Thứ nhất, quy trình cắt khúc trong quá
trình soạn thảo và trình luật. Đó là quy trình
mà cơ quan soạn thảo và trình luật chỉ có
trách nhiệm soạn thảo và trình dự án luật ra
Quốc hội cho ý kiến lần thứ nhất, sau đó
UBTVQH sẽ là cơ quan chủ trì tiếp thu,
chỉnh lý và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ
hai để xem xét, thông qua. Tuy nhiên, trên
thực tế, một Ủy ban của Quốc hội sẽ lĩnh
trách nhiệm tiếp quản dự án luật đó để chủ
trì nghiên cứu, tiếp thu và chỉnh lý. Vấn đề
là ở chỗ, ủy ban đó lại chính là ủy ban vừa
được phân công và có báo cáo thẩm tra dự
án luật trước Quốc hội. Câu hỏi đặt ra là, tại
sao chúng ta lại biến cơ quan thẩm tra thành
cơ quan tiếp thu, trình luật? tại sao cơ quan
thẩm tra lại làm thay vai của cơ quan chủ trì
soạn thảo và trình luật? Về nguyên tắc, nếu
một ủy ban của Quốc hội soạn thảo và đệ
trình luật thì sẽ có các ủy ban khác của Quốc
hội thẩm tra. Tuy nhiên, trong quy trình này,
ủy ban của Quốc hội lại lấy dự án luật do
chính mình thẩm tra để tiếp thu và trình
thông qua mà không có ủy ban nào của Quốc
hội thẩm tra lại. Trong khi đó, cơ quan chủ
trì soạn thảo và trình luật bị mất vai trò và
không còn tiếng nói bảo vệ quan điểm cũng
như các định hướng chính sách đã được cân
nhắc và lựa chọn, không thể bảo vệ và chịu
trách nhiệm đến cùng về “đứa con tinh thần”
của mình.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hệ thống pháp luật Việt Nam trong tiến trình đổi mới và phát triển đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Đinh Dũng Sỹ*
* PGS. TS. Văn phòng Chính phủ
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Hệ thống pháp luật, tư duy pháp
lý, tư duy xây dựng pháp luật, Nhà nước
kiến tạo phát triển.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 16/12/2019
Biên tập : 23/12/2019
Duyệt bài : 25/12/2019
Article Infomation:
Keywords: legal system, legal thoughts,
thoughts of legal development,
developmental state
Article History:
Received : 16 Dec. 2019
Edited : 23 Dec. 2019
Approved : 25 Dec. 2019
Tóm tắt:
Sau chặng đường đổi mới kể từ năm 1986, hệ thống pháp luật
Việt Nam đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện. Tuy
nhiên, vẫn còn đó những khiếm khuyết của hệ thống pháp luật,
như tính thiếu đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định
và tính khả thi chưa cao. Trong bối cảnh chúng ta đang thực
hiện tổng kết 02 nghị quyết của Bộ Chính trị: Nghị quyết 48 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, tầm nhìn 2020 và Nghị quyết 49 về cải cách tư
pháp, cần có những đánh giá tổng quát về thực trạng hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện nay, từ đó thấy được những thành quả
cũng như xác định những mục tiêu, định hướng mang tính chiến
lược cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai
đoạn mới.
Abstract:
Since 1986, after a time of renovation, the legal system of
Vietnam has been constantly developed and improved.
However, there are still deficiencies of the legal system, such
as inconsistencies, overlaping, conflicts, instability and low
feasibility. In the context the summarizing conclusions are being
conducted for 02 resolutions of the Politburo: The Resolution
48 on strategy for development and improvement of the
Vietnamese legal system by 2010, vision to 2020 and the
Resolution 49 on justice reform, it is necessary to make a
general assessment of the current status of the Vietnamese legal
system, from which to see achievements as well as to identify
the strategic goals and the orientations for further improvement
of the legal system in the coming phase.
1. Hệ thống pháp luật Việt Nam đang
đứng ở đâu?
Tại sao chúng tôi lại đặt ra câu hỏi này
ở thời điểm hiện nay? Đó là một câu hỏi
không hoàn toàn ngẫu nhiên. Sau chặng
đường một phần ba thế kỷ đổi mới kể từ năm
1986, hệ thống pháp luật Việt Nam đã không
ngừng được xây dựng và hoàn thiện. Đến
nay, chúng ta đã có một hệ thống pháp luật
khá đầy đủ và đồng bộ trên hầu hết các lĩnh
vực, đủ để điều chỉnh các quan hệ kinh tế -
xã hội, tạo cơ sở pháp lý cho quản lý nhà
nước cũng như môi trường, hành lang pháp
lý dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội. Tuy nhiên, vẫn còn đó những khiếm
Số 1(401) - T1/20204 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1 Điều 15 Hiến pháp 1992.
2 Xem Tổng tập văn bản QPPL của Quốc hội, UBTVQH từ Khóa I đến Khóa VII, tập I, Nxb. Tư pháp – Hà
Nội, năm 2006.
3 Xem Tổng tập văn bản QPPL của Quốc hội, UBTVQH, tập II và III, Quốc hội khóa VIII và IX, Nxb. Tư
pháp - Hà Nội, năm 2006; Luật của Quốc hội Khóa X, Nxb. Chính trị Quốc gia – Hà Nội, năm 2003. Trong
đó, QH Khóa VIII ban hành 32 đạo luật, QH Khóa IX: 41, QH Khóa X: 35.
khuyết của hệ thống pháp luật, đặc biệt là
tính thiếu đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn,
thiếu ổn định và tính khả thi chưa cao, chưa
đạt đến tầm của một hệ thống pháp luật phục
vụ kiến tạo phát triển. Trong bối cảnh thực
hiện tổng kết 02 nghị quyết của Bộ Chính trị
được ban hành vào năm 2005: Nghị quyết
48 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
tầm nhìn 2020 và Nghị quyết 49 về cải cách
tư pháp, cần có những đánh giá tổng quát về
thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
nay, từ đó xác định những mục tiêu, định
hướng mang tính chiến lược cho việc tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai
đoạn mới.
Trong chặng đường hơn 30 năm ấy,
chúng ta đã có ba lần sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp (ban hành Hiến pháp 1992 thay thế
Hiến pháp năm 1980; sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp năm 1992 vào năm 2001 và ban hành
Hiến pháp mới năm 2013). Như vậy, trong
giai đoạn này, cứ khoảng 10 năm chúng ta
lại sửa đổi, bổ sung Hiến pháp một lần. Và
mỗi lần như vậy đánh dấu một giai đoạn mới
của sự phát triển hệ thống pháp luật, phù hợp
với những tư tưởng chính trị - pháp lý mới
của Hiến pháp, đáp ứng yêu cầu đổi mới,
phát triển đất nước trong một giai đoạn cụ
thể. Theo quan sát của chúng tôi, ba lần sửa
đổi Hiến pháp làm cơ sở cho ba giai đoạn
phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Có thể khái quát ba giai đoạn, tương ứng với
ba cấp độ phát triển, hoàn thiện của hệ thống
pháp luật Việt Nam như sau: giai đoạn thứ
nhất từ 1986 đến 2001, là hệ thống pháp luật
chuyển đổi; giai đoạn thứ hai từ 2002 đến
2013, là hệ thống pháp luật chuyển đổi và
hội nhập; giai đoạn thứ ba từ 2014 đến nay
và cho tương lai, là hệ thống pháp luật hội
nhập và kiến tạo phát triển.
- Hệ thống pháp luật chuyển đổi là
hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ đầu của
công cuộc đổi mới, bắt đầu từ năm 1986. Hệ
thống pháp luật thời kỳ này được chi phối
bởi các quan điểm, chính sách của những
năm đầu thời kỳ đổi mới được ghi nhận
trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI, VII, VIII và đặc biệt là sự ra đời
của Hiến pháp năm 1992. Tư tưởng chủ đạo
của đổi mới thời kỳ này chủ yếu là đổi mới
kinh tế, là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang “phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”1.
Chính vì vậy, hệ thống pháp luật thời kỳ này
mang nặng dấu ấn của hệ thống pháp luật
chuyển đổi, từng bước xóa bỏ cơ chế kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, chuyển
nền kinh tế sang sản xuất hàng hóa với sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế, hoạt
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước.
Trong giai đoạn 40 năm, từ năm 1946
đến năm 1986, Quốc hội từ Khóa I đến Khóa
VII chỉ ban hành tổng số 32 đạo luật2. Trong
giai đoạn 15 năm từ 1987 đến 2001, Quốc
hội các khóa VIII, IX và X đã ban hành 108
đạo luật3, khởi đầu là Luật Đất đai, Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 và sau
đó là sự ra đời của một loạt các đạo luật quan
trọng trong lĩnh vực kinh tế như: Luật Công
ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990,
Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật
các Tổ chức tín dụng năm 1997, Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1997,
Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, nhiều
đạo luật thuế và các đạo luật chuyên ngành
khác đã tạo lập nền móng cho việc hình
thành thể chế kinh tế thị trường, định hướng
XHCN ở Việt Nam cho những giai đoạn
tiếp theo.
- Hệ thống pháp luật chuyển đổi và
hội nhập là hệ thống pháp luật giai đoạn từ
năm 2002 đến năm 2013, sau khi sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp năm 1992 đến khi ban hành
Hiến pháp năm 2013. Tư tưởng chủ đạo của
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
của giai đoạn này được ghi nhận trong lần
sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 vào năm
2001, đó là: “xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động
hội nhập quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thực hiện nhất quán
chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN”4.
Hệ thống pháp luật trong giai đoạn này
có thể coi là thế hệ thứ hai của hệ thống pháp
luật thời kỳ đổi mới và cũng là thế hệ thứ hai
của hệ thống pháp luật chuyển đổi5. Dòng
chính trong sự phát triển của hệ thống pháp
luật giai đoạn này vẫn tiếp tục mang dấu ấn
của thời kỳ chuyển đổi nhưng chú trọng
nhiều hơn đến hội nhập quốc tế. Theo đó, hệ
thống pháp luật thời kỳ này tiếp tục được sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện để chuyển đổi, xóa
bỏ về cơ bản các tàn tích của cơ chế quản lý
cũ, xác lập đồng bộ cơ chế quản lý mới, đặc
biệt là hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN; từng bước tiệm
cận đến thông lệ quốc tế, đặc biệt là việc ký
kết Hiệp định Thương mại song phương với
Hoa Kỳ năm 2000 và ra nhập Tổ chức
Thương mại thế giới năm 2006. Đây cũng là
lần đầu tiên trong Hiến pháp Việt Nam xuất
hiện cụm từ “kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài” và được ghi nhận là một trong những
“thành phần kinh tế” trong cơ cấu nền kinh
tế đất nước6. Tuy vậy, hội nhập quốc tế trong
giai đoạn này vẫn được tiến hành từng bước,
thận trọng và diễn ra trong lĩnh vực kinh tế
là chủ yếu.
- Hệ thống pháp luật hội nhập và
kiến tạo phát triển là hệ thống pháp luật
trong giai đoạn hiện nay, bắt đầu từ sau sự
ra đời của Hiến pháp năm 2013 và sẽ là tư
tưởng, định hướng cho việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
trong những thập kỷ tới. Hệ thống pháp luật
này được coi là thế hệ thứ ba của hệ thống
pháp luật thời kỳ đổi mới. Theo đó, hệ thống
pháp luật sẽ được xây dựng và hoàn thiện
theo hướng: phục vụ mục tiêu kiến tạo phát
triển, tạo dựng hành lang pháp lý an toàn cho
phát triển và hội nhập sâu rộng với khu vực
và thế giới cả về kinh tế, chính trị và văn hóa
như đã được khẳng định trong Hiến pháp
năm 2013 là: “xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác
quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”7và tiếp tục
khẳng định xây dựng “nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”8.
5Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
4 Điều 15 Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001.
5 Chỉ riêng Quốc hội Khóa XI đã ban hành tới 47 đạo luật. Xem Tổng tập văn bản QPPL của Quốc hội,
UBTVQH Khóa XI, quyển 1, Nxb. Tư pháp - Hà Nội, năm 2006.
6 Điều 16 Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001. Hiến pháp 1992 mới chỉ sử dụng cụm từ
“doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” và chưa được ghi nhận là một thành phần kinh tế (Điều 25).
7 Điều 50 Hiến pháp 2013.
8 Điều 51 Hiến pháp 2013.
2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam như thế nào
trong thời gian tới?
Để tiếp tục có những định hướng đúng
cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam trong những thập kỷ tới,
thứ nhất, cần có một tư tưởng, đường lối
đúng; thứ hai, cần có một tư duy chiến lược
đúng; thứ ba, cần có một quy trình làm luật
phù hợp.
2.1. Về tư tưởng, đường lối, cần xây
dựng một “Chiến lược hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam giai đoạn 2025-
2035, tầm nhìn 2045” hoặc “Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam giai đoạn 2025-2035, tầm
nhìn 2045” bằng một Nghị quyết của Bộ
chính trị hoặc có thể cần một Nghị quyết
của Ban chấp hành Trung ương Đảng
Việc BCHTƯ Đảng ban hành Nghị
quyết này thể hiện vai trò và tầm quan trọng
đặc biệt của xây dựng và hoàn thiện hệ thống
thể chế, pháp luật trong công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền giai đoạn mới. Muốn
xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền,
trong đó đặc trưng cơ bản là Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật và kiến tạo phát
triển bằng pháp luật, bảo đảm quyền con
người, quyền công dân thì phải lấy pháp luật
làm trung tâm; nhiệm vụ xây dựng và hoàn
thiện thể chế phải luôn luôn được đặt lên
hàng đầu. Tầm nhìn đến năm 2045 có thể là
tương đối dài và khó dự báo, nhưng đó là cột
mốc quan trọng khi chúng ta kỷ niệm 100
năm ngày thành lập nước và cũng là chặng
đường 60 năm của công cuộc đổi mới đất
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam. Trong bối cảnh thế giới có rất nhiều
biến động, đặc biệt là tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư mà tại thời
điểm hiện nay chúng ta chưa thể lường hết
được thì không thể trong một vài năm có thể
xây dựng được một Chiến lược có tầm nhìn
dài hạn như nêu trên. Do vậy, Ban Chỉ đạo
tổng kết Nghị quyết 48 và Nghị quyết 49 nên
cân nhắc trình Bộ Chính trị ban hành Kết
luận về việc tiếp tục thực hiện có bổ sung
các quan điểm, định hướng về hoàn thiện hệ
thống pháp luật và cải cách tư pháp của
Nghị quyết 48 và Nghị quyết 49 cho giai
đoạn 2021- 2025; đồng thời giao Đảng đoàn
Quốc hội và Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ
đạo nghiên cứu, xây dựng “Chiến lược hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn
2025-2035, tầm nhìn 2045”; hoặc cũng có
thể là “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền Việt Nam giai đoạn
2025 - 2035, tầm nhìn 2045”, trình Ban
Chấp hành trung ương Đảng Khóa XIII ban
hành. Mặt khác, nội hàm của Chiến lược này
cần bao gồm cả nội dung tổ chức thi hành
pháp luật và cả cải cách tư pháp.
Chúng tôi cho rằng, không nên chia
tách, ban hành 02 nghị quyết hay 02 chiến
lược về hoàn thiện pháp luật và cải cách tư
pháp như Nghị quyết 48 và Nghị quyết 49,
vì những lý do sau:
Thứ nhất, cải cách tư pháp, bản thân
nó đã thuộc nội hàm của cải cách thể chế,
hoàn thiện hệ thống pháp luật. Cải cách tư
pháp không thể đứng ngoài thể chế, không
có cải cách tư pháp mà không gắn liền với
cải cách, hoàn thiện thể chế, pháp luật;
Thứ hai, thực tiễn thời gian qua với 02
nghị quyết, Nghị quyết 48 về hoàn thiện hệ
thống pháp luật và Nghị quyết 49 về cải
cách tư pháp, vô hình trung chúng ta đã tách
biệt hai vấn đề vốn dĩ phải gắn bó với nhau,
dẫn đến tính hiệu quả trong cải cách tư pháp
còn thấp.
Có thể nói, việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết 48
của Bộ Chính trị trong 15 năm qua đã thu
được nhiều thành quả to lớn, rất đáng ghi
Số 1(401) - T1/20206 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
nhận, nhưng thành tựu của cải cách tư pháp
thì còn rất khiêm tốn. Theo đánh giá của
chúng tôi, cải cách tư pháp mới chỉ dừng lại
ở một số thành tích trong cải cách tố tụng,
đổi mới xét xử qua việc sửa đổi, bổ sung,
ban hành mới các đạo luật về tố tụng, còn
các vấn đề về đổi mới tổ chức và hoạt động
của hệ thống tòa án, viện kiểm sát, về xây
dựng mô hình cơ quan công tố theo Nghị
quyết 49 vẫn còn đó, chưa có những cải cách
đáng kể. Tuy nhiên, cũng cần phải kể đến
thành tựu lớn nhất của cải cách tư pháp thời
gian qua đó chính là việc hiến định chức
năng thực hiện quyền tư pháp của tòa án.
Theo đó, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013
khẳng định nguyên tắc trong tổ chức thực thi
quyền lực nhà nước ở Việt Nam đó là: quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực
hiện quyền lực nhà nước, trong đó, Quốc hội
thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực
hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân là
cơ quan thực hiện quyền tư pháp9. Quy định
của Hiến pháp năm 2013 cùng với những
định hướng dù đã cũ nhưng tư tưởng cải
cách thì vẫn còn tươi nguyên trong Nghị
quyết 49, cần tiếp tục cải cách tư pháp với
một quyết tâm chính trị mạnh mẽ và thực
chất hơn, đặc biệt là việc tổ chức lại cơ quan
Viện kiểm sát nhân dân, hình thành một cơ
quan thực hành quyền công tố (có thể là Viện
công tố thuộc Chính phủ) theo đúng vị trí,
vai trò và tính chất của cơ quan này; đồng
thời tăng thêm “nồng độ” cho các quy định
về kiểm soát quyền lực giữa hành pháp với
tư pháp, điều đã được hiến định trong Hiến
pháp năm 2013 nhưng chưa được cụ thể hóa
đầy đủ trong các đạo luật.
Về vấn đề tổ chức thi hành pháp luật,
tiếp tục kế thừa cấu trúc của Nghị quyết 48,
vì Nghị quyết 48 đã bao hàm nội dung này.
Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức thực hiện Nghị
quyết 48 cho thấy, mảng tổ chức thi hành
pháp luật còn bị coi nhẹ, chưa có những giải
pháp thực sự đột phá trong tổ chức thực thi,
hiệu quả còn rất thấp. Chiến lược về vấn đề
này cho giai đoạn tới cần đưa ra những giải
pháp và công cụ thực tế hơn, đem lại hiệu
quả rõ ràng hơn trong tổ chức thi hành pháp
luật. Thực tế cho thấy, dù chúng ta có một hệ
thống pháp luật tốt nhưng nguồn lực, công cụ
và biện pháp thực thi kém, ý thức pháp luật
của người dân thấp thì hệ thống pháp luật đó
cũng chỉ nằm trên giấy mà không đi vào cuộc
sống để phát huy tác dụng được.
2.2. Về tư duy chiến lược, cần hoàn
thiện hệ thống pháp luật theo hướng: xây
dựng một hệ thống pháp luật hội nhập và
kiến tạo phát triển
Với mục tiêu xây dựng một Nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện đại, một nước
Việt Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, hệ
thống pháp luật cho tương lai cần phải được
xây dựng thành một hệ thống pháp luật có
đặc trưng chủ đạo là hội nhập và kiến tạo
phát triển.
Để xây dựng và hoàn thiện một hệ
thống pháp luật với tầm nhìn 20 năm, mang
đặc trưng và những mục tiêu to lớn như nêu
trên cần phải đổi mới tư duy pháp lý, tư duy
xây dựng pháp luật. Vậy cần đổi mới tư duy
như thế nào cho phù hợp? Ở đây chúng tôi
chỉ đề cập đến một số vấn đề có tính cốt lõi
sau đây.
Thứ nhất, cần có một chủ thuyết
trong nghiên cứu khoa học pháp lý cũng
như trong xây dựng pháp luật
Chúng tôi cho rằng, trong nghiên cứu
khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện nay, xét
về mặt học thuật, chúng ta không có một chủ
thuyết, hay theo đuổi một trường phái pháp
luật nào thật sự rõ nét. Chúng ta như đang
7Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
9 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
đứng trước ngã ba đường của các trường
phái khoa học luật học, cả Đông, cả Tây, cả
cũ cả mới. Thời kỳ trước đổi mới, khoa học
pháp lý cũng như tư duy pháp luật của Việt
Nam chịu sự ảnh hưởng của trường phái
pháp luật Xô Viết. Đó là một mô hình nặng
về nghiên cứu lý thuyết, coi trọng tính hàn
lâm mà thiếu tính thực tiễn và ứng dụng. Khi
mô hình thể chế kiểu Xô Viết sụp đổ, và sau
đó là sự du nhập của các trường phái pháp
luật mới đến từ các khu vực kinh tế thịnh
vượng hơn, có bề dầy xây dựng nhà nước
pháp quyền thì nghiên cứu lý luận pháp luật,
khoa học pháp lý của Việt Nam trong hơn ba
mươi năm qua có thể nói là thiếu một chủ
thuyết! Người ta có thể tìm thấy một vài nét
chấm phá hay độc đáo trong nghiên cứu
nhưng không tìm thấy một mô hình lý thuyết
pháp luật nào thật sự rõ nét. Có nhiều người
vẫn hoài niệm và đi theo trường phái Xô
Viết, vẫn là ngành luật, vẫn là đối tượng,
phạm vi và phương pháp điều chỉnh và tư
duy lý thuyết. Tuy nhiên, cũng có những
người thực tế hơn, họ tiếp cận hệ thống pháp
luật, ngành luật, hay nói đúng hơn là lĩnh
vực pháp luật theo trường phái của các nước
phát triển mà ở đó, người ta ít quan tâm đến
khía cạnh hàn lâm của pháp luật (nói đúng
hơn là nghiên cứu hàn lâm dành cho những
nhà nghiên cứu, những viện nghiên cứu
chuyên sâu); trong đào tạo thì coi trọng tính
ứng dụng, đào tạo luật trong những tình
huống của thực tiễn và hướng về thực tiễn;
trong xây dựng pháp luật thì coi trọng yếu tố
thực tiễn và hiệu quả điều chỉnh của pháp
luật trên cơ sở của lý thuyết thực chứng.
Trong xây dựng pháp luật, hơn ba thập
kỷ qua chúng ta cũng không đi theo một
trường phái pháp luật nào thực sự rõ ràng.
Đây cũng là hệ quả tất yếu của tư duy khoa
học pháp lý nêu trên. Mới nhìn thì có thể
thấy tư duy pháp lý, cấu trúc hệ thống pháp
luật cũng như tư tưởng chính sách về cơ bản
là theo trường phái pháp luật châu Âu lục địa
(Civil law), nhưng nghiên cứu kỹ thì thấy có
sự pha tạp của nhiều tư duy pháp lý, tư tưởng
chính sách đến cấu trúc của nhiều hệ thống,
trường phái pháp luật khác nhau. Đối với
lĩnh vực hình sự và tổ chức bộ máy nhà nước
vẫn còn có sự ảnh hưởng rất lớn của mô hình
pháp luật thời Xô Viết; lĩnh vực pháp luật về
dân sự và thương mại thì chịu ảnh hưởng
nhiều của trường phái pháp luật châu Âu lục
địa (Civil law) của Pháp, Đức, Nhật, nhưng
cũng có những dấu ấn của trường phái pháp
luật Anh - Mỹ (common law). Thậm chí
trong một lĩnh vực pháp luật, trong một đạo
luật được ban hành cũng có sự pha tạp của
các trường phái, các quan điểm pháp luật
khác nhau. Do đó, có thể nói rằng, trong hơn
ba thập kỷ đổi mới vừa qua chúng ta chưa
có một chủ thuyết rõ ràng, một mô hình lý
thuyết được định hình và theo đuổi trong
nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong
thực tiễn xây dựng pháp luật.
Đã đến lúc chúng ta cần đi theo mô
hình nào hay cần xây dựng một mô hình,
một trường phái riêng cho chúng ta? Phải
chăng chúng ta có thể xây dựng một chủ
thuyết cho thời kỳ mới với những đặc trưng
cơ bản là tư duy nghiên cứu khoa học pháp
lý, đào tạo pháp luật phải trên cơ sở thực tiễn
và hướng đến thực tiễn, còn tư duy trong xây
dựng pháp luật thì cần dựa trên cơ sở của lý
thuyết thực chứng và coi trọng yếu tố hiệu
quả điều chỉnh của pháp luật?
Thứ hai, cần chuyển đổi từ tư duy
quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển
trong xây dựng pháp luật
Vấn đề trước nhất trong đổi mới tư
duy làm luật hiện nay theo chúng tôi đó là,
cần chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy
kiến tạo phát triển. Nội hàm của khái niệm
“kiến tạo phát triển” là gì đã được nhiều
chuyên gia phân tích, trao đổi. Ở đây chúng
Số 1(401) - T1/20208 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
tôi chỉ đề cập đến một nhân tố, một cấu
thành mà chúng tôi cho là cơ bản nhất, cốt
yếu nhất của khái niệm kiến tạo phát triển đó
là nhân tố pháp luật. Nhà nước kiến tạo phát
triển, nói một cách tổng quát nhất cần phải
tạo lập cho được hai hệ thống hạ tầng thiết
yếu sau:
Thứ nhất, “hạ tầng mềm”, đó là hệ
thống thể chế, pháp luật;
Thứ hai, “hạ tầng cứng” đó là hệ thống
cơ sở vật chất nền tảng cho phát triển kinh
tế - xã hội, như hệ thống giao thông, sân bay,
bến cảng, thông tin truyền thông, quy hoạch
không gian phát triển, sử dụng nguồn lực
Ở góc độ tạo lập hạ tầng mềm, Nhà
nước kiến tạo phát triển là Nhà nước pháp
quyền, quản trị đất nước bằng pháp luật và
theo pháp luật, bảo đảm các quyền con
người và quyền công dân, ít can thiệp hành
chính vào đời sống xã hội. Nói cách khác,
muốn xây dựng một nhà nước kiến tạo phát
triển thì việc trước nhất và cơ bản nhất mà
Nhà nước cần làm là phải xây dựng được
một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, đáp
ứng yêu cầu phát triển của hiện tại cũng như
phải phù hợp với xu thế phát triển của tương
lai. Hệ thống pháp luật đó cần phải được xây
dựng và hoàn thiện bằng một tư duy mới đó
là làm luật vì mục tiêu tạo dựng cho phát
triển chứ không phải là để quản lý, giám sát
theo nghĩa cai trị. Làm luật không phải chỉ
để quản lý, để bảo đảm an toàn xã hội một
cách thuần túy và cứng nhắc theo kiểu tư
duy cũ mà phải hướng đến việc tạo dựng một
môi trường, một hành lang pháp lý an toàn,
thuận lợi cho sự phát triển của xã hội. Với
chủ trương xây dựng Nhà nước kiến tạo phát
triển như nêu trên thì mục tiêu kiến tạo phát
triển của pháp luật cũng phải được nhận thức
là mục tiêu chủ yếu.
Trong hơn ba mươi năm đổi mới vừa
qua, chúng ta đã không ngừng đổi mới tư
duy làm luật, với mục tiêu xây dựng một hệ
thống pháp luật định hướng cho phát triển.
Nhưng do ảnh hưởng của tư duy cũ, trong
xây dựng pháp luật vẫn còn tồn tại tư duy
làm luật là để quản lý, là để bảo đảm sự an
toàn, thậm chí là sự kiểm soát chặt chẽ của
Nhà nước hơn là tạo dựng môi trường, hành
lang pháp lý thuận lợi cho phát triển. Đây là
vấn đề không dễ xóa bỏ, nhất là trong cơ chế
và quy trình làm luật hiện nay, khi việc đề
xuất chính sách cũng như soạn thảo các dự
án luật vẫn chủ yếu được thực hiện bởi các
cơ quan quản lý lĩnh vực chuyên ngành và
không loại trừ khả năng bị chi phối bởi lợi
ích cục bộ, bởi tâm lý muốn có quyền để có
cơ hội lợi dụng, trục lợi. Nếu không kiểm
soát chặt chẽ thì rất có thể các đạo luật được
ban hành không đáp ứng được yêu cầu kiến
tạo hành lang an toàn, môi trường thuận lợi
cho phát triển, mà chỉ nhằm mục đích kiểm
soát, quản lý thuần túy, trở nên kìm hãm sự
phát triển.
Từ đó, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư
duy pháp luật theo quan điểm: pháp luật không
chỉ thiết lập sự an toàn cho quản lý mà điều
quan trọng hơn là kiến tạo một môi trường,
một hành lang thuận lợi, dẫn dắt và thúc đẩy
phát triển. Mục tiêu cuối cùng của quản lý nhà
nước phải là phục vụ Nhân dân và kiến tạo
phát triển, không phải chỉ đơn thuần là sự an
toàn cứng nhắc của xã hội. Để chuyển đổi
được từ tư duy quản lý sang tư duy phục vụ và
kiến tạo phát triển thì cũng cần phải thay đổi
nhiều nhận thức và cách làm trong quy trình
xây dựng pháp luật hiện hành10.
9Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
10 Xem thêm bài viết của tác giả: “Cần đổi mới tư duy xây dựng pháp luật”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp số 2 & 3 năm 2019. Theo đó tác giả cho rằng, đổi mới tư duy pháp lý, tư duy xây dựng pháp luật
ngoài hai vấn đề cốt lõi nêu trên còn có những vấn đề lớn như: cần xây dựng hệ thống pháp luật dựa trên
2.3. Cần đổi mới quy trình làm luật
Có thể nói, quy trình làm luật hiện nay
còn có nhiều bất cập. Bắt đầu từ Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL)
năm 2008, việc đổi mới quy trình xây dựng
pháp luật có những thay đổi rất không hợp
lý, không dựa trên cơ sở khoa học mà mang
nặng dấu ấn chủ quan và sau đó được Luật
Ban hành văn bản QPPL năm 2015 kế thừa.
Có nhiều điều bất hợp lý trong quy
trình xây dựng pháp luật hiện hành, trong
phạm vi bài viết này, tác giả chỉ xin đề cập
đến hai điểm chốt quan trọng nhất và cũng
là hai vấn đề bất hợp lý nhất của quy trình
làm luật theo Luật Ban hành văn bản QPPL
hiện hành như sau:
Thứ nhất, quy trình cắt khúc trong quá
trình soạn thảo và trình luật. Đó là quy trình
mà cơ quan soạn thảo và trình luật chỉ có
trách nhiệm soạn thảo và trình dự án luật ra
Quốc hội cho ý kiến lần thứ nhất, sau đó
UBTVQH sẽ là cơ quan chủ trì tiếp thu,
chỉnh lý và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ
hai để xem xét, thông qua. Tuy nhiên, trên
thực tế, một Ủy ban của Quốc hội sẽ lĩnh
trách nhiệm tiếp quản dự án luật đó để chủ
trì nghiên cứu, tiếp thu và chỉnh lý. Vấn đề
là ở chỗ, ủy ban đó lại chính là ủy ban vừa
được phân công và có báo cáo thẩm tra dự
án luật trước Quốc hội. Câu hỏi đặt ra là, tại
sao chúng ta lại biến cơ quan thẩm tra thành
cơ quan tiếp thu, trình luật? tại sao cơ quan
thẩm tra lại làm thay vai của cơ quan chủ trì
soạn thảo và trình luật? Về nguyên tắc, nếu
một ủy ban của Quốc hội soạn thảo và đệ
trình luật thì sẽ có các ủy ban khác của Quốc
hội thẩm tra. Tuy nhiên, trong quy trình này,
ủy ban của Quốc hội lại lấy dự án luật do
chính mình thẩm tra để tiếp thu và trình
thông qua mà không có ủy ban nào của Quốc
hội thẩm tra lại. Trong khi đó, cơ quan chủ
trì soạn thảo và trình luật bị mất vai trò và
không còn tiếng nói bảo vệ quan điểm cũng
như các định hướng chính sách đã được cân
nhắc và lựa chọn, không thể bảo vệ và chịu
trách nhiệm đến cùng về “đứa con tinh thần”
của mình.
Đã đến lúc chúng ta cần phải thay đổi
quy trình này. Theo đó, cơ quan trình dự án
luật phải được quyền chủ trì và bảo vệ quan
điểm của mình trong toàn bộ quá trình soạn
thảo và trình thông qua dự án luật. Còn cơ
quan thẩm tra, dù đó là các ủy ban của Quốc
hội hay UBTVQH thì hãy làm đúng chức
năng của cơ quan thẩm tra, giúp Quốc hội
xem xét, thậm chí có thể đề nghị Quốc hội
không thông qua một dự án luật, nhưng
không nên làm thay và tước đi quyền của cơ
quan soạn thảo dự án luật. Quyền lập pháp
vẫn luôn là quyền của Quốc hội, Quốc hội có
thể thông qua hoặc không thông qua bất kỳ
một đạo luật nào. Thực tiễn lập pháp của
những năm qua cho thấy, chúng ta đã phải trả
giá cho sự bất hợp lý của quy trình nêu trên.
Bài học về những sai sót của Bộ luật Hình sự
năm 2015 dù có hi hữu cũng chính là bắt
nguồn từ quy trình cắt khúc này. Dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban
hành văn bản QPPL vừa được trình Quốc hội
cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 vừa qua, Chính
phủ đã đề xuất thay đổi quy trình nói trên,
theo đó, cơ quan chủ trì soạn thảo và trình
luật tiếp tục thực hiện vai trò tiếp thu và
chỉnh lý dự án luật dưới sự chủ trì của
UBTVQH, sau khi Quốc hội cho ý kiến lần
đầu. Cơ quan thẩm tra thực hiện đúng vai trò
thẩm tra và tham mưu cho Quốc hội về dự án
luật. Rất tiếc là quan điểm đổi mới nêu trên
vẫn chưa nhận được sự đồng thuận cao trong
Quốc hội. Việc thay đổi quy trình như nêu
Số 1(401) - T1/202010 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
cơ sở bằng chứng; cần phải chuyển trọng tâm vào giai đoạn nghiên cứu, đề xuất các định hướng chính
sách, giai đoạn xây dựng các dự án án luật chỉ còn là việc quy phạm hóa chính sách của các nhà làm luật
chuyên nghiệp; tăng cường tính chuyên nghiệp, tìm kiếm sự đồng thuận trong đề xuất và xây dựng luật;
làm luật không nên quá xúc động và cũng không được phép nóng vội; cuối cùng, cần sửa đổi, bổ sung cơ
bản Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành.
(Xem tiếp trang 16)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- he_thong_phap_luat_viet_nam_trong_tien_trinh_doi_moi_va_phat.pdf