến cấp 7 (7,6).
Trong khi đó, cấp hạn phổ biến ở nam Tây Nguyên
(kể cả nam Lâm Đồng là 4, Đắk Nông là 4,2, Đà
Lạt: 4,4, Bảo Lộc: 4,3).
4.3. Dự kiến tác động của biến đổi khí hậu đến
hạn hán và hoang mạc hóa ở Tây Nguyên
Nguy cơ gia tăng hạn hán và xuất hiện hoang
mạc hóa tăng dần theo thời gian trên một số địa
bàn ngày càng rộng lớn ở Tây Nguyên.
Năm 2020:
Đến năm 2020, độ dài của mùa hạn dài thêm 10
- 22 ngày ở hầu khắp nơi, đáng kể nhất là vùng
316
nam Lâm Đồng. Tuy nhiên, mức độ hạn ở Bảo Lộc
vẫn rất thấp mặc dù mức độ hạn gia tăng nhiều hơn
so với các vùng khác. Ở Ayunpa, hạn vào thập kỷ
này đã lên đến cấp 5, xấp xỉ nhiều nơi ở Nam
Trung Bộ và Bắc Trung Bộ.
Năm 2050:
Đến năm 2050, độ dài mùa hạn dài thêm 35 -
60 ngày so với thời kỳ 1980 - 1999, mức tăng
nhiều nhất là ở vùng xưa nay hạn rất ít như nam
Lâm Đồng. Với mức tăng độ dài hạn như trên, mùa
hạn ở nhiều nơi, nhất là ở trung Tây Nguyên lên
đến 5 - 6 tháng. Dĩ nhiên, nơi hạn nặng nhất vẫn ở
vùng Ayunpa và ở đây, thực sự xuất hiện nguy cơ
hoang mạc hóa do mùa hạn đã chiếm nửa thời gian
trong năm.
Năm 2100:
Vào cuối thế kỷ XXI, mùa hạn dài hơn thời kỳ
1980 - 1999 từ 2,3 đến 3,5 tháng khoảng 70 - 105
ngày. Mùa hạn dài thêm nhiều nhất vẫn ở nam Tây
Nguyên và dài thêm ít nhất ở bắc Tây Nguyên.
Với mức tăng như trên, mùa hạn ở bắc Tây
Nguyên phổ biến là cấp 6, có nơi cấp 7, nặng hơn
mức độ hạn hiện tại của bất kỳ nơi nào ở nước ta.
Cũng có thể ước đoán, vào thời điểm này, hạn ở
bắc Tây Nguyên và trung Tây Nguyên cùng với
cực nam Trung Bộ, nặng nề nhất so với các vùng
khí hậu của Việt Nam; các vùng này trở thành địa
bàn trọng điểm về nguy cơ hoang mạc hóa.
Trong khi đó, ở nam Tây Nguyên là tăng nhiều
song vẫn ở cấp 4, tương đương bắc Tây Nguyên và
Trung Tây Nguyên thời điểm hiện tại. Có điều là,
Nam Tây Nguyên từ tình trạng hầu như rất hiếm
khi có hạn hán hiện nay trở thành địa bàn có hạn
hán đáng kể.
5. Đề xuất giải pháp ứng phó
Để phòng chống giảm thiểu hạn hán, hoang
mạc hóa cần có các giải pháp sau:
- Cần xây dựng cơ cấu cây trồng phù hợp, đặc
biệt đối với những vùng trồng cây công nghiệp lâu
năm như cà phê, tiêu, ca cao, có diện tích lớn
cần chú ý trồng cây có bóng mát để giảm bốc thoát
hơi nước, chắn gió nhằm giữ độ ẩm cho đất làm
giảm lượng nước tưới.
- Phân loại diện tích và các loại cây trồng, để có
thứ tự ưu tiên cấp nước tưới (cây giống, lúa đang
trổ bông, giữ ổn định diện tích cây công nghiệp có
giá trị).
- Phát triển các giống cây chịu hạn với các điều
kiện khắc nghiệt.
- Đưa công nghệ tưới hiện đại để tiết kiệm
nước, rút ngắn thời gian các đợt tưới (tưới luân
phiên, tưới ẩm và phủ gốc cây giữ ẩm).
- Cần điều tiết tăng lượng xả nước qua phát
điện, bổ sung dòng chảy về hạ du cho các công
trình thủy lợi có đủ nguồn nước tưới vào vụ hè thu,
vụ mùa.
- Kiên cố cứng hóa hệ thống kênh mương giảm
tổn thất mất nước.
- Nạo vét kênh rạch, ao hồ. Huy động và lắp đặt
thêm máy bơm dã chiến, khơi sâu giếng đào, khoan
thêm giếng nước tưới.
- Tổ chức quản lý chặt chẽ nguồn nước, lấy
nước trữ vào các kênh rạch vận hành hợp lý các
công trình.
- Quản lý chặt chẽ việc khai thác nước ngầm ở
các địa phương.
- Cần có dự báo, thông báo kịp thời diễn biến
thời tiết nguồn nước cho các ngành và trên phương
tiện thông tin đại chúng để nhân dân chủ động có
giải pháp đối phó với hạn hán và chuyển dịch thời
vụ gieo trồng
- Cần tăng cường thông tin, tuyên truyền đến
các địa phương, nhân dân tích cực tham gia các
công việc hiệu quả, thiết thực để chống hạn, làm
cho các cấp, các ngành và mọi người dân hiểu rõ
việc phòng chống hạn.
6. Kết luận
Tây Nguyên có lượng nước phong phú nhưng
vào thời kỳ mùa khô hạn hán vẫn xảy ra liên tiếp.
Hạn hán thường gây ảnh hưởng trên diện rộng. Tuy
ít khi là nguyên nhân trực tiếp gây tổn thất về người,
nhưng thiệt hại về kinh tế - xã hội và môi trường do
hạn hán gây ra là rất lớn.
Sự tăng lượng mưa trong mùa mưa và giảm
lượng mưa trong mùa khô sẽ tăng thêm tính cực
đoan cho lũ lụt và hạn hán ở Tây Nguyên. Theo
thang độ từ cấp độ 0 đến cấp 9 hiện tại hạn phổ
biến cấp 3, cấp 4 ở bắc Tây Nguyên, trung Tây
Nguyên, cấp 2 ở nam Tây Nguyên, cá biệt có nơi
lên đến cấp 5 như Ayunpa nhưng ngược lại, ở Bảo
Lộc chỉ cấp 0. Mùa hạn hiện nay phổ biến từ tháng
XII đến tháng III, nơi mùa hạn dài hơn như ở
Ayunpa từ tháng XII đến tháng IV. Ở Bảo Lộc, vào
317
bất cứ tháng nào hạn cũng không đáng kể, thậm chí
có thể coi là không có mùa hạn.
Theo kịch bản trung bình, so với thời lỳ 1980 -
1999 mức tăng cấp độ hạn khoảng 0,3 - 0,7 cấp vào
năm 2020; 1,2 - 1,9 cấp vào năm 2050 và 2,3 - 3,5
cấp vào năm 2100. Đáng lưu ý là, mức tăng cấp độ
hạn nhiều nhất ở vùng rất ít hạn hiện tại - Bảo Lộc.
Với mức tăng như trên, cấp độ hạn vào năm
2020 phổ biến là 3- 4 ở bắc Tây Nguyên, trung Tây
Nguyên, cấp 2 ở nam Tây Nguyên.
Vào năm 2050 phổ biến cấp 4 ở bắc Tây
Nguyên, cấp 5 ở trung Tây Nguyên (cá biệt cấp 6 ở
Ayunpa) cấp 3 ở nam Tây Nguyên, vào năm 2100,
phổ biến cấp 6 ở bắc Tây Nguyên, trung Tây
Nguyên; cá biệt cấp 7 ở Ayunpa; cấp 4 ở nam Tây
Nguyên, kể cả trung tâm mưa Bảo Lộc.
Sự gia tăng cấp độ hạn lãnh thổ Tây Nguyên
chắc chắn mở rộng thời gian của mùa hạn, độ dài
mùa hạn phổ biến kéo dài thêm 10 - 22 ngày vào
năm 2020, 35 -60 ngày vào năm 2050, 70 - 105
ngày vào năm 2100 so với thời kỳ 1980 - 1999.
Với sự gia tăng hạn hán như trên sẽ không còn nơi
nào hạn rất ít như Bảo Lộc hiện nay và nguy cơ hạn
hán hoang mạc hóa ở Tây Nguyên, nhất là ở bắc Tây
Nguyên, trung Tây Nguyên sẽ rất nghiêm trọng,
không thua kém các vùng hạn hán điển hình như cực
nam Trung Bộ.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Nguyễn Lập Dân, 2013: Cơ sở khoa học
cho giải pháp giải quyết các mâu thuẫn lợi ích
trong khai thác sử dụng tài nguyên nước phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội lãnh thổ Tây Nguyên,
Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam, số 8 năm
2013, 651tr.
[2] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
2010: Rà soát quy hoạch thủy lợi vùng Tây
Nguyên 2009.
[3] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
2013: Báo cáo tình hình hạn hán, xâm nhập mặn,
và công tác chỉ đạo phòng chống khắc phục hậu
quả tại các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên.
[4] Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai, Liên Sở
(Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Tài
Chính), 2013: Báo cáo tình hình khô hạn vụ Đông
Xuân 2012-2013.
[5] Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Sở Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2013: Tình hình
hạn hán vụ Đông xuân 2012-2013 trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk..
SUMMARY
Drought, desertification in Tay Nguyen territory associated with climate change scenarios
In recent years, under the impact of climate change, increasing deforestation and leveling soil, the natural flows
regulating ability of river basins in Tay Nguyen has been declining strongly. Tay Nguyen has four major river systems:
the upstream of Se San river, the upstream of Srepok river, the upstream of Ba river and the upstream of Dong Nai
river. Tay Nguyen also has an abundant water resource, however, in dry season drought occurs consecutively having
widespread influences. The drought is rarely the direct cause of human loss but social – economic and environmental
damage caused by drought is significantly, especially it leads to desertification. In this study, the authors will analyze and
assess the current status of drought and desertification in Tay Nguyen associated with climate change scenarios in the
21st century, proposing solutions to minimize and to respond to drought and desertification in Tay Nguyen.
Just in time (1990 - 2000) in Tay Nguyen territory, drought occurred in 1994, 1995, 1996, 1997 and 1998 drought-
prone rice area from 2,000 ha to 130.000ha each crop. In 1998, drought-prone coffee area was 74,400ha, 770,000
people are the lack of water in this drought.
Drought had a great influence on the production winter-spring at the end of the 2012-2013, early summer-autumn in
2013 and water of the people in the provinces of Dak Lak, Dak Nong, Gia Lai, Kon Tum.
Results of expected impacts of climate change to drought and desertification showed appearance of droughts and
desertification gradually increase over time in 2020, 2050, 2100 on areas in Tay Nguyen. Thus, proposing solutions to
minimize drought and desertification in Tay Nguyen territory including: construction of appropriate plant structure,
modern irrigation technologies, water saving, hardened concrete canal systems, increased regulation of water through
generating additional downstream flow of the irrigation water source to meet the summer collection season. Organization
of closely manage water resources and enhancing information, dissemination to local understand the drought response.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4114_14557_1_pb_8578_2107846.pdf