Thứ nhất, bản chất của hệ thống nhân sự
theo vị trí việc làm không nằm ở cụm từ “vị
trí việc làm” hoặc “đề án vị trí việc làm” mà
nằm ở những cái đằng sau nó, những lý do
để người ta phải gọi nó là “vị trí việc làm”.
Nói cách khác, Việt Nam chưa xác định một
cách rõ ràng mô hình nhân sự sẽ theo. Hiện
tại, Việt Nam theo mô hình chức nghiệp15 và
việc triển khai đề án vị trí việc làm là một
nỗ lực để áp dụng một số yếu tố của mô hình
nhân sự theo vị trí việc làm. Vậy mô hình
nhân sự trong tương lai (cái mà Chính phủ
đang hướng tới) là mô hình nhân sự theo vị
trí việc làm hay mô hình hỗn hợp giữa chức
nghiệp và việc làm? Nếu là mô hình hỗn
hợp, cần thiết phải xác định hỗn hợp ở mức
độ như thế nào: yếu tố nào sẽ theo mô hình
chức nghiệp, yếu tố nào sẽ theo mô hình
nhân sự theo vị trí việc làm? Phải trả lời
được những câu hỏi như vậy, cải cách trong
chế độ công vụ của Việt Nam mới có được
định hướng cùng những bước đi rõ ràng với
lộ trình chi tiết; tránh được tình trạng chạy
theo hình thức, phong trào do chưa hiểu biết
thấu đáo như hiện nay: tên thì gọi là vị trí
việc làm, cũng có bảng mô tả công việc với
những yêu cầu cụ thể cho một số vị trí việc
làm, một số cơ quan đăng thông báo tuyển
dụng công khai (đặc điểm của mô hình nhân
sự theo vị trí việc làm), nhưng tuyển dụng
lại thông qua kỳ thi chung, tiêu chí quan
trọng nhất vẫn là bằng cấp và sự phù hợp về
bằng cấp, việc thăng tiến diễn ra một cách
tuần tự từ cấp dưới lên (đặc điểm của mô
hình chức nghiệp). Một số nơi sử dụng tiêu
chí về bằng cấp trong thông báo tuyển dụng
để loại nhiều ứng cử viên từ khâu nộp hồ
sơ, mà không quan tâm đến mức độ đáp ứng
về kỹ năng, kiến thức của họ. Một số nơi lại
thực hiện bố trí lại nhân sự theo tiêu chí
bằng cấp. Những cách làm tùy nghi này vô
hình trung làm trầm trọng thêm bệnh bằng
cấp vốn đang bị xã hội lên án. Hiện nay,
nhiều cán bộ, công chức đang cố gắng tham
gia các lớp đại học luật, vì theo đề án vị trí
việc làm của một số tỉnh gần như vị trí nào
cũng yêu cầu bằng đại học luật.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hệ thống nhân sự theo vị trí việc làm ở một số nước OECD và một vài so sánh, kiến nghị cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HÏå THÖËNG NHÊN SÛÅ THEO VÕ TRÑ VIÏåC LAÂM ÚÃ MÖÅT SÖË NÛÚÁC OECD
VAÂ MÖÅT VAÂI SO SAÁNH, KIÏËN NGHÕ CHO VIÏåT NAM
NGô Hoài SƠN*
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực đẩy mạnh cải
cách hành chính nhà nước. Trong đó có nỗ lực áp dụng hệ thống nhân sự1
theo việc làm vào khu vực công, khởi đầu bằng việc đưa cụm từ “vị trí việc làm”
vào Luật Cán bộ, công chức năm 2008, sau đó đến Nghị định số 36/2013/NĐ-
CP ngày 22/4/2013 của Chính phủ về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức,
với mục đích hướng dẫn xác định vị trí việc làm ở các cơ quan nhà nước, đơn
vị sự nghiệp công, các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan của Đảng. Tuy
nhiên đến nay, nhiều địa phương vẫn còn lúng túng trong việc xác định vị trí
việc làm. Bài viết, phản ánh thực tế áp dụng mô hình nhân sự theo vị trí việc
làm ở một số nước thuộc nhóm OECD, cụ thể là Úc và Niu Di-lân, đưa ra một
số so sánh với Việt Nam.
1. Một số vấn đề cơ bản về hệ thống
nhân sự
Hệ thống nhân sự trên thế giới được
chia thành ba loại: hệ thống chức nghiệp, hệ
thống nhân sự theo vị trí việc làm và hỗn
hợp2. Tuy nhiên, trên thực tế không có hệ
thống chức nghiệp hoặc việc làm thuần tuý.
Khi nói một quốc gia nào đó áp dụng mô
hình nhân sự chức nghiệp, hoặc theo vị trí
việc làm, thì chỉ có nghĩa là những đặc điểm
của mô hình chức nghiệp hoặc việc làm nổi
trội hơn, chiếm ưu thế hơn so với mô hình
còn lại3. Ở những quốc gia có kết hợp cả hai
mô hình nhân sự, sự xuất hiện đặc điểm của
hai mô hình nổi bật như nhau, chẳng hạn
như Mỹ, Anh4 và Ca-na-đa5.
* ThS, GV. Học viện Hành chính Quốc gia.
1 Để thuận tiện và đơn giản, trong bài viết này, thay vì dùng cán bộ, công chức, viên chức, chúng tôi sử dụng khái niệm
nhân sự trong khu vực công. Cách sử dụng này phù hợp với những nghiên cứu ở nước ngoài, đồng thời hạn chế được
sự tranh luận không cần thiết do ở Việt Nam, cán bộ, công chức và viên chức chỉ ba đối tượng khác nhau.
2 Analytica 2008, ‘Introducing career-based system in civil service’, Analytica, April 2008; Bruynooghe, S. P, et al. 2009
‘Implementation of Civil Service Legislation in Vietnam: Strengthening Elements of a Position-Based System’.
3 Bruynooghe, S. P, et al. 2009 ‘Implementation of Civil Service Legislation in Vietnam: Strengthening Elements of a Posi-
tion-Based System’; Lavelle J. 2010, ‘Trends and challenges for HR management in the broader public sector in the inter-
national arena’, AAPAM roundtable conference, Durban, South Africa, 11/15/2010.
4 Trần Thiết, ‘Chế độ công vụ ở một số quốc gia’, Tạp chí Xây dựng Đảng số 8/2015.
Home/MagazineStory.aspx?mid=74&mzid=648&ID=1543.
5 Lavelle J. 2010, ‘Trends and challenges for HR management in the broader public sector in the international arena’, AAPAM
roundtable conference, Durban, South Africa, 11/15/2010.
59
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(314) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
- Hệ thống nhân sự chức nghiệp, theo
Ngân hàng thế giới6, là một hệ thống đóng,
trong hệ thống đó nhân sự cấp trên được bổ
sung bằng nhân sự cấp dưới. Khái niệm này
nhấn mạnh đến khía cạnh thăng tiến bên
trong nội bộ hệ thống công vụ. Trong khi đó,
Cardona tiếp cận khái niệm hệ thống chức
nghiệp từ quy trình tuyển dụng nhân sự khu
vực công. Hệ thống chức nghiệp bắt đầu
bằng một kỳ thi tuyển để kiểm tra kiến thức
của ứng cử viên với sự đề cao yêu cầu về
bằng cấp.
- Hệ thống nhân sự theo vị trí việc làm
được xem là linh hoạt và cởi mở hơn so với
hệ thống nhân sự chức nghiệp. Có nhiều
nghiên cứu về hệ thống nhân sự theo vị trí
việc làm nhưng tất cả đều cho rằng, mục tiêu
chính của hệ thống này là tìm được người phù
hợp nhất cho mỗi vị trí việc làm trong khu
vực công7. Sự cạnh tranh trong tuyển dụng
giữa nhân sự bên trong và bên ngoài khu vực
công trở thành một yếu tố quan trọng.
Bản chất của hệ thống này là tìm được
ứng cử viên tốt nhất cho một vị trí ở khu vực
công. Nếu như vì một lý do nào đó, yêu cầu
tối quan trọng này không đạt được, hệ thống
6 Bruynooghe, S. P, et al. 2009 ‘Implementation of Civil Service Legislation in Vietnam: Strengthening Elements of a
Position-Based System’.
7 CardonaF. 2006, ‘Recruitment in civil service system of EU members and in some candidate states’, Seminar on “Civil
Service recruitment procedures” Vilnius, 21-22, March, 2006; Bruynooghe, S. P, et al. 2009 ‘Implementation of Civil Service
Legislation in Vietnam: Strengthening Elements of a Position-Based System’.
8 Tổng hợp từ Analytica 2008, tlđd; Trần Thiết 2015, tlđd; Lavelle 2010, tlđd.
60
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
nhân sự theo vị trí việc làm có thể bị thất bại
và không phát huy được hiệu quả vốn có của
nó. Việc áp dụng nó, theo đó, chỉ là hình
thức, một kiểu chạy theo phong trào.
- Hệ thống nhân sự chức nghiệp và theo
vị trí việc làm có những điểm khác nhau. Để
hiểu rõ hơn bản chất của hai hệ thống này,
chúng tôi tổng hợp thành bảng so sánh dưới
đây: (xem bảng 1)
2. Thực tế áp dụng hệ thống nhân sự theo
vị trí việc làm ở một số nước oECD
2.1. Hệ thống nhân sự theo vị trí việc
làm ở Úc
Cùng với quá trình cải cách theo mô
hình quản lý công mới, Úc là một trong
những quốc gia áp dụng tương đối triệt để
và thành công mô hình nhân sự theo vị trí
việc làm9. Việc áp dụng mô hình nhân sự
theo vị trí việc làm ở Úc thể hiện rõ trong
quy trình tuyển dụng công chức của Úc.
Quy trình tuyển dụng của Úc gồm 5 giai
đoạn với 9 bước. (xem bảng 2)
Trong giai đoạn đầu tiên, nội dung quan
trọng nhất là xây dựng được một bảng mô tả
công việc. Bảng mô tả công việc bao gồm
những thành phần cơ bản như: những thông
tin khái quát về công việc (tên công việc,
mức lương, thông tin về cơ quan, địa điểm
làm việc, báo cáo công việc); tóm tắt về công
việc (lý do công việc tồn tại, trách nhiệm liên
quan đến vị trí việc làm, những kết quả mong
muốn đạt được); những yêu cầu liên quan
đến công việc (trình độ, công dân).
Giai đoạn quan trọng nhất là giai đoạn
đánh giá các ứng cử viên, bởi vì đây là giai
đoạn thể hiện rõ nhất bản chất “tìm người
phù hợp nhất cho từng vị trí” của mô hình
nhân sự theo vị trí việc làm. Việc đánh giá
ứng cử viên dựa vào các tiêu chí quan trọng
như: (1) Kỹ năng và năng lực; (2) bằng cấp,
chứng chỉ; (3) Tiêu chuẩn thực thi công
việc; (4) Có khả năng tạo ra các kết quả đầu
ra theo yêu cầu của công việc; (5) Phẩm chất
cá nhân có liên quan đến công việc; (6) Khả
năng phát triển trong tương lai; (7) Khả năng
đóng góp hiệu quả vào hoạt động của nhóm.
Quá trình lựa chọn ứng cử viên được
thực hiện theo quy trình phổ biến: (1) Hội
đồng đánh giá dựa vào hồ sơ ứng cử viên để
đánh giá theo các tiêu chí đã đặt ra; (2)
Những ứng cử viên qua vòng một sẽ tham
9 Tatsuo H. 2012, ‘Development of Internationally Viable Human Resources: Open Recruitment of Graduates for National
Civil Service: A Case Study of Australia’, 2011-2012 JIIA Research Project Policies Needed to Ensure Japan’s International
Competitiveness. tr. 191.
10 Tổng hợp từ Australian Public Service Commission, 2012 tr. V.
61
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(314) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
gia phỏng vấn; (3) Đánh giá thư giới thiệu
của các ứng cử viên; (4) Kết hợp kết quả
đánh giá hồ sơ, phỏng vấn và thư giới thiệu
để đề xuất những ứng viên phù hợp.
Qua hoạt động tuyển dụng công chức
của Úc ở trên, có thể rút ra một số nhận xét
về hệ thống nhân sự theo vị trí việc làm ở
quốc gia này như sau:
Thứ nhất, trong nền hành chính kiểu cũ,
Úc chú trọng đến bộ ba yếu tố: bằng cấp,
kinh nghiệm công tác và thâm niên, với trọng
tâm là thâm niên công tác11. Cùng với quá
trình đổi mới, nền công vụ của Úc chuyển
sang nhấn mạnh vào kỹ năng quản lý, năng
lực thực thi và khả năng đạt được những
“đầu ra” đã cam kết, thậm chí là kinh nghiệm
liên quan đến khu vực tư12. Nền công vụ mới
đề cao kỹ năng quản lý hơn là kiến thức
chuyên môn của ứng cử viên. Sự gắn bó suốt
đời và tính liên tục trong con đường chức
nghiệp thay bằng sự cạnh tranh với nhân sự
bên trong và bên ngoài khu vực công một
cách công khai, minh bạch và quyết liệt.
Thay vì được tuyển chọn theo một kỳ thi
chung, các ứng cử viên được lựa chọn và
tuyển dụng theo một quy trình đánh giá chặt
chẽ để tìm ra ứng cử viên phù hợp nhất cho
vị trí đó. Cơ quan sử dụng chính là người
thực hiện hoạt động tuyển chọn này theo
hướng dẫn chung của Bộ Nội vụ Úc, và quy
trình tuyển dụng diễn ra hết sức chặt chẽ và
có sự thanh tra của các cơ quan chức năng.
Thứ hai, quá trình thăng tiến không diễn
ra một cách “đương nhiên” mà bằng sự thi
tuyển cạnh tranh giữa nhân sự bên trong và
bên ngoài tổ chức.
Thứ ba, nhân sự trong khu vực công ở
Úc không gắn bó suốt đời như trong mô
hình chức nghiệp. Thời gian gắn bó với khu
vực công của công chức Úc phụ thuộc vào
khả năng thực thi của người đó13. Mức độ
thực thi, khả năng đảm bảo mức độ thực thi
là yếu tố quyết định thời gian tồn tại trong
nền công vụ của một công chức ở Úc.
Tóm lại, quá trình nhân sự trong khu
vực công của Úc rất gần với khu vực tư. Đó
là việc nhấn mạnh trọng tâm tìm được người
phù hợp nhất cho từng vị trí việc làm vì mục
tiêu chung của cơ quan, tổ chức.
2.2. Hệ thống nhân sự theo vị trí việc
làm ở Niu Di-lân
Hệ thống nhân sự theo vị trí việc làm ở
Niu Di-lân cũng nhấn mạnh đến quá trình
tuyển dụng để tìm ra con người phù hợp
nhất cho vị trí việc làm. Không tổ chức kỳ
thi tuyển chung, Niu Di-lân thực hiện quá
trình tuyển dụng gồm 2 giai đoạn: giai đoạn
đánh giá vị trí việc làm; và giai đoạn đánh
giá con người. Giai đoạn đánh giá vị trí việc
làm được thực hiện với mục đích xem xét
tính hợp lý của vị trí công việc đó. Giai đoạn
đánh giá con người được thực hiện với mục
đích tìm kiếm người phù hợp nhất cho công
việc. Giai đoạn đánh giá con người diễn ra
theo ba bước chính: (1) Xác minh ứng cử
viên có đúng với những gì họ trình bày trong
hồ sơ không; (2) Đánh giá năng lực, kỹ năng
của ứng cử viên; (3) Kiểm tra khả năng đảm
bảo những yêu cầu về tính hợp pháp của ứng
cử viên. Ba bước này được thể hiện một
cách chi tiết ở bảng sau: (Xem Bảng 3).
Ở mỗi khâu đều có những khung hướng
dẫn chi tiết. Việc tuyển dụng công chức của
Niu Di-lân áp dụng nhiều hình thức kết hợp:
xem xét, đánh giá hồ sơ theo những tiêu chí
mà mỗi vị trí việc làm yêu cầu và phỏng
vấn. Hoạt động tuyển dụng, vì được tiến
hành như vậy, nên được phân cấp rất mạnh
cho từng cơ quan sử dụng.
11 Colley L., K. 2011, ‘Applying labour process conceptsto public sector executive reforms: Peeling and segmenting the man-
darins?’, Journal of Management History, Vol. 17 No. 3, 2011.
12 Colley 2011, tlđd.
13 Colley 2011, tlđd.
62
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
3. Một số so sánh, kiến nghị cho Việt Nam
Qua nghiên cứu mô hình của Úc và Niu
Di-lân, liên hệ với thực tiễn xây dựng vị trí
việc làm ở Việt Nam, chúng tôi rút ra một
số nhận định sau:
Thứ nhất, bản chất của hệ thống nhân sự
theo vị trí việc làm không nằm ở cụm từ “vị
trí việc làm” hoặc “đề án vị trí việc làm” mà
nằm ở những cái đằng sau nó, những lý do
để người ta phải gọi nó là “vị trí việc làm”.
Nói cách khác, Việt Nam chưa xác định một
cách rõ ràng mô hình nhân sự sẽ theo. Hiện
tại, Việt Nam theo mô hình chức nghiệp15 và
việc triển khai đề án vị trí việc làm là một
nỗ lực để áp dụng một số yếu tố của mô hình
nhân sự theo vị trí việc làm. Vậy mô hình
nhân sự trong tương lai (cái mà Chính phủ
đang hướng tới) là mô hình nhân sự theo vị
trí việc làm hay mô hình hỗn hợp giữa chức
nghiệp và việc làm? Nếu là mô hình hỗn
hợp, cần thiết phải xác định hỗn hợp ở mức
độ như thế nào: yếu tố nào sẽ theo mô hình
chức nghiệp, yếu tố nào sẽ theo mô hình
nhân sự theo vị trí việc làm? Phải trả lời
được những câu hỏi như vậy, cải cách trong
chế độ công vụ của Việt Nam mới có được
định hướng cùng những bước đi rõ ràng với
lộ trình chi tiết; tránh được tình trạng chạy
theo hình thức, phong trào do chưa hiểu biết
thấu đáo như hiện nay: tên thì gọi là vị trí
việc làm, cũng có bảng mô tả công việc với
những yêu cầu cụ thể cho một số vị trí việc
làm, một số cơ quan đăng thông báo tuyển
dụng công khai (đặc điểm của mô hình nhân
sự theo vị trí việc làm), nhưng tuyển dụng
lại thông qua kỳ thi chung, tiêu chí quan
trọng nhất vẫn là bằng cấp và sự phù hợp về
bằng cấp, việc thăng tiến diễn ra một cách
tuần tự từ cấp dưới lên (đặc điểm của mô
14 Internal Affairs 2012, ‘Guidance for establishing identity in recruitment processes’, Revision December 2012.
15 Bruynoogheet al. 2009, tlđd, tr. 13.
63
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(314) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
hình chức nghiệp). Một số nơi sử dụng tiêu
chí về bằng cấp trong thông báo tuyển dụng
để loại nhiều ứng cử viên từ khâu nộp hồ
sơ, mà không quan tâm đến mức độ đáp ứng
về kỹ năng, kiến thức của họ. Một số nơi lại
thực hiện bố trí lại nhân sự theo tiêu chí
bằng cấp... Những cách làm tùy nghi này vô
hình trung làm trầm trọng thêm bệnh bằng
cấp vốn đang bị xã hội lên án. Hiện nay,
nhiều cán bộ, công chức đang cố gắng tham
gia các lớp đại học luật, vì theo đề án vị trí
việc làm của một số tỉnh gần như vị trí nào
cũng yêu cầu bằng đại học luật.
Thứ hai, hệ thống vị trí việc làm phải
gắn với hệ thống đánh giá năng lực thực thi
hiệu quả. Bởi hệ thống đánh giá năng lực
thực thi này là căn cứ quan trọng để xét chọn
những ứng cử viên một cách phù hợp, để có
thể chọn được người tốt nhất cho từng vị trí
việc làm. Trong khi đó, hệ thống đánh giá
năng lực thực thi của cán bộ, công chức của
chúng ta còn quá sơ sài, chung chung và
trùng lắp. Dù Nghị định số 56/2015/NĐ-CP
của Chính phủ có chi tiết hơn so với Luật
Cán bộ, công chức năm 2008 nhưng vẫn
chưa đủ cụ thể để có thể đánh giá một cách
phù hợp năng lực làm việc của nhân sự trong
cơ quan nhà nước.
Thứ ba, hệ thống nhân sự theo vị trí việc
làm phải gắn với sự phân cấp mạnh mẽ về
nhân sự. Thực tiễn áp dụng mô hình này ở
Úc và Niu Di-lân chứng minh tính đúng đắn
của phân cấp trong nhân sự ở khu vực công.
Tuy nhiên, cần phải thấy bản chất của vấn
đề là, sự phân cấp thành công (tránh tình
trạng lạm quyền, tuyển dụng vô tội vạ) phải
gắn với những tiền đề nhất định: tính tự chịu
trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị; tiêu
chí đánh giá năng lực thực thi của đơn vị
phải chi tiết, phản ánh đúng với hiện trạng
năng lực của đơn vị; sự ở lại hoặc ra đi của
người đứng đầu đơn vị phải gắn liền với
hiệu quả điều hành đơn vị đó; tính công
khai, minh bạch trong điều hành, đánh giá
cần được đảm bảo. Chế độ công vụ suốt đời
cần được xoá bỏ, thâm niên công tác không
còn là yếu tố quan trọng trong thăng tiến và
bổ nhiệm. Những bài toán vừa nêu phải
được giải đáp một cách cụ thể, rõ ràng, có
lộ trình mới tạo ra được những cơ sở cho sự
xuất hiện và phát triển của mô hình nhân sự
theo vị trí việc làm.
Việc thực hiện đề án vị trí việc làm ở
nước ta đang gặp nhiều khó khăn mà nguyên
nhân chủ yếu là chưa chú ý đến những yếu
tố có tính bản chất làm nên sự thành công
của đề án này. Chúng ta chỉ nghĩ đến một
yếu tố rất nhỏ, hẹp và mang tính bề nổi là
xác định từng vị trí việc làm với những yêu
cầu cụ thể mà chưa hiểu được rằng, vị trí
việc làm là những gì liên quan đến vị trí
công việc đó để tìm ra ứng cử viên phù hợp
nhất cho vị trí đó; chứ không hoàn toàn nằm
ở cụm từ “đề án vị trí việc làm” hay “bản
mô tả công việc”.
Trong thời gian tới, chúng ta cần nhiều
nỗ lực hơn để tháo gỡ khó khăn hiện tại để
xây dựng thành công vị trí việc làm, cụ thể:
- Chính phủ cần xác định lại mô hình
nhân sự sẽ phải xây dựng trong tương lai:
chức nghiệp, theo vị trí việc làm hay hỗn
hợp. Hỗn hợp thì phải làm rõ, chỗ nào là của
chức nghiệp, chỗ nào là của việc làm.
- Cần phải xây dựng lại tiêu chí đánh giá
đơn vị và công chức theo hướng nhấn mạnh
đến kết quả đầu ra. Cần thiết phải sửa đổi
Luật Cán bộ, công chức để xây dựng được
những tiêu chí đánh giá chi tiết, cụ thể và
phù hợp với quản lý công mới. Hiện tại, tiêu
chí đánh giá công chức của Việt Nam quá sơ
sài, lạc hậu và trùng lắp; thiếu hẳn bộ tiêu
chí đánh giá đơn vị, tổ chức để có thể xem
xét lại trách nhiệm của người đứng đầu.
- Sau khi xác định được trách nhiệm và
chế tài đối với người đứng đầu đơn vị, sẽ
tiến tới thực hiện phân cấp trong quản lý và
tuyển dụng nhân sự cho cơ quan sử dụng.
Khi đó, yếu tố của hệ thống nhân sự theo vị
trí việc làm mới bắt đầu có cơ sở hình thành
và hiệu quả một cách thực chất. Quá trình
tuyển dụng diễn ra một cách công khai,
minh bạch, nhấn mạnh vào khả năng đạt
được các kết quả đầu ra hơn là bằng cấp như
hiện nay n
64
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- he_thong_nhan_su_theo_vi_tri_viec_lam_o_mot_so_nuoc_oecd_va.pdf