Lời kết
Xét từ bản chất thì hành vi định giá
hủy diệt là hành vi có mức độ nguy hại lớn
cho cấu trúc cạnh tranh trên thị trường liên
quan. Bởi nó không chỉ hướng đến loại
bỏ, cản trở các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường mà còn tác động tiêu cực đến lợi ích
của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên thực
tế không dễ dàng để xác định hành vi của
chủ thể có phải là hành vi định giá hủy diệt
hay không. Nó buộc Tòa án và cơ quan quản
lý cạnh tranh phải thực hiện hoạt động điều
tra hai bước: (1) xác định mức giá áp đặt là
mức giá hủy diệt; (2) mục đích của việc đặt
ra mức giá đó là loại bỏ đối thủ cạnh tranh
nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn từ phía
người tiêu dùng. Đó là một việc làm hết sức
khó khăn và phức tạp, sự phức tạp đó đến
từ những khó khăn trong việc xác định sức
mạnh thị trường đáng kể thông qua yếu tố
thị phần, thị trường liên quan, đồng thời xác
định mức giá mua, giá bán cũng như các yếu
tố khác để chứng minh mức giá đưa ra là
bất hợp lý. Điều đó đòi hỏi các chủ thể xử
lý ngoài nắm vững các quy định của pháp
luật còn phải có các kiến thức, nghiệp vụ
kinh tế. Bên cạnh đó, các quy định của pháp
luật Việt Nam còn có những điểm hạn chế,
chưa tương thích với cách tiếp cận và xử lý
đối với hành vi định giá hủy diệt. Dù Luật
Canh tranh sửa đổi bổ sung đã được Quốc
hội khóa XIV kỳ họp thứ 5 thông qua32; tuy
nhiên, các bất cập nêu trên hiện vẫn chưa
được giải quyết triệt để. Đó cũng chính là
một trong những lý do giải thích cho thực
trạng bỏ ngỏ trong việc xử lý hành vi này dù
trên thực tế nó vẫn đang diễn ra dưới hình
thức này hay hình thức khác
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hành vi định giá bất hợp lý trong hoạt động chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật cạnh tranh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Về nguyên tắc, chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có quyền định giá
đối với quyền sở hữu trí tuệ của mình. Tuy nhiên, theo quy định
của Luật Cạnh tranh năm 2004, quyền năng đó có thể bị hạn chế và
loại bỏ nếu mức giá được đưa ra là bất hợp lý (ép giá). Trên thực
tế, hành vi ép giá có thể được thực hiện dưới hình thức định giá
đầu vào cao hoặc định giá đầu ra thấp hoặc cả hai. Trong trường
hợp chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ định giá quyền sở hữu trí tuệ
quá cao sẽ dẫn đến trường hợp từ chối chuyển giao. Ngược lại, nếu
hành vi ép giá được thực hiện bằng cách định giá hàng hóa chứa
đựng quyền sở hữu trí tuệ quá thấp thì sẽ tạo nên hành vi định giá
hủy diệt. Bài viết đề cập đến hành vi định giá hủy diệt trong hoạt
động chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật
cạnh tranh.
Bùi Thị Hằng Nga*
* Khoa Luật Kinh tế Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Abstract
In principle, the owners possess the right to set the prices for their
intellectual property rights. However, under the provisions of the
Competition Law, this right can be restricted and eliminated if the
price is unreasonably offered (predatory pricing). In practice, the
high pricing behavior can be done in the manner of high-input
pricing or low- output pricing, or both. In cases the owner sets
too high pricing to his intellectual property rights, which will lead
to the case of refusal to the intellectual property transfer. On the
other hand, if low pricing behavior is setforth for the goods with
intellectual property rights, which is known as destructive pricing
behavior. This article refers to the behavior of destructive pricing
in the transfer of intellectual property rights in accordance with the
provisions of competition law.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Cạnh tranh, quyền sở
hữu trí tuệ, định giá hủy diệt
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 13/06/2018
Biên tập : 18/09/2018
Duyệt bài : 25/09/2018
Article Infomation:
Keywords: competition law,
intellectual property rights, destructive
pricing
Article History:
Received : 13 Jun 2018
Edited : 18 Sep. 2018
Approved : 25 Sep. 2018
HÀNH VI ĐỊNH GIÁ BẤT HỢP LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
1. Đặt vấn đề
Về nguyên tắc, việc định giá quyền
sở hữu trí tuệ (SHTT) là quyền tự do của
chủ sở hữu. Tuy nhiên, theo quy định của
pháp luật cạnh tranh, quyền tự do đó có thể
bị ngăn cấm nếu hành vi định giá bị xem là
hành vi bất hợp lý (ép giá -Margin squeeze).
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 18(370) T9/2018
Hành vi ép giá (squeeze margin) là
hành vi của một doanh nghiệp có tham gia
cạnh tranh trên cả thị trường đầu nguồn
(upstream market) và thị trường cuối nguồn
(downstream market), và lạm dụng vị trí
thống lĩnh sẵn có trên thị trường đầu nguồn
để nâng giá đến sát mức giá bán sản phẩm
trên thị trường cuối nguồn. Khách hàng tại
thị trường đầu nguồn - đồng thời là đối thủ
cạnh tranh trên thị trường cuối nguồn - của
doanh nghiệp sẽ bị thu hẹp biên độ lợi nhuận
hoặc bị loại trừ ra khỏi thị trường vì bị áp
giá đầu vào quá cao nhưng phải giữ giá đầu
ra ở mức cạnh tranh1. Theo cách tiếp cận
này, hành vi ép giá được xác định dựa vào
các dấu hiệu sau: 1) Sản phẩm được định
giá là sản phẩm khó thay thế trên thị trường
liên quan; 2) Doanh nghiệp đầu nguồn bán
(chuyển giao) sản phẩm cho một hoặc nhiều
doanh nghiệp khác ở thị trường cuối nguồn;
3) Doanh nghiệp đầu nguồn cũng là đối thủ
cạnh tranh với doanh nghiệp nhận chuyển
giao tại thị trường cuối nguồn2.
Trong hoạt động chuyển giao quyền
SHTT, hành vi ép giá xảy ra khi doanh
nghiệp sở hữu quyền SHTT định giá chuyển
giao quyền SHTT thật cao đối với các chủ
thể muốn nhận chuyển giao (ở thị trường đầu
nguồn) nhưng lại bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ phát sinh trực tiếp từ quyền SHTT
tại thì trường tiêu thụ (thị trường cuối nguồn)
với giá thật thấp. Từ đó khiến các doanh
nghiệp nhận chuyển giao quyền SHTT cũng
đồng thời là khách hành của doanh nghiệp
định giá không có khả năng cạnh tranh về
giá, bị loại bỏ ra khỏi thị trường, gây ảnh
hưởng đến môi trường cạnh tranh và lợi ích
1 Đoàn Tử Tích Phước, Thị trường phim chiếu rạp: Cuộc chiến bóp nghẹt lợi nhuận, xem trang
tuanvietnam/cuoc-chien-bop-nghet-loi-nhuan-310624.html truy cập ngày 05/6/2018
2 OECD - DAF/COMP (2009)36, Margin squeeze, p. 7.
3 OECD - DAF/COMP (2009)36, Margin squeeze, p. 29.
4 OECD - DAF/COMP (2009)36, Margin squeeze, p. 8.
5 Liên quan đến hành vi ép giá dẫn đến từ chối chuyển giao quyền SHTT xin xem thêm bài viết: Bùi Thị Hằng Nga, Từ
chối chuyển giao quyền SHTT dưới góc nhìn của pháp luật cạnh tranh, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 8 (336), tháng
4/2017.
của người tiêu dùng. Vì vậy, hành vi ép giá
được xem là hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh và bị cấm theo quy định của pháp luật
cạnh tranh của hầu hết các quốc gia. Trong
trường hợp chủ sở hữu quyền SHTT ấn định
giá chuyển giao quá cao làm cho các chủ thể
không có khả năng đáp ứng nhằm không đạt
được các thỏa thuận liên quan đến đối tượng
chuyển giao thì hành vi ép giá đó được xem
như một hình thức của hành động từ chối
chuyển giao3. Ngược lại, trong trường hợp
hành vi ép giá diễn ra tại thị trường cuối
nguồn bằng cách ấn định giá đầu ra (giá bán
hàng hóa, dịch vụ chứa đựng quyền SHTT)
quá thấp nhằm loại trừ khả năng cạnh tranh
về giá của chủ thể nhận chuyển giao (đồng
thời là chủ thể cạnh tranh ở thị trường cuối
nguồn) thì có thể cấu thành nên hành vi định
giá hủy diệt (định giá cướp đoạt)4. Do đó,
việc xem xét hành vi ép giá của các chủ sở
hữu quyền SHTT có vi phạm pháp luật cạnh
tranh hay không sẽ phụ thuộc vào tác động
của hành vi ấy dưới khía cạnh là hành vi từ
chối chuyển giao quyền SHTT hoặc hành vi
định giá hủy diệt. Trong bài viết, chúng tôi
trình bày các khía cạnh của hành vi ép giá
dẫn đến định giá hủy diệt5.
2. Hành vi định giá hủy diệt
2.1 Xác định hành vi định giá hủy diệt
Dưới góc độ phát triển kinh tế và quản
lý nhà nước, hành vi định giá quá thấp có thể
là hành vi vi phạm pháp luật nếu nó đủ các
yếu tố cấu thành hành vi định giá hủy diệt.
"Định giá hủy diệt là việc các doanh nghiệp
có quyền lực thị trường ấn định giá bán sản
phẩm quá thấp trong một thời gian đủ dài
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 18(370) T9/2018
nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị
trường hoặc (và) ngăn cản không cho đối
thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường. Sau
khi hoàn tất mục đích ngăn cản hoặc hủy bỏ,
doanh nghiệp này sẽ tăng giá một cách đáng
kể nhằm bù đắp các khoản lỗ và các khoản
lợi nhuận đã bỏ qua bởi mức độ cạnh tranh
trên thị trường đã giảm”6. Theo đó, bản chất
bất hợp pháp của hành vi định giá hủy diệt
là: giá bán sản phẩm quá thấp; và nhằm
mục đích loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi
thị trường hoặc ngăn cản đối thủ cạnh tranh
gia nhập thị trường
2.1.1 Giá bán hàng hóa quá thấp
Sẽ là bất hợp pháp nếu như doanh
nghiệp dựa vào năng lực tài chính của mình,
bất chấp lợi nhuận âm, vẫn đẩy giá bán của
hàng hóa trên thị trường xuống mức thấp
nhất nhằm loại bỏ các doanh nghiệp khác
không có đủ tiềm lực tài chính để chịu lỗ
ra khỏi thị trường hoặc ngăn cản các doanh
nghiệp mới muốn gia nhập thị trường bởi
tỷ suất sinh lợi nhỏ hơn 0. Để xem xét khả
năng hủy diệt của một doanh nghiệp thì phải
làm rõ hai yếu tố: (i) doanh nghiệp thực hiện
hành vi có năng lực tài chính để chi phối giá
của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường; (ii) giá
bán hàng hóa, dịch vụ thấp một cách giả tạo
(bất hợp lý)7. Tuy nhiên, đây không phải là
một việc làm dễ dàng bởi giá của sản phẩm
bị chi phối bởi rất nhiều các yếu tố khách
quan cũng như chủ quan như: cơ cấu giá, cơ
cấu chi phí, bối cảnh thị trường...
Doanh nghiệp thực hiện hành vi có vị
trí thống lĩnh (sức mạnh thị trường đáng kể)
Thông thường, một doanh nghiệp
chỉ có khả năng chi phối giá của hàng hóa,
dịch vụ trên thị trường khi nó có sức mạnh
6 David W. Pearce (1999), Từ điển kinh tế học hiện đại, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 808.
7 Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, bài 54: Bán phá giá hủy diệt.
8 Phùng Văn Thành, Sức mạnh thị trường đáng kể từ lý thuyết kinh tế đến quy định của pháp luật cạnh tranh, Tạp chí
Cạnh tranh và tiêu dùng số 36/2012, tr. 22.
9 David W. Pearce (1999), Từ điển kinh tế học hiện đại, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 637.
10 Tlđd số 9, tr. 22.
(quyền lực) thị trường. Sức mạnh thị trường
(market power) là thuật ngữ kinh tế thông dụng
được dùng trong lĩnh vực cạnh tranh để đánh
giá khả năng gây tác động phản cạnh tranh
của hành vi thỏa thuận hay hành vi đơn phương
được thực hiện bởi các chủ thể kinh doanh trên
thị trường8. Đó là khả năng tác động đến giá
của sản phẩm trong một giai đoạn đáng kể9.
Nó là một trong những yếu tố quan trọng để
xác định hành vi của một doanh nghiệp có
phải là hành vi định giá hủy diệt hay không,
bởi chỉ những doanh nghiệp có sức mạnh thị
trường đáng kể mới có khả năng can thiệp
đến giá hàng hóa, dịch vụ. Sức mạnh thị
trường đáng kể được hiểu là sức mạnh thị
trường ở một mức độ đủ để doanh nghiệp
nắm giữ có khả năng không phải hoặc ít
đối mặt với áp lực cạnh tranh từ các chủ thể
khác trên thị trường, từ đó có khả năng tăng
lợi nhuận từ việc tăng và duy trì mức giá cao
hơn mức giá được xác định trong thị trường
cạnh tranh.
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu cũng
như các chuyên gia kinh tế và pháp luật đã
đưa ra quan điểm “sức mạnh thị trường đáng
kể là khả năng doanh nghiệp có thể gia tăng
lợi nhuận từ việc tăng và duy trì mức giá cao
hơn giá cạnh tranh hoặc hạn chế, kiểm soát
sản lượng”10. Khi doanh nghiệp có sức mạnh
thị trường đạt đến một mức độ đáng kể sẽ
được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường.
Nói cách khác, có sự thống nhất giữa khái
niệm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường với doanh nghiệp có sức mạnh thị
trường đáng kể.
Tại châu Âu, khái niệm vị trí thống
lĩnh được đưa ra trong phán quyết đối với
vụ việc UnitedBrandsv.Commission (1978).
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 18(370) T9/2018
Theo đó, “vị trí thống lĩnh vì vậy được xác
định, hay có liên quan tới vị trí với sức mạnh
kinh tế của một thể chế thị trường mà có thể
cho phép nó thực hiện việc ngăn cản hoạt
động cạnh tranh hiệu quả đang tồn tại và
được duy trì trên thị trường liên quan bằng
cách sử dụng sức mạnh thị trường để hành
động trong một chừng mực nào đó là độc lập
đáng kể với các đối thủ cạnh tranh, người tiêu
dùng”11. Tại Hoa Kỳ, khái niệm sức mạnh thị
trường hay vị trí thống lĩnh được Tòa án Tối
cao xác định là “khả năng doanh nghiệp
với sức mạnh của mình có thể tăng và duy
trì mức giá của sản phẩm hay dịch vụ cao
hơn mức giá được xác định trong điều kiện
thị trường cạnh tranh thông thường. Và sức
mạnh độc quyền là sức mạnh để có thể kiểm
soát giá hoặc loại trừ cạnh tranh”12.
Để xác định xem một doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh hay không, pháp luật
cạnh tranh và cơ quan cạnh tranh ở nhiều
quốc gia như Hoa Kỳ, châu Âu hoặc Nhật
Bản vẫn dựa vào thị phần của doanh nghiệp
như là dấu hiệu đầu tiên cần xem xét. Tuy
nhiên, pháp luật của các quốc gia này không
quy định chính xác mức thị phần chiếm giữ
để coi một doanh nghiệp có sức mạnh thị
trường hay vị trí thống lĩnh. Ví dụ, theo Luật
Cạnh tranh châu Âu, nếu doanh ngiệp chiếm
thị phần từ 50% trở lên sẽ được giả định
chắn chắn có vị trí thống lĩnh hay sức mạnh
thị trường đáng kể mà không cần phải xem
xét đến các yếu tố khác. Nhưng, nếu doanh
nghiệp đó chiếm mức thị phần từ 40% đến
50% thì chỉ được giả định tương đối chắc
chắn về khả năng có sức mạnh thị trường
đáng kể nhưng để kết luận rằng doanh
nghiệp đó có vị trí thống lĩnh hay không thì
cần phải có các chứng cứ nhằm chứng minh
11 Tlđd số 9, tr. 22.
12 Tlđd số 9, tr. 23.
13 Tlđd số 9, tr. 24.
14 Tlđd số 9, tr. 25.
15 Điều 11 Luật Cạnh tranh 2004.
16 Điều 22, Nghị định 116/2005/NĐ-CP.
các yếu tố khác liên quan đến khả năng chi
phối cũng như tác động tiêu cực đến môi
trường cạnh tranh13. Như vậy, theo quy định
của pháp luật Hoa Kỳ và châu Âu, thị phần
là yếu tố quan trọng nhưng không phải là
yếu tố duy nhất để đánh giá sức mạnh thị
trường đáng kể của một doanh nghiệp. Bên
cạnh yếu tố thị phần, các cơ quan cạnh tranh
có thể xem xét thêm các yếu tố khác của
doanh nghiệp như khả năng tài chính của
doanh nghiệp, lợi thế về công nghệ, những
phát minh sáng chế hay cải tiến kỹ thuật, sản
phẩm mà doanh nghiệp đang nắm giữ, cũng
như các yếu tố khách quan của thị trường
như: cấu trúc thị trường, rào cản gia nhập,
chi phí chuyển đổi14.
Tại Việt Nam, sức mạnh thị trường
của doanh nghiệp được xác định dựa vào
thị phần của chính doanh nghiệp đó trên thị
trường liên quan. Theo đó, doanh nghiệp
được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu
có thị phần từ 30% trở lên (50%, 65% hoặc
75% đối với 2, 3 hoặc 4 doanh nghiệp) trên
thị trường liên quan hoặc có khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể15. Khả
năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng
kể của doanh nghiệp trên thị trường liên
quan được xác định dựa vào một hoặc một
số căn cứ chủ yếu sau: 1. Năng lực tài chính
của doanh nghiệp; 2. Năng lực tài chính của
tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh
nghiệp; 3. Năng lực tài chính của tổ chức, cá
nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối hoạt
động của của doanh nghiệp theo quy định
của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp;
4. Năng lực tài chính của công ty mẹ; 5. Năng
lực công nghệ; 6. Quyền sở hữu, quyền sử
dụng đối tượng sở hữu công nghiệp; 7. Quy
mô của mạng lưới phân phối16.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 18(370) T9/2018
Giá bán hàng hóa, dịch vụ thấp một
cách giả tạo, bất hợp lý
Dưới góc độ kinh tế, trong hoàn cảnh
bình thường, thì giá bán của hàng hóa, dịch
vụ phải đảm bảo bù đắp được chi phí sản
xuất. Do đó, để xem xét giá bán của hàng
hóa, dịch vụ có hợp lý hay không người ta
thường sử dụng biện pháp so sánh giữa giá
bán thực tế với giá thành sản phẩm (chi phí
sản xuất). Theo cách tiếp cận truyền thống
thì chi phí sản xuất là tổng các chi phí cố
định và chi phí biến đổi tại một mức độ sản
xuất nhất định nào đó của doanh nghiệp.
Chi phí cố định (fixed costs) là những chi
phí không thay đổi theo mức độ sản xuất hay
doanh số như tiền thuê mặt bằng, tiền khấu
hao máy móc, thiết bị và nhà xưởng, tiền
lãi và tiền lương của các cán bộ quản lý
Chi phí biến đổi (variable costs) là khoản
chi phí trực tiếp trên một đơn vị sản phẩm
các chi phí liên quan đến nguyên vật liệu,
nhiên liệu, tiền lương theo sản phẩm Với
cách tiếp cận truyền thống, việc xác định giá
bán hàng hóa có hợp lý hay không dựa vào
tổng chi phí sản xuất trung bình mà theo đó,
nếu giá bán hàng hóa thấp hơn tổng chi phí
sản xuất trung bình sẽ tạo thành hành vi định
giá hủy diệt.
Ngoài cách tiếp cận truyền thống, các
nhà quản lý còn dựa vào các yếu tố khác
của hành vi định giá không loại trừ mục
đích của việc thực hiện hành vi là loại bỏ
hoặc ngăn cản đối thủ cạnh tranh. Những
yếu tố này bao gồm: mức chênh lệch thực
tế giữa chi phí sản xuất hoặc chi phí hạch
toán và giá bán sản phẩm đó; khoảng thời
gian hoạt động bán hàng với mức giá nghi
ngờ diễn ra; hoàn cảnh hay bối cảnh thực tế
của doanh nghiệp, của thị trường khi diễn
ra việc bán hàng với mức giá nghi ngờ; liệu
có những lợi ích bên ngoài hay dài hạn dồn
về cho người bán để người bán có khả năng
giảm giá thấp hơn so với chi phí17.
Hiện nay, các nhà chuyên môn cho
17 Cơ quan Phát triển quốc tế Canada, Luật Cạnh tranh Canada và bình luận, tr. 78.
18 OECD (1989), Predatory pricing, p. 64.
rằng, việc xác định tính hợp lý của giá bán
hàng hóa được thực hiện dựa trên nguyên
tắc: giá bán hàng hóa cao hơn tổng chi phí
trung bình mặc nhiên là hợp pháp dù doanh
nghiệp thực hiện có sức mạnh thị trường hay
không; giá bán hàng hóa được ấn định thấp
hơn mức chi phí biến đổi trung bình bị coi là
bất hợp pháp trừ trường hợp có những bằng
chứng rõ ràng chứng minh cho các trường
hợp đặc biệt của quá trình kinh doanh được
phép bán với mức giá đó như bán hàng trưng
bày, hàng tồn kho, hàng lỗi; và giá bán
hàng hóa thấp hơn chi phí sản xuất trung
bình nhưng cao hơn chi phí biến đổi trung
bình có thể bị xem là bất hợp pháp, điều đó
phụ thuộc vào kết quả điều tra liên quan đến
việc xác định mức giá18.
2.1.2 Nhằm mục đích loại bỏ đối
thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường hoặc
ngăn cản đối thủ cạnh tranh gia nhập
thị trường
Việc định giá bán hàng hóa, dịch vụ
thấp không mặc nhiên bị xem là hành vi hủy
diệt mà cần phải đánh giá khả năng loại bỏ
hoặc ngăn cản đối thủ cạnh tranh thông qua
mức giá đã được ấn định. Để chứng minh
điều này, tòa án và cơ quan cạnh tranh phải
chứng minh xem chủ thể thực hiện hành vi
có ý định "cướp đoạt” lợi nhuận sau khi đã
loại bỏ hoặc ngăn cản các đối thủ cạnh tranh
hay không. Quá trình chứng minh phải thực
hiện việc điều tra qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: hủy diệt đối thủ cạnh
tranh bằng cách đẩy giá hàng hóa trên thị
trường tiêu thụ xuống thấp hơn chi phí sản
xuất. Với sức mạnh thị trường đáng kể cùng
với sức mạnh tài chính và công nghệ, doanh
nghiệp sẽ áp đặt mức giá có độ chênh lệch
lớn so với đối thủ và duy trì nó trong một
thời gian đủ lâu để buộc các đối thủ phải
chạy đua giảm giá nếu muốn tồn tại và đến
một mức nào đó các đối thủ yếu hơn buộc
phải rời bỏ thị trường.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 18(370) T9/2018
- Giai đoạn 2: khai thác quyền lực thị
trường bằng cách tăng giá thật cao nhằm bù
đắp các khoản thiệt hại đã phải gánh chịu
trong giai đoạn 1. Đây là mục đích chính của
các doanh nghiệp khi thực hiện chiến lược
định giá hủy diệt. Nếu không chứng minh
được mục đích này của doanh nghiệp bị cáo
buộc thì hành vi định giá thấp bất hợp lý của
họ không mặc nhiên bị xem là hành vi định
giá hủy diệt. Điều này được khẳng định trong
án lệ R. v. Producer’s Dairy Ltd. Theo đó,
năm 1961, một nhà máy cung cấp sữa lớn tại
khu vực Ottawa (Canada) với mục đích mở
rộng mạng lưới phân phối của mình tại một
chuỗi các siêu thị tại địa phương nên họ thực
hiện việc giảm giá mạnh cho các nhà bán lẻ
và bán buôn. Sau khi thực hiện chiến dịch
giảm giá, các doanh nghiệp khác cùng cung
cấp mặt hàng sữa tại các siêu thị trên có đơn
khởi kiện yêu cầu tòa án xem xét về hành vi
định giá hủy diệt của họ. Tuy nhiên, sau quá
trình điều tra, tòa án cho rằng việc giảm giá
ở đây không phải là chính sách giảm giá lâu
dài nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh tranh mà
chỉ là chiến lược kinh doanh của họ nhằm
mở rộng mạng lưới phân phối nên không có
đủ bằng chứng để cáo buộc hành vi giảm giá
của họ là hành vi định giá hủy diệt19.
2.2 Điều chỉnh pháp luật đối với hành vi
định giá hủy diệt
Tại Hoa Kỳ, hành vi định giá hủy diệt
đã được thống nhất bởi quan điểm của Tòa
án tối cao trong hai vụ việc Cargill, inc. v.
Monfort of Colorado, Inc., and Matsushita
Electric Industrial Co., Lid. v. Zenith Radio
Corp20.
Theo đó, nếu Tòa án chứng minh
được rằng một doanh nghiệp có sức mạnh
thị trường đã đưa ra một mức giá hủy diệt
thì hành vi đó bị xem là vi phạm mặc nhiên
theo Điều 2 Đạo Luật Sherman với 3 lý do:
19 OECD (1989), Predatory pricing, p. 48.
20 475 US 574(1986).
21 OECD (1989), Predatory pricing, p. 40.
22 OECD- DAF (COMP) 36/2009, p. 251.
(1) Hành vi đó loại trừ hoặc hạn chế
cạnh tranh;
(2) Mục đích của hành vi là nhằm kiểm
soát giá hoặc loại bỏ đối thủ cạnh tranh;
(3) Đe dọa nghiêm trọng đến phúc lợi
của người tiêu dùng21.
Tuy nhiên, để xem xét hành vi của một
chủ thể có phải là hành vi định giá hủy diệt
hay không thì các cơ quan có thẩm quyền
phải làm sáng tỏ được hai yêu cầu: (1) giá
được đưa ra có phải là mức giá thấp bất hợp
lý hay không; và (2) khoản lỗ do bán hàng
hóa với giá thấp có khả năng được bù đắp
sau khi loại bỏ được các đối thủ cạnh tranh
ra khỏi thị trường hay không22. Như vậy, họ
phải chứng minh được mức giá được đưa
ra bởi một doanh nghiệp là mức giá hủy
diệt, vì trên thực tế việc xác định giá thành
của một sản phẩm dựa vào chi phí biến đổi
trung bình cũng không đủ căn cứ để khẳng
định rằng mức giá đưa ra mức giá hủy diệt.
Nguyên tắc này được khẳng định trong
án lệ Meijer. Trong án lệ, Công ty Abbot
được cấp bằng sáng chế đối với chất ức
chế Norvir (một hoạt chất dùng trong thuốc
điều trị HIV). Sau khi hoạt chất Norvir được
phát minh, nó được bán lại cho các công ty
dược phẩm có nhu cầu. Sau đó, có nhiều loại
thuốc chứa hoạt chất này nhằm mục đích
điều trị căn bệnh HIV được sản xuất bởi
các công ty dược phẩm khác bên cạnh sản
phẩm của Abbot. Năm 2003, Công ty Abbot
quyết định tăng giá bán của Norvir lên 400%
trong khi các sản phẩm chứa hoạt chất của
Abbot trên thị trường vẫn được giữ nguyên
giá. Abbot cho rằng, việc tăng giá Norvir là
hợp lý bởi giá trị lâm sàng của nó trong quá
trình điều trị căn bệnh thế kỷ. Sau đó, Công
ty Meijer khởi kiện Abbot với lý do hành
vi tăng giá bán Norvir là một cách thức để
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 18(370) T9/2018
Abbot tăng cường sức mạnh thị trường của
mình bởi doanh thu của việc bán Norvir cho
phép Abbot có thể duy trì mức giá thấp hơn
cho các loại thuốc chứa hoạt chất Norvir.
Điều này sẽ giúp Abbot loại bỏ các đối thủ
cạnh tranh khác trên thị trường thuốc điều
trị HIV23.
Abbot cho rằng Meijer phải chứng
minh giá của sản phẩm điều trị chứa hoạt
chất Norvir của Abbott thấp hơn chi phí sản
xuất biến đổi trung bình của Abbott. Tuy
nhiên, theo quan điểm của thẩm phán giải
quyết vụ việc thì việc xác định giá bán sản
phẩm của Abbot thấp hơn chi phí sản xuất
của Meijer cũng không đủ căn cứ để khẳng
định rằng giá Abbot đưa ra là mức giá hủy
diệt, bởi “đối với ngành dược phẩm, một
nhà sản xuất dược phẩm phải đầu tư các
khoản chi phí rất lớn cho hoạt động nghiên
cứu phát triển sản phẩm. Điều đó có nghĩa
chi phí cố định trong trường hợp này sẽ rất
cao. Và nếu dựa vào tổng chi phí sản xuất
trung bình của sản phẩm cho trường hợp
này thì chắc chắn giá bán của sản phẩm sẽ
luôn cao hơn chi phí”. Do vậy, cách tiếp cận
truyền thống không thể xác định được giá
mà Abbot ấn định cho Norvir có phải là giá
hủy diệt hay không.
Bên cạnh đó, nếu chỉ dựa vào chi phí
biến đổi trung bình để xem xét giá thành của
loại thuốc có chứa hoạt chất Norvir do Abbot
sản xuất thấp hơn giá loại thuốc tương tự
của các doanh nghiệp khác sản xuất nhằm
khẳng định rằng mức giá của Abbot là mức
giá hủy diệt cũng không hợp lý bởi chúng
ta không thể so sánh giá thành sản xuất của
một sản phẩm của một chủ thể không được
cấp bằng sáng chế với một chủ thể đang nắm
giữ bằng sáng chế liên quan đến sản phẩm.
Bởi đó cũng là một lợi thế đáng có để các
23 “Monopolies, Innovation, and Predatory Pricing: Observations on Some Hard Questions in the Section 2 Context”
accessed June 8, 2018, p. 14.
24 OECD (1989), Predatory pricing, p. 76,
25 OECD - DAF/COMP (2009) 36, Margin squeeze, p. 82.
chủ thể sở hữu bằng sáng chế sẵn sàng chia
sẻ các thành quả của hoạt động sáng chế ra
thị trường.
Trên nguyên tắc đó, hiện nay tại Hoa
Kỳ, quan điểm của Tòa án trong xác định
hành vi ấn định giá của một chủ thể có mang
tính hủy diệt hay không phải được đánh giá
dưới các khía cạnh: 1) Giá trên tổng chi phí
không nên là căn cứ để xác định mức giá
hủy diệt; 2) Giá giữ biến số trung bình trên
tổng chi phí về lâu dài cũng không nên là
căn cứ xác định mức giá hủy diệt vì nó có
thể thay đổi với một số yếu tố như trình độ
công nghệ, thị hiếu của người tiêu dùng,
mức độ cạnh tranh của thị trường Điều đó
có nghĩa rằng giá của cùng một sản phẩm ở
các thị trường cạnh tranh khác nhau có thể
là khác nhau; 3) Ngay cả mức giá dựa trên
chi phí biến đổi trung bình cũng không nên
được xem là căn cứ duy nhất để xác định
mức giá hủy diệt mà cần phải dựa vào các
yếu tố khác, ví dụ như đối với những chủ thể
mới gia nhập thị trường thì việc bán hàng
hóa với mức giá thấp cũng là một cách thức
cần thiết để tồn tại và phát triển24.
Vì vậy, tùy vào từng trường hợp cụ thể
Tòa án xem xét, ra quyết định mức giá áp
dụng có phải là mức giá hủy diệt hay không
thay vì đưa ra một công thức tính giá cụ thể.
Thêm nữa, trong từng vụ việc cụ thể, các căn
cứ xác định chi phí sản xuất có thể bị che
giấu bởi doanh nghiệp định giá; nên trong
trường hợp này, các thẩm phán cũng cần vận
dụng các kiến thức kinh tế cũng như số liệu
kế toán nhằm đưa ra quyết định đúng đắn.
Theo Luật Cạnh tranh Canada, hành
vi định giá hủy diệt có thể được xem là một
hình thức của hành vi ấn định giá bán hàng
hóa, dịch vụ dưới giá thành sản phẩm nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh25. Điều 78(1) của
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 18(370) T9/2018
Luật Cạnh tranh Canada quy định, nếu một
công ty cố ý đưa ra một mức giá thấp và
chấp nhận chịu lỗ trong một thời gian đủ
dài nhằm loại bỏ hoặc ngăn chặn các đối
thủ cạnh tranh với kỳ vọng rằng công ty sẽ
bù đắp được các khoản tổn thất và tìm kiếm
được nhiều lợi nhuận hơn bằng cách tăng giá
cao hơn ngay sau khi đã loại bỏ hoặc ngăn
chặn các đối thủ cạnh tranh thành công. Tuy
nhiên, để xem xét hành vi định giá hủy diệt
của doanh nghiệp thì cơ quan cạnh tranh sẽ
xét xem doanh nghiệp bị cáo buộc thực hiện
hành vi định giá hủy diệt phải có quyền lực
thị trường trước khi tiến hành điều tra xem
mức giá của đối tượng bị buộc tội có thấp
một cách bất hợp lý hay không.
Theo đó, cơ quan quản lý cạnh tranh,
trước khi đưa ra quyết định của mình đòi hỏi
phải phân tích theo hai bước: bước 1, xác
định xem liệu có tồn tại điều kiện thị trường
cho phép người bị buộc tội sẽ thu hồi lại
được những tổn thất phải chịu do định giá
quá thấp hay không (liệu người bán có quyền
lực thị trường hay không). Để xác định một
doanh nghiệp có quyền lực thị trường hay
không, ngoài việc dựa vào thị phần (35%
đối với một hãng riêng lẻ hay 65% đối với
04 hãng lớn nhất trên thị trường sẽ được áp
dụng cho mọi trường hợp)26, họ còn xem xét
đến các điều kiện gia nhập thị trường để xác
định xem hành vi định giá thấp bất hợp lý
này có phải là một phần của chiến lược loại
bỏ hoặc ngăn cản đối thủ cạnh tranh hay đơn
thuần chỉ là hành vi giảm giá sản phẩm trong
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Sau khi xác định được doanh nghiệp
có sức mạnh thị trường rồi sẽ tiếp tục thực
hiện bước 02, xác định xem mức giá định ra
đó có hợp lý trong sự tương quan với các chi
phí của doanh nghiệp bị cáo buộc thực hiện
hành vi định giá hủy diệt hay không. Về cơ
26 Cơ quan Phát triển quốc tế Canada, Luật Cạnh tranh Canada và bình luận, tr. 80.
27 Điều 82 Hiệp định Rome.
28 Christian Barthel (Faculty of Law- University of Lund), Predatory Pricing Policy under EC and US Law, 2002, p. 22.
bản, các tiêu chí để xác định mức giá được
đưa ra có thấp bất hợp lý hay không cũng
tương tự như quan điểm của Tòa án Hoa Kỳ
(như đã trình bày ở trên).
Tương tự như pháp luật của Hoa Kỳ
và Canada, tại châu Âu, hành vi định giá hủy
diệt sẽ bị ngăn cấm theo quy định tại Điều
102 TFEU (Hiệp định về hoạt động của
Liên minh châu Âu) “cấm đối với bất kỳ
một hành vi lạm dụng nào do một hoặc một
nhóm chủ thể kinh doanh trên thị trường có
vị trí thống lĩnh thực hiện trong khuôn khổ
thị trường chung hoặc phần khu vực trọng
yếu có liên quan”.
Các hành vi lạm dụng này chủ yếu bao
gồm:
a) Áp đặt một cách trực tiếp giá mua
hoặc giá bán hoặc các điều kiện giao dịch
không công bằng; . c) Áp đặt các điều
kiện giao kết hợp đồng với các bên giao
dịch khác, từ đó đặt họ vào thế bất lợi cạnh
tranh27.
Xét về bản chất, mức giá thấp bất hợp
lý cũng được xem như một cách thức áp đặt
giá đồng thời cũng được xem là điều kiện
giao kết hợp đồng bất hợp lý. Vì hành vi này
bao gồm hai giai đoạn loại trừ và cướp đoạt:
(1) các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường
đáng kể sẽ lạm dụng vị trí đó của mình để
áp đặt mức giá thấp giả tạo đủ để loại trừ
hoặc ngăn cản các đối thủ cạnh tranh trên
thị trường tiêu thụ; (2) sau khi loại bỏ hoặc
ngăn cản các đối thủ cạnh tranh thành công,
doanh nghiệp sẽ tăng giá hàng hóa lên mức
siêu cạnh tranh bằng cách sử dụng sức mạnh
độc quyền của mình từ đó thực hiện hành vi
cướp đoạt thông qua mức giá quá cao28. Do
vậy, hành vi định giá hủy diệt được xem như
là một hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và
bị ngăn cấm. Quan điểm này của Tòa án và
cơ quan cạnh tranh được thể hiện thông qua
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 18(370) T9/2018
án lệ ECS/AKZO. Theo đó, AKZO là một
nhà sản xuất Hà Lan nắm giữ khoảng 50%
thị trường Peroxit hữu cơ ở châu Âu. AKZO
bị cáo buộc đã thực hiện hành vi áp đặt giá
bán hàng hóa thấp bất hợp lý nhằm loại bỏ
đối thủ cạnh tranh theo quy định tại Điều
82 của Hiệp định Rome bởi ECS - một nhà
sản xuất nhỏ của Anh cũng sản xuất Peroxit
hữu cơ, được bán chủ yếu dưới dạng bột phụ
gia - bằng cách giảm giá trực tiếp cho các
khách hàng của ECS. Đồng thời phía ECS
cũng đã thừa nhận rằng phía lãnh đạo AKZO
đã từng yêu cầu ECS rút khỏi thị trường phụ
gia Peroxit tại Anh nếu không sẽ áp dụng
mức giá thấp dưới chi phí.
Sau đó, bằng hoạt động điều tra hai
bước, Ủy ban châu Âu xác định được AKZO
lạm dụng vị trí thống lĩnh của mình nhằm
bán hàng hóa dưới mức chi phí bởi mức giá
thấp này không được lý giải bởi các lý do
hợp lý từ các yếu tố của thị trường. Hành vi
đó của AKZO làm giảm hiệu quả cạnh tranh
trên thị trường trong ngắn hạn và trong dài
hạn sẽ dẫn đến loại bỏ ECS và các đối thủ
cạnh tranh nhằm chiếm vị thế độc quyền của
thị trường bột phụ gia tại Anh. Từ đó không
loại trừ khả năng AKZO sẽ tăng giá đến
mức siêu lợi nhuận nhằm bù đắp các tổn thất
trước đó của mình. Do đó, Ủy ban châu Âu
kết luận hành vi của AKZO vi phạm Điều
82 Hiệp định Rome và Điều 102 TFEU nên
phạt AKZO 10 triệu Euro, đồng thời yêu cầu
chấm dứt các hành vi vi phạm bao gồm cả
hành vi định giá thấp giả tạo29.
Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh năm
2004 không đề cập trực tiếp đến hành vi hủy
diệt. Tuy vậy, nếu dựa vào bản chất của vấn
đề, có thể nhận thấy rằng hành vi định giá
29 OECD (1989), Predatory pricing, p. 71-72.
30 Điều 28 Dự thảo 5 quy định: Sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp được xác định căn cứ vào một số trong
các yếu tố sau đây: 1. Tương quan thị phần giữa các doanh nghiệp trên thị trường liên quan; 2. Rào cản gia nhập, mở
rộng thị trường; 3. Khả năng tiếp cận, kiểm soát thị trường tiêu thụ sản phẩm hoặc thị trường nguồn cung; 4. Năng lực
công nghệ, bao gồm cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ công nghệ sản xuất, tính sẵn sàng của công nghệ và năng lực đổi
mới công nghệ; 5. Cơ sở hạ tầng thiết yếu của doanh nghiệp hoặc khả năng nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạ tầng thiết yếu;
6. Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng quyền SHTT;
hủy diệt được xem xét dưới dạng là hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
để bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá
thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh theo quy định tại Khoản 1 Điều 13.
Tuy nhiên, các tiêu chí để xác định tính bất
hợp pháp của hành vi còn nhiều hạn chế.
Thứ nhất, liên quan đến vị trí
thống lĩnh
Theo quy định của Luật Cạnh tranh
2004 và Nghị định 116/2005/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành Luật Cạnh tranh, thị phần hoặc
khả năng gây cản trở cạnh tranh là căn cứ
duy nhất để xem xét liệu doanh nghiệp có
sức mạnh thị trường hay không thay vì kết
hợp cả các yếu tố trên đã tạo ra một nguyên
tắc cứng nhắc trong việc xác định vị trí
thống lĩnh của doanh nghiệp. Quy định này
sẽ không đánh giá toàn diện, chính xác về
khả năng ngăn cản hoặc loại bỏ đối thủ cạnh
tranh của các chủ thể thực hiện các hành vi
vi phạm pháp luật cạnh tranh. Bên cạnh đó,
các căn cứ để xem xét khả năng gây hạn
chế của doanh nghiệp dựa vào năng lực tài
chính, năng lực công nghệ, quy mô mạng
lưới phân phối theo quy định tại Điều 22
Nghị định 116/2005/NĐ-CP lại chưa rõ ràng
và đầy đủ.
Do đó, việc xác định sức mạnh của thị
trường cần phải được thực hiện kết hợp cả
hai yếu tố thị phần và khả năng gây cản trở
cạnh tranh theo cách tiếp cận của Dự thảo
sửa đổi bổ sung Luật Cạnh tranh (vừa được
Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5) cho
phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như phản
ánh rõ bản chất nguy hại của hành vi định
giá hủy diệt30.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
57Số 18(370) T9/2018
Thứ 2, xác định mức giá thấp bất
hợp lý
Trừ những trường hợp đặc biệt, bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành
toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là
việc bán hàng, cung ứng dịch vụ với mức
giá thấp hơn tổng các chi phí dưới đây: a)
Chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng
hóa, dịch vụ hoặc giá mua hàng hóa để bán
lại; b) Chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ31.
Với quy định này thì căn cứ chính để
xác định mức giá mà doanh nghiệp đưa ra có
là mức giá hủy diệt hay không chính là giá
thành sản xuất và lưu thông của hàng hóa,
dịch vụ. Như đã trình bày ở trên, việc xác
định giá thấp một cách bất hợp lý dựa vào
giá thành sản xuất và lưu thông hàng hóa là
không phù hợp, đặc biệt là trong lĩnh vực
SHTT khi chủ thể thực hiện hành vi còn nắm
giữ các lợi thế về phát minh, sáng chế.
Như vậy, theo quy định của pháp luật
Việt Nam, chỉ cần một doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền bán hàng
hóa hoặc cung ứng dịch vụ dưới giá thành
sản xuất và lưu thông hàng hóa thì xem như
là đã thực hiện hành vi định giá hủy diệt và
bị ngăn cấm; trong khi đó, bản chất của hành
vi định giá hủy diệt là ngăn cản hoặc loại bỏ
đối thủ cạnh tranh lại không được pháp luật
làm rõ.
3. Lời kết
Xét từ bản chất thì hành vi định giá
hủy diệt là hành vi có mức độ nguy hại lớn
cho cấu trúc cạnh tranh trên thị trường liên
quan. Bởi nó không chỉ hướng đến loại
bỏ, cản trở các đối thủ cạnh tranh trên thị
31 Điều 23 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP.
32 Xem truy cập ngày 12/6/2018.
33 Về nhận định này, xem thêm: Đoàn Tử Tích Phước, Thị trường phim chiếu rạp: Cuộc chiến bóp nghẹt lợi nhuận, xem
truy cập ngay2 05/6/2018
Nguyễn Minh Đức (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI), Bốn giả thuyết cho “đại chiến” giữa Uber-
Grab và Taxi. XEM https://tuoitre.vn/bon-gia-thuyet-cho-dai-chien-giua-ubergrab-va-taxi-1359031.htm truy cập ngày
12/6/2018.
Vinasun thừa nhận không cách nào đấu lại “giá hủy diệt” của Uber- Grab, xem
kinh-te-so-c-100/vinasun-thua-nhan-khong-cach-nao-dau-lai-gia-huy-diet-cua-uber-va-grab-59770.html truy cập ngày
12/6/2018.
trường mà còn tác động tiêu cực đến lợi ích
của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên thực
tế không dễ dàng để xác định hành vi của
chủ thể có phải là hành vi định giá hủy diệt
hay không. Nó buộc Tòa án và cơ quan quản
lý cạnh tranh phải thực hiện hoạt động điều
tra hai bước: (1) xác định mức giá áp đặt là
mức giá hủy diệt; (2) mục đích của việc đặt
ra mức giá đó là loại bỏ đối thủ cạnh tranh
nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn từ phía
người tiêu dùng. Đó là một việc làm hết sức
khó khăn và phức tạp, sự phức tạp đó đến
từ những khó khăn trong việc xác định sức
mạnh thị trường đáng kể thông qua yếu tố
thị phần, thị trường liên quan, đồng thời xác
định mức giá mua, giá bán cũng như các yếu
tố khác để chứng minh mức giá đưa ra là
bất hợp lý. Điều đó đòi hỏi các chủ thể xử
lý ngoài nắm vững các quy định của pháp
luật còn phải có các kiến thức, nghiệp vụ
kinh tế. Bên cạnh đó, các quy định của pháp
luật Việt Nam còn có những điểm hạn chế,
chưa tương thích với cách tiếp cận và xử lý
đối với hành vi định giá hủy diệt. Dù Luật
Canh tranh sửa đổi bổ sung đã được Quốc
hội khóa XIV kỳ họp thứ 5 thông qua32; tuy
nhiên, các bất cập nêu trên hiện vẫn chưa
được giải quyết triệt để. Đó cũng chính là
một trong những lý do giải thích cho thực
trạng bỏ ngỏ trong việc xử lý hành vi này dù
trên thực tế nó vẫn đang diễn ra dưới hình
thức này hay hình thức khác33.
Do vậy, trong thời gian tới, Nhà nước
cần ban hành các văn bản hướng dẫn phù
hợp nhằm loại bỏ những hạn chế cũng như
các bất đồng trong việc xử lý hành vi định
giá hủy diệt tại thị trường Việt Nam, đặc biệt
trong lĩnh vực SHTT■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
58 Số 18(370) T9/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hanh_vi_dinh_gia_bat_hop_ly_trong_hoat_dong_chuyen_giao_quye.pdf