Tôm thẻ chân trắng được nuôi chủ yếu theo
hình thức thâm canh và bán thâm canh ở trên các
vùng đất cát có lót bạt với mật độ nuôi từ 100 – 150
con/m2. Sau 2,5 – 3,0 tháng nuôi, năng suất trung
bình đạt khoảng 8 – 10 tấn/ha/vụ.
Chi phí sản xuất là 479,4 triệu đồng/ha,
doanh thu đạt 708,1 triệu đồng, lợi nhuận bình
quân đạt 201,4 triệu đồng/ha/vụ, tỷ suất lợi nhuận
đạt khoảng 40%.
Để phát triển nghề nuôi tôm thẻ chân trắng của
tỉnh theo hướng bền vững cần tiến hành đồng bộ
các giải pháp về quy hoạch, kỹ thuật và chính sách
thống nhất trên toàn bộ vùng nuôi.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 611 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng kỹ thuật và giải pháp phát triển nghề nuôi tôm thẻ chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trên cát tại Quảng Ngãi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
15
Soá 9, thaùng 6/2013 15
Khoa hoïc Coâng ngheä
HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NGHỀ NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei Boone, 1931)
TRÊN CÁT TẠI QUẢNG NGÃI
KS. Lê Thanh Tân*
TS. Lê Anh Tuấn**
KS. Hoàng Hà Giang***
Tóm tắt
Trong năm 2012, 209 trên tổng số 325 hộ nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát tại hai vùng nuôi tôm
trọng điểm của tỉnh Quảng Ngãi là Đức Phổ và Mộ Đức được tiến hành thu mẫu và điều tra. Kết quả cho
thấy, tôm thẻ chân trắng được nuôi theo hình thức thâm canh với mật độ 100 – 150 con/m2. Đa số các hộ
nuôi áp dụng đúng quy trình kỹ thuật, tuy nhiên, hầu hết các hộ nuôi không có hệ thống xử lý nước cấp và
thải. Đa số các hộ nuôi gặp khó khăn về giá và chất lượng tôm giống (90,9 và 60,3%). Các bệnh nguy hiểm
trên tôm như hội chứng gan tụy và bệnh phân trắng (74,7 – 77,1%) vẫn thường xuyên xảy ra. Sau 2,5 – 3,0
tháng nuôi, năng suất tôm đạt 8 – 10 tấn/ha/vụ và có tới 82,9% số hộ có lãi. Nghiên cứu cũng đề xuất một
số giải pháp liên quan đến kỹ thuật, quy hoạch và chính sách nhằm phát triển bền vững nghề nuôi tôm thẻ
chân trắng của tỉnh.
Từ khóa: Kỹ thuật nuôi, tôm thẻ chân trắng, thương phẩm
Abstract
In the year 2012, a survey has been conducted for 209 per 325 whiteleg shrimp farms at two main
shrimp raising areas of Mo Duc and Duc Pho districts, Quang Ngai Province. The result showed that inten-
sive farming method was applied with the density of 100 – 150 white shrimps per m2. A number of farmers
followed the recommended technical process. However, most of them did not have the water inlet and outlet
treated systems and they were in trouble with prices and quality of post larvae (90,9% and 60,3%). The
serious shrimp diseases frequently appeared like hepatopancreas and white faeces (74.7 – 77.1%). After 2,5
– 3,0 months of raising, the shrimp average productivity was at 8 – 10 tons/ha/crop and 82.9 percentage of
the farmers gained profits. The study also puts forward somes solutions related to raising technique, plans
and policies in order to sustainably develop the on – sand whiteleg shrimp farming industry in this province.
Key words: raising techniques, grow-out culture, whiteleg shrimp
1. Đặt vấn đề
Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng ở nước ta đã phát
triển khá mạnh trong những năm gần đây, giá trị
xuất khẩu của riêng loài tôm này năm 2010 đã đạt
414,6 triệu USD, tăng 1,5 lần so với năm 2009,
bằng 20% giá trị xuất khẩu tôm nói chung và bằng
8% tổng giá trị xuất khẩu tất cả các sản phẩm
thủy sản trong năm. Bảy tháng đầu năm 2011,
sản lượng tôm xuất khẩu đạt 125.000 tấn (gần 1,2
triệu USD), trong đó tôm chân trắng đạt sản lượng
gần 40.000 tấn (trên 730.000 USD), tăng trưởng
nhanh hơn so với cùng kỳ năm 2010 là 31% về
khối lượng và 66% về giá trị, trong khi mức tăng
tương ứng của tôm sú là 6% và 20% [16]. Quảng
Ngãi là một trong những tỉnh đầu tiên ở nước ta
phát triển nghề nuôi tôm thẻ chân trắng, diện tích
nuôi liên tục được mở rộng từ 226 ha (hơn 30%)
lên đến 626 ha (98%) và 587 ha (99,5%) vào năm
2010 và 2011, đặc biệt là ở hai huyện Đức Phổ và
Mộ Đức [5, 11].
Hiện nay, nuôi tôm trên cát đang là thế mạnh
và tiềm năng phát triển của các tỉnh ven biển miền
Trung giúp tận dụng tốt các diện tích cát hoang
hoá ven biển để phát triển nuôi trồng thuỷ sản,
nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân.
Với lợi thế diện tích đất cát rộng 10.000 ha, trong
đó có 4.000 ha có thể dùng cho nuôi trồng thủy
sản [5], năm 2011, năng suất tôm thẻ chân trắng
nuôi trên cát của Quảng Ngãi đạt trên 16,8 tấn/ha/
năm, cao hơn cả Ninh Thuận và Khánh Hòa đạt
14,7 và 11,8 tấn/ha/năm [9]. Tuy nhiên, sự phát
triển ồ ạt, không đồng bộ, không tuân thủ các chỉ
tiêu kỹ thuật (hệ thống công trình, con giống, thức
ăn, mật độ nuôi, xử lý nước, xử lý chất thải,),
cùng với những hạn chế về trình độ chuyên môn
cũng như ý thức bảo vệ môi trường của người
nuôi, dẫn đến gia tăng nguy cơ bùng phát dịch
bệnh, gây thiệt hại lớn cho người nuôi [4]. Hậu
quả là, từ năm 2008 – 2010, diện tích tôm thẻ
chân trắng bị bệnh tăng hơn 3 lần, từ 58 ha lên
*Lớp Cao học Nuôi trồng Thủy sản 2010, Trường Đại học Nha Trang
**Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
***Khoa Sau Đại học, Trường Đại học Nha Trang
16
Soá 9, thaùng 6/2013 16
Khoa hoïc Coâng ngheä
đến 290 ha, diện tích nuôi giảm từ 603,5 ha năm
2010 xuống còn 587 ha năm 2011, gây ảnh hưởng
không nhỏ đến người nuôi [10]. Xuất phát từ thực
tiễn trên, nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh
giá hiện trạng kỹ thuật và đề xuất các giải pháp
phát triển nghề nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát
của Quảng Ngãi theo hướng bền vững.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trong năm 2012
nhằm điều tra hiện trạng kỹ thuật của nghề nuôi
tôm thẻ chân trắng trên cát tại hai vùng nuôi chính
của tỉnh Quảng Ngãi là huyện Đức Phổ và Mộ
Đức. Số liệu sơ cấp về hiện trạng nghề nuôi tôm
thẻ chân trắng được thu từ Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Quảng Ngãi, Sở Tài nguyên - Môi
trường Quảng Ngãi, Cục Thống kê Quảng Ngãi;
Phòng Tài nguyên – Môi trường, Phòng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi cục Thống kê
của 2 huyện Đức Phổ và Mộ Đức.
Số liệu thứ cấp được thu thập thông qua
phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và
phương pháp điều tra qua phiếu (QS) [17]. Số hộ
nuôi trên địa bàn hai huyện (325 hộ) được căn cứ
trên cơ sở báo cáo nhanh của Chi cục Nuôi trồng
Thủy sản và các Phòng Nông nghiệp & Phát triển
Nông thôn thuộc tỉnh, huyện và xã. Số mẫu điều
tra cho mỗi vùng nuôi trong nghiên cứu này được
tính toán theo công thức của Yamane (1967) [18].
Theo đó, tổng số mẫu điều tra là 209/325 mẫu,
phân bổ về mỗi địa phương với số lượng lần lượt
là xã Minh Đức (50/70), xã Đức Phong (50/96),
xã Phổ An (51/101), xã Phổ Quang (49/49) và xã
Phổ Vinh (9/9).
Các mẫu sau khi tính toán được phân bổ một
cách ngẫu nhiên về các vùng nuôi tương ứng bằng
cách sử dụng hàm phân bố ngẫu nhiên Rand trong
Excel 2003, đối với những xã có ít hơn 50 hộ nuôi
thì tiến hành điều tra toàn bộ số hộ nuôi (100%).
Những thông tin chính được thu thập gồm: hệ
thống công trình, hình thức nuôi, kỹ thuật cải tạo
ao, sử dụng các chất diệt khuẩn và diệt tạp, nguồn
giống, thức ăn và cho ăn, chăm sóc và quản lý, sử
dụng thuốc và chế phẩm sinh học. Trên cơ sở đó,
nghiên cứu đề xuất những giải pháp nhằm phát
triển nghề nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát của
tỉnh theo hướng bền vững.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Hiện trạng nghề nuôi tôm thẻ chân trắng
trên cát tại Quảng Ngãi
3.1.1. Hệ thống công trình
Tôm thẻ chân trắng được nuôi theo hình thức
thâm canh trên cát tại Quảng Ngãi. Ao nuôi được
thiết kế theo hai dạng là hình chữ nhật (75,9%) và
hình vuông (24,1%), với diện tích 1.500 - 3.000
m (51,8%) và độ sâu 1,2 - 1,5 m (57,8%). Đáy ao
và bờ ao được phủ bạt hoặc nilon để ngăn ngừa
thẩm lậu. Trong đó, 2/3 số ao được tiến hành phủ
cát sau khi lót bạt (66,3%) và 1/3 số ao còn lại
lót bạt nhưng không phủ cát trên nền đáy (33,7%)
(Bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm ao nuôi tôm thẻ chân trắng tại Quảng Ngãi (n=209)
Hình dạng Đáy ao Độ sâu ao (m) Diện tích ao (m2)
Hình
vuông
Hình chữ
nhật
Lót
bạt có
cát
Lót bạt
không cát
1,2 - 1,5 1,5 – 2,0 3.000
24,1% 75,9% 33,7% 66,3% 57,8% 42,2% 36,1% 51,8% 12,1%
So với ao đất, hai dạng ao này thuận tiện hơn
cho việc xi phông chất thải ở nền đáy cũng như
thu hoạch tôm nhưng lại gặp khó khăn trong việc
gây màu và duy trì ổn định sự phát triển của tảo.
Các ao nuôi sử dụng hệ thống cấp thoát nước riêng
biệt, tuy nhiên lại không có hệ thống ao xử lý nước
cấp và nước thải do vậy làm gia tăng nguy cơ lây
nhiễm dịch bệnh trong vài năm trở lại đây.
3.1.2. Kỹ thuật cải tạo ao
Cải tạo ao có vai trò quyết định sự thành bại
của vụ nuôi nên đa số các hộ nuôi thực hiện đúng
theo quy trình kỹ thuật [7]. Trong quá trình cải
tạo, tất cả các hộ nuôi đều áp dụng phương pháp
cải tạo khô (100%). Thời gian cải tạo ao phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như thời tiết, mùa vụ trung bình
khoảng 10 - 15 ngày (89,5%). Đối với ao nuôi
không phủ cát trên nền đáy, thời gian cải tạo
thường khoảng 5 - 7 ngày.
Mô hình nuôi tôm trên cát thường ít sử dụng
vôi trong quá trình cải tạo ao (32,5%), đặc biệt
với những ao lót bạt không phủ cát trên nền đáy.
Trước khi thả giống từ 5 – 7 ngày, các loại hoá
chất như Virkon A, Biocide, BKC, Iodine được
17
Soá 9, thaùng 6/2013 17
Khoa hoïc Coâng ngheä
sử dụng để diệt khuẩn. Sau 2 - 3 ngày, ao nuôi
được tiến hành gây màu nước bằng cách sử dụng
hỗn hợp dolomite + men vi sinh + khoáng (50 kg :
2 kg : 3 kg/2.000 m2; 75,6%) hay hỗn hợp DAP +
dolomite + super Ca (2 - 4 kg : 50 kg: 25 kg/2.000
m2; 24,4%).
3.1.3. Nguồn giống và thả giống
Bảng 2: Khó khăn của hộ nuôi khi mua tôm
giống (n = 209)
Khó khăn Số hộ Tỷ lệ (%)
1. Giá cao 190 90,90
2. Không kịp thời vụ 183 87,56
3. Giống không phù hợp 123 58,85
4. Vận chuyển khó khăn 11 5,26
Nguồn giống tôm thẻ chân trắng cung cấp cho
nhu cầu nuôi tôm trong tỉnh chủ yếu mua từ các
tỉnh Nam Trung Bộ (Bình Định - Bình Thuận),
một phần nhỏ được mua từ các trại giống trong
tỉnh do nguồn tôm giống sản xuất tại địa phương
không đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất
lượng [6]. Hiện nay, với tình trạng gần 100% tôm
giống có nguồn gốc ngoại tỉnh, trong khi công tác
kiểm dịch chất lượng tôm giống còn nhiều hạn chế
là trở ngại lớn cho việc phát triển bền vững nghề
nuôi tôm của tỉnh [11] .
Mật độ thả thường khá cao, dao động từ 71 -
250 con/m2, phổ biến nhất từ 100 - 150 con/m2
tùy thuộc vào mức độ đầu tư, chất lượng và giá
cả tôm giống, mùa vụ thả nuôi, Trong quá trình
tiếp cận nguồn giống tốt, người nuôi gặp phải rất
nhiều khó khăn như: giá cao (90,9%) và không
kịp thời vụ (87,56%). Gần 60% tôm giống có
kích thước nhỏ hơn so với khuyến cáo [1, 2]. Về
chất lượng tôm giống, 60,3% hộ nuôi không đánh
giá được chất lượng tôm giống, 20,6% cho rằng
nguồn giống tốt, còn lại là chất lượng trung bình
hoặc kém (15,3 và 3,8%).
3.1.4. Thức ăn và cho ăn
Trong quá trình nuôi, 100% hộ nuôi đều sử
Hình 1. Đánh giá của người nuôi về chất lượng
tôm giống (n = 209)
dụng thức ăn công nghiệp được sản xuất bởi các
Công ty như CP, Uni - President, Grobest, Ton-
gwei, Á Châu, Trong đó, thức ăn do Công ty
Uni - President chiếm thị phần lớn nhất với 39,7%.
Chế độ cho ăn phổ biến ở tất cả các hộ nuôi là 3 – 5
lần/ngày (6h; 10h; 16h và 22h), chủ yếu là cho ăn
4 lần/ngày (65%). Chế độ cho ăn cũng phụ thuộc
vào các giai đoạn phát triển của tôm, ở giai đoạn
còn nhỏ (dưới 2 tháng), tôm được cho ăn nhiều
hơn (4 – 5 lần/ngày); sau đó, giai đoạn từ 2 tháng
tuổi chỉ cho ăn 3 lần/ngày (6h, 10h và 16h).
Hình 2. Số lần cho ăn trong ngày của tôm thẻ
chân trắng thương phẩm (n = 209)
Tình trạng sức khỏe và khả năng bắt mồi của
tôm được quan sát thông qua sàng ăn. Số lượng
sàng ăn được bố trí 2 cái/ao 2000 m2 phù hợp
với tiêu chuẩn kỹ thuật ngành [2]. Lượng thức ăn
cho vào sàng ăn và thời gian kiểm tra sàng ăn dao
động 3 – 10% và 1,5 – 3 giờ tùy theo giai đoạn
phát triển. Hệ số thức ăn (FCR) dao động từ 0,99
– 2,73, phổ biến từ 1,0 - 1,2 (55,4%).
3.1.5. Quản lý môi trường
Trước khi thả giống, ao được gây màu nước
cho đến khi đạt độ trong 30 – 40 cm, các chỉ số
thủy lý, thủy hóa thích hợp cho tôm sinh trưởng
và phát triển tốt là: NH3 < 0,3mg/L, H2S < 0,05
mg/L, pH 7 – 9, ôxy hòa tan ≥ 4,5 mg/L, độ trong
20 – 50 cm, độ kiềm 60 – 180 mg CaCO3/L,
[7, 12], 100% các hộ nuôi tiến hành kiểm tra các
yếu tố môi trường từ 3 – 5 ngày/lần. Nhằm ổn
định môi trường ao nuôi, các hộ nuôi thường
định kỳ 7 – 10 ngày/lần sử dụng các biện pháp
như: bón phân (72,3%), vôi (100%), xi phông
đáy ao (100%) và chế phẩm sinh học (91,6%;
Bitech - Yucca, Baccilus, Zymetine, BRF2,).
Để tiêu diệt các tác nhân gây bệnh, 66,3% hộ
nuôi sử dụng kháng sinh. Đáng chú ý, 70% hộ
nuôi thường xuyên sử dụng thuốc kháng sinh
để phòng bệnh. Điều này trái với khuyến cáo
về nguyên tắc sử dụng chế phẩm này trong nuôi
trồng thủy sản bởi các cơ quan chức năng [13].
18
Soá 9, thaùng 6/2013 18
Khoa hoïc Coâng ngheä
3.1.6. Bệnh và biện pháp phòng trị
Trong những năm gần đây, tình hình dịch bệnh
trên tôm diễn biến phức tạp, kết quả điều tra cho
thấy 97,6% hộ nuôi đều xuất hiện bệnh nhưng mức
độ gây hại, loại bệnh, mùa vụ xuất hiện thường
khác nhau. Trong số các bệnh này, hội chứng gan
tụy và bệnh phân trắng xuất hiện với tỷ lệ lớn nhất
74,7 – 77,1%. Bệnh đốm trắng chỉ chiếm tỷ lệ thấp
13,3% nhưng thường gây thiệt hại lớn cho hộ nuôi
(Bảng 3). Nhìn chung, bệnh trên tôm xảy ra rất
phổ biến trong thời gian nghiên cứu, tuy nhiên tập
trung vào những hộ không tuân thủ đúng theo quy
trình khuyến cáo như thả nuôi không đúng thời vụ,
cải tạo ao nuôi không đúng quy trình trước và sau
mỗi vụ nuôi, lựa chọn con giống không đạt tiêu
chuẩn, thả giống quá dày, không xử lý nước cấp và
thoát đúng quy trình, không có các biện pháp thiết
thực quản lý môi trường và phòng trừ dịch bệnh
Tất cả các yếu tố này góp phần làm gia tăng nguy
cơ bùng phát dịch bệnh và gây thiệt hại cho các hộ
nuôi tại địa phương thời gian qua.
Bảng 3: Các bệnh thường gặp trên tôm thẻ
chân trắng tại Quảng Ngãi (n = 209)
STT Bệnh Tỷ lệ (%)
1 Phân trắng 77,1
2 Gan tụy – HPV 74,7
3 Đỏ thân 18,1
4 Mềm vỏ 15,7
5 Đốm trắng – WSSV 13,3
6 Đen mang 8,4
7 Hoại tử cơ quan tạo máu và
mô – IHHNV
7,2
8 Bệnh đục thân – IMNV 4,8
Hiện nay, do trình độ chuyên môn cũng như
điều kiện sản xuất còn hạn chế nên việc phòng
trị bệnh còn kém hiệu quả. Do đó, cần áp dụng
các biện pháp phòng trị bệnh tổng hợp như cải
tạo ao đúng quy trình, xử lý nguồn nước cấp và
thải, tuyển chọn nguồn giống chất lượng cao, tăng
cường sử dụng chế phẩm sinh học, thức ăn đầy đủ
dinh dưỡng, quản lý tốt môi trường ao nuôi trong
suốt vụ nuôi [8, 13].
3.1.7. Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế
Sau 2,5 - 3,0 tháng nuôi, năng suất bình quân
thu được 8 - 10 tấn/ha/vụ. Chi phí bình quân cho
01 ha/vụ nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát trong
năm 2012 là rất cao, 479,4 triệu đồng. Trong đó,
chi phí cho thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất 56,2%
(279,1 triệu đồng/ha), tiếp theo là con giống
13,3% (66 triệu đồng/ha) và năng lượng (11,7%;
57,9 triệu đồng/ha). Mặc dù, chi phí cao nhưng
nghề nuôi tôm trên cát vẫn đem lại lợi nhuận lớn
cho người nuôi. Trong tổng số 199/209 hộ nuôi
có thu hoạch tôm, 82,9% hộ có lãi, trong đó, hộ
có lãi cao nhất đạt 570 triệu đồng/ha/vụ, thấp nhất
là 700 ngàn đồng/ha/vụ và chỉ có 17,1% hộ nuôi
bị thua lỗ.
Kết quả phân tích hiệu quả kinh tế cho thấy, lợi
nhuận trung bình mà nghề nuôi tôm thẻ chân trắng
thương phẩm mang lại là 201,4 triệu đồng/ha/vụ
và tỷ suất lợi nhuận đạt 39,8%. Như vậy, người
nuôi được hưởng lợi nhuận bình quân 9,9%/tháng.
Trường hợp vay lãi ngân hàng với lãi suất 1,3%/
tháng như hiện nay, người nuôi vẫn còn lãi 8,7%/
tháng. Tùy thuộc vào giá bán và kích cỡ của tôm,
trung bình mỗi hộ nuôi đạt doanh thu khoảng
341,4 triệu đồng/ha/vụ, trong đó hộ cao nhất đạt
1020 triệu đồng/ha/vụ và thấp nhất chỉ đạt 35 triệu
đồng/ha/vụ.
3.2. Một số giải pháp phát triển nghề nuôi tôm
trên cát ở Quảng Ngãi theo hướng bền vững
Quảng Ngãi là một trong những tỉnh đầu tiên
trong cả nước phát triển nghề nuôi tôm trên cát.
Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng đóng góp rất lớn
vào tổng sản lượng và giá trị của ngành Nuôi
trồng Thuỷ sản ở tỉnh, tuy nhiên, nó cũng đang
đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi
trường và lây lan dịch bệnh. Năm 2011, diện tích
nuôi tôm bị bệnh toàn tỉnh khoảng 220 ha, chiếm
37,5% tổng diện tích nuôi. Để khắc phục những
khó khăn và hướng tới phát triển bền vững nghề
nuôi tôm trên cát cần tiến hành đồng bộ các giải
pháp về quy hoạch, kỹ thuật và chính sách [3].
Quy hoạch đồng bộ về cơ sở hạ tầng, giao
thông, điện nước, hệ thống kênh mương thủy lợi
cho toàn bộ vùng nuôi, thực hiện đúng các yêu
cầu kỹ thuật trong thiết kế và xây dựng ao, nguồn
giống, mật độ, thức ăn, sử dụng thuốc, hoá chất,
kháng sinh và chế phẩm sinh học. Vùng nuôi cần
có hệ thống xử lý nước cấp và nước thải, ngăn
chặn tình trạng xả thải trực tiếp ra môi trường.
Cán bộ khuyến ngư cần kết hợp với địa phương,
trường, viện, để mở các lớp tập huấn kỹ thuật
và giúp người nuôi lựa chọn mô hình nuôi thân
thiện với môi trường như mô hình nuôi ít thay
nước, mô hình nuôi đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, công nghệ biofloc, áp dụng quy phạm thực
hành nuôi tốt (GAP, VietGAP,) [14, 15].
19
Soá 9, thaùng 6/2013 19
Khoa hoïc Coâng ngheä
Ngoài ra cần có sự phối hợp, hỗ trợ của Nhà
nước và chính quyền địa phương để đầu tư cho
các cơ sở sản xuất giống nhằm đáp ứng tốt cả về
số lượng và chất lượng tôm giống. Bên cạnh đó,
Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ người nuôi
vay vốn, sử dụng đất, bao tiêu sản phẩm, hỗ trợ
khi bị thiệt hại, thành lập và tăng cường vai trò
hiệp hội người nuôi thủy sản tại địa phương.
4. Kết luận
Tôm thẻ chân trắng được nuôi chủ yếu theo
hình thức thâm canh và bán thâm canh ở trên các
vùng đất cát có lót bạt với mật độ nuôi từ 100 – 150
con/m2. Sau 2,5 – 3,0 tháng nuôi, năng suất trung
bình đạt khoảng 8 – 10 tấn/ha/vụ.
Chi phí sản xuất là 479,4 triệu đồng/ha,
doanh thu đạt 708,1 triệu đồng, lợi nhuận bình
quân đạt 201,4 triệu đồng/ha/vụ, tỷ suất lợi nhuận
đạt khoảng 40%.
Để phát triển nghề nuôi tôm thẻ chân trắng của
tỉnh theo hướng bền vững cần tiến hành đồng bộ
các giải pháp về quy hoạch, kỹ thuật và chính sách
thống nhất trên toàn bộ vùng nuôi.
Tài liệu tham khảo
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 2008. Chỉ thị số 1415/CT-BNN-NTTS ngày 22 tháng 5 năm 2008 về
việc tăng cường quản lý chất lượng tôm sú, tôm thẻ giống và điều kiện vùng nuôi tôm. Hà Nội.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 2010. Thông tư số 45/2010/TT-BNNPTNT ngày 22 tháng 7 năm 2010
Quy định về điều kiện cơ sở, vùng nuôi tôm sú, tôm chân trắng thâm canh đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hà Nội.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản. 2011. Tôm thẻ chân trắng và
vấn đề quy hoạch.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 2012. Số 2017/BC-BNN-TCTS ngày 03 tháng 7 năm 2012. Báo cáo
Tình hình thiệt hại trên tôm nước lợ và đề xuất chính sách hỗ trợ. Hà Nội.
IUCN và IISD. 2003. Mở rộng nuôi tôm trên cát ở Việt Nam Thách thức và cơ hội. Nhà xuất bản HAKI;
Hà Nội.
Nguyễn Văn Khương, Hoàng Thị Bích Mai và Trần Văn Dũng. 2012. Hiện trạng kỹ thuật nghề sản xuất giống
tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) sạch bệnh tại Tuy Phong - Bình Thuận và đề xuất các
biện pháp phát triển theo hướng bền vững. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản. số 4. tr 131 - 136.
Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp. 2006. Kỹ thuật nuôi giáp xác. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Đặng Thị Hoàng Oanh và Nguyễn Thanh Phương. 2012. Các bệnh nguy hiểm trên tôm nuôi ở Đồng bằng Sông
Cửu Long. Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ 22: 106 - 118.
Nguyễn Văn Phát, Hoàng Thị Bích Đào, Trần Văn Dũng và Hoàng Kim Quỳnh. 2012. Hiện trạng kỹ thuật của
nghề nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) thương phẩm tại Khánh Hòa. Tạp chí Khoa
học - Công nghệ Thủy sản. số 3. tr 134 - 138.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Ngãi. 2011. Báo cáo Tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2011
và kế hoạch năm 2012. tr 1 - 3.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Ngãi. 2011. Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển
Ngành Thủy sản tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2020.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thành phố Hồ Chí Minh. 2009. Cẩm nang nuôi tôm chân trắng (Lito-
penaeus vannamei Boone. 1931).
Bùi Quang Tề. 2006. Bệnh của tôm nuôi và biện pháp phòng trị. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội.
Bùi Quang Tề. 2009. Nuôi thâm canh tôm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm theo mô hình GaqP. Trung tâm
Khuyến nông - Khuyến ngư quốc gia.
Vũ Dũng Tiến và Don Griffiths. 2009. GAP và BMP trong nuôi tôm tại Việt Nam: Chính sách, hiện trạng và
phương hướng thực hiện. Hà Nội.
Tổng cục Thủy sản. 2011. Báo cáo tóm tắt tình hình nuôi tôm nước lợ năm 2010, kế hoạch năm 2011 và một
số giải pháp thực hiện. Hà Nội.
Groves, R., F. Fowler, M. Couper, J. Lepkowski, E. Singer and R. Tourangeau. 2004. Survey Methodology.
Wiley Series in Survey Methodology.
Yamane T. 1967. Statistics: An introductory Analysis. 2nd edition, Harper & Row. New York. pp 886 - 887.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hien_trang_ky_thuat_va_giai_phap_phat_trien_nghe_nuoi_tom_th.pdf