The surveyed results showed that the aquaculture and inshore fishery activities at Thuy
Trieu lagoon have developed privately and spontaneously; the total area of unused ponds was up to
68.94%; 100% of shrimp farmers and fishermen have not participated any fishery associations. So far, there
has no a specific plan for aquaculture at the lagoon; 60% of farming ponds is nearby industrial wastewater;
43.33% of farming ponds is nearby agricultural wastewater and 30% of farming ponds is nearby residential
wastewater, in which 20% of the farming ponds is nearby both industrial and residential wastewater. The
infrastructure for aquaculture has not been invested by the local budgets:the electrical and freshwater systems
have been only invested by the shrimp farmers; pathways at the concentrated aquaculture areas have not been
extended and cemented; 86.67% of farming ponds without wastewater treatment system; 53.33% of farming
ponds without inlet and outlet systems separately. The aquaculture and inshore fishery have not sustainably
developed: 46.67% of shrimp farmers have tended to reduce aquaculture areas in the coming years; 46.67% of
the fishermen have tended to change their occupation; 86.67% of shrimp farmers asserted that the profit
decreases significantly compared to that of 5 years ago. The marine recourses in the lagoon decrease
significantly compared to those of 5 years ago. There have no local specific regulations in management,
sanctions as well as supporting policies for the aquaculture and inshore fishery at Thuy Trieu lagoon.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 790 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng nuôi trồng và khai thác thủy sản tại đầm thủy triều huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 397 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 4; 2013: 397-405 
ISSN: 1859-3097 
HIỆN TRẠNG NUÔI TRỒNG VÀ KHAI THÁC THỦY SẢN TẠI 
ĐẦM THỦY TRIỀU HUYỆN CAM LÂM, TỈNH KHÁNH HÒA 
Nguyễn Thị Thanh Thủy*, Nguyễn Xuân Hòa, Nguyễn Nhật Như Thủy 
Viện Hải dương học- Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Số 1 Cầu Đá, Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam 
*Email: thuyduongio@yahoo.com.vn 
Ngày nhận bài: 4-2-2013 
TÓM TẮT: Kết quả điều tra cho thấy, hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản trong đầm Thủy Triều còn 
mang tính chất cá thể, tự phát; tổng số ao đìa bỏ hoang là 68,94%;100% các hộ nuôi trồng và khai thác thủy sản 
không tham gia tổ chức nghề cá nào. Hiện chưa có một quy hoạch cụ thể cho nuôi trồng thủy sản khu vực đầm; có 
60% ao đìa gần nguồn nước thải công nghiệp; 43,33% ao đìa gần nguồn nước thải nông nghiệp và 30% ao đìa 
gần nguồn thải sinh hoạt, trong đó có 20% ao đìa vừa gần nước thải công nghiệp vừa gần nước thải sinh hoạt. Cơ 
sở hạ tầng cho nuôi trồng thủy sản chưa được đầu tư bằng ngân sách địa phương: hệ thống điện, nước sinh hoạt 
đều do cá nhân tự đầu tư; hệ thống giao thông tại những vùng nuôi tập trung chưa được mở rộng và bê tông hóa; 
86,67% ao nuôi không có hệ thống xử lý nước thải; 53,33% các ao đìa nuôi không có hệ thống cấp, thoát nước 
riêng biệt. Nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản khu vực đầm phát triển không ổn định: 46,67% hộ nuôi có ý 
định sẽ giảm diện tích trong những năm tới; 46,67% hộ khai thác thủy sản có ý định chuyển nghề; 86,67% các hộ 
nuôi cho rằng lợi nhuận giảm hơn so với 5 năm trước; nguồn lợi thủy sản trong đầm giảm sút đáng kể so với 5 
năm trước. Hiện chưa có những quy định cụ thể về quản lý, chế tài xử phạt vi phạm cũng như chính sách hỗ trợ 
của địa phương trong các hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản khu vực đầm Thủy Triều. 
 Từ khóa: nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy sản, đầm Thủy Triều 
MỞ ĐẦU 
Đầm Thủy Triều nằm trong vịnh Cam Ranh, 
thuộc huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa, với diện 
tích mặt nước khoảng 2.000ha,vốn là nơi phân bố 
quan trọng của hệ sinh thái rừng ngập mặn và thảm 
cỏ biển vào bậc cao so với các khu vực đầm khác 
của Việt Nam [3]. Tuy nhiên, sự phát triển của kinh 
tế xã hội nói chung, đặc biệt tình trạng phát triển tự 
phát của hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản 
quá mức với những phương tiện mang tính hủy diệt 
đã ảnh hưởng không nhỏ tới hệ sinh thái rừng ngập 
mặn và thảm cỏ biển trong đầm [3]. Hiện nay, rừng 
ngập mặn đúng nghĩa tại khu vực đầm hầu như 
không còn, chỉ còn những dải cây ngập mặn phân 
bố rải rác vùng đỉnh đầm và những khu vực nuôi 
trồng thủy sản, với tổng diện tích khoảng 14ha. Diện 
tích thảm cỏ biển trong đầm Thủy Triều hiện có 
khoảng 548ha, giảm nhiều so với trước [3], hệ quả 
là nguồn lợi thủy sản trong đầm cũng bị suy giảm 
đáng kể [3]. Mặt khác, do tác động tiêu cực của các 
hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là hoạt động 
công nghiệp ở khu vực đầm, dẫn đến hoạt động nuôi 
trồng và khai thác thủy sản trong đầm những năm 
gần đây phát triển không ổn định, khiến cuộc sống 
của cộng đồng ngư dân ven đầm gặp khó khăn. 
Điều tra hiện trạng nuôi trồng và khai thác thủy 
sản khu vực đầm Thủy Triều là một phần kết quả 
của đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ tại địa 
phương “Triển khai các mô hình phục hồi và quản 
lý rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở khu vực đầm 
Thủy Triều”. Những thông tin được trình bày trong 
bài báo là một trong những cơ sở khoa học và thực 
Nguyễn Thị Thanh Thủy, Nguyễn Xuân Hòa  
 398
tiễn cho việc xây dựng quy hoạch tổng thể nói 
chung, quy hoạch nuôi trồng thủy sản nói riêng ở 
khu vực đầm, đồng thời là cơ sở cho việc đề xuất 
các giải pháp quản lý và sử dụng bền vững nguồn 
lợi thủy sản khu vực đầm Thủy Triều. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp điều tra 
Thông tin và số liệu thứ cấp được thu thập từ 
các báo cáo của các cơ quan, ban ngành địa phương 
trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt động nuôi 
trồng và khai thác thủy sản khu vực đầm Thủy Triều 
[1,2]. 
Thông tin và số liệu sơ cấp được thu thập bằng 
cách phỏng vấn trực tiếp với bộ câu hỏi soạn sẵn 
phù hợp với từng đối tượng. 
Đối tượng được phỏng vấn gồm: đại diện Ủy ban 
nhân dân (UBND) huyện Cam Lâm và 6 xã/phường 
thuộc khu vực đầm Thủy Triều (thị trấn Cam Đức, 
các xã Cam Hòa, Cam Hải Đông, Cam Hải Tây và 
Cam Thành Bắc thuộc huyện Cam Lâm; phường 
Cam Nghĩa thuộc thành phố Cam Ranh); đại diện các 
sở, ban ngành địa phương Khánh Hòa (Sở Nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn; Sở Tài nguyên và 
Môi trường; Sở Khoa học và Công nghệ; Sở Kế 
hoạch và Đầu tư; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) 
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động nuôi 
trồng và khai thác thủy sản; đại diện các hộ nuôi 
trồng và khai thác thủy sản thuộc 6 xã/ phường khu 
vực đầm; đại diện các hộ thu mua hải sản (đầu nậu) 
hoạt động trên địa bàn đầm Thủy Triều. 
Tổng cộng có 106 phiếu điều tra được phát ra (3 
đại diện UBND huyện Cam Lâm;12 đại diện UBND 
các xã/phường;5 đại diện các sở, ban ngành địa 
phương; 30 hộ nuôi trồng thủy sản; 50 hộ khai thác 
thủy sản và 6 hộ thu mua hải sản khu vực đầm). 
Xử lý số liệu 
Sản lượng khai thác của từng đối tượng nguồn 
lợi được tính trên cơ sở công thức: 
P = ptp × n × d × m 
Trong đó: P: sản lượng (tấn/năm); Ptb: sản lượng 
trung bình/người(hoặc ghe/ngày) 
 n: số lượng người (hoặc ghe) khai thác 
 d: số ngày khai thác/tháng 
 m: số tháng khai thác/năm. 
Số liệu được xử lý, tổng hợp bằng phần mềm 
excel và thể hiện dưới dạng bảng. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Kết quả được trình bày trong bài báo này là một 
phần kết quả của đề tài “Triển khai các mô hình 
phục hồi và quản lý rừng ngập mặn và thảm cỏ biển 
ở khu vực đầm Thủy Triều” được thực hiện bởi Viện 
Hải dương học giai đoạn 2012-2014, do Sở Khoa 
học và Công nghệ Khánh Hòa quản lý. 
Hiện trạng nuôi trồng thủy sản khu vực Thủy 
Triều 
Hoạt động nuôi trồng thủy sản khu vực đầm Thủy 
Triều những năm gần đây 
Theo số liệu điều tra, tính đến tháng 6 năm 2012, 
diện tích ao đìa có thể nuôi trồng thủy sản khu vực 
đầm Thủy Triều là 1.191,089ha (bảng 1).Tuy nhiên, 
tổng diện tích ao đìa được đưa vào sử dụng cho nuôi 
tôm khu vực đầm là 370ha, tức chỉ chiếm khoảng 
31,06% tổng diện tích ao đìa hiện có tại khu vực đầm. 
Nói cách khác, diện tích ao đìa của đầm Thủy Triều 
bị bỏ hoang tới 68,94%. Thực tế khảo sát cho thấy, 
nhiều ao đìa khu vực quanh đầm bị vỡ gần như hoàn 
toàn, không được tu bổ, đặc biệt khu vực thuộc xã 
Cam Hải Đông, chủ đìa thường là người của địa 
phương khác, do vậy việc quản lý và tận dụng những 
khu vực nuôi trồng bị bỏ hoang chưa hiệu quả và 
chưa được chủ đìa quan tâm đúng mức. 
Theo số liệu thống kê của địa phương, diện tích 
nuôi tôm sú năm 2012 là 74ha, với hình thức nuôi 
chủ yếu là bán thâm canh và xen canh, giảm khoảng 
40% so với năm 2008 (120ha). Diện tích nuôi tôm 
chân trắng năm 2012 là 296ha, tăng không đáng kể 
so với 2008 (283ha). Diện tích nuôi động vật thân 
mềm trong năm 2008 là 70ha đến 2009 còn 50ha, 
nhưng trong 3 năm gần đây hầu như không còn diện 
tích nuôi đối tượng này. Nuôi rong biển trong 5 năm 
gần đây vẫn được duy trì với diện tích 55ha trong 
năm 2008, hiện nay còn 40ha, chủ yếu là rong sụn. 
Kết quả điều tra, phỏng vấn cho thấy, 100% các hộ 
nuôi trồng thủy sản sử dụng hình thức nuôi ao đìa 
ven đầm, trong đó 86,67% các hộ nuôi tôm sú và 
tôm chân trắng, 13,33% hộ nuôi cá chẽm. 
Đến nay, địa phương vẫn chưa có một quy 
hoạch chính thức cho nuôi trồng thủy sản khu vực 
đầm Thủy Triều. Hoạt động nuôi trồng thủy sản ở 
đây còn mang tính chất cá thể, quy mô hộ gia đình 
và phát triển một cách tự phát. Số hộ nuôi trồng 
thủy sản của các xã khu vực đầm năm 2008 là 570 
Hiện trạng nuôi trồng và khai thác thủy sản  
 399 
hộ, đến 2012 còn 470 hộ, giảm 100 hộ so với 5 năm 
trước (bảng 1). Nguyên nhân chủ yếu là do hầu hết 
số hộ nuôi vẹm xanh và một số hộ trồng rong sụn ở 
hai xã Cam Hải Đông và Cam Thành Bắc bị thua lỗ 
liên tục nên đã ngừng hoạt động. Do vậy, sản lượng 
động vật thân mềm (chủ yếu là vẹm xanh) trong 3 
năm trở lại đây không có. Theo đó, số lao động nuôi 
trồng thủy sản hiện nay là 995 người, giảm 200 
người so với năm 2008 (1.195 người). 
Kết quả điều tra cho thấy, chỉ có 1 doanh nghiệp 
tư nhân hoạt động nuôi trồng thủy sản tại khu vực 
đầm. Về tham gia các tổ chức sản xuất, hiệp hội 
nghề cá, 100% các hộ nuôi trồng thủy sản ở đây 
không tham gia một tổ chức sản xuất nghề cá nào. 
Nói cách khác, vai trò của các hiệp hội nghề cá hoặc 
tổ chức sản xuất chưa được thể hiện trong các hoạt 
động nuôi trồng thủy sản của các hộ nuôi gia đình 
tại địa phương. 
Sản lượng nuôi trồng thủy sản trong 5 năm gần 
đây đạt ở mức 3.500 tấn/năm. Sản lượng nuôi trồng 
thủy sản 6 tháng đầu năm 2012 của huyện Cam Lâm 
là 3.000 tấn, trong đó chủ yếu là tôm chân trắng, 
tôm sú và cá biển (bảng 1). Các cơ quan chức năng 
và người dân nuôi tôm đều xác nhận tình hình dịch 
bệnh, con giống vẫn chưa được kiểm soát. Do 
nguồn vốn của người dân hạn chế, nên vấn đề kỹ 
thuật chưa được đầu tư đúng mức, ý thức tự giác 
trong bảo vệ môi trường nuôi chung chưa cao, cộng 
với những thay đổi bất thường của thời tiết, dẫn đến 
tình trạng ô nhiễm môi trường và dịch bệnh ngày 
càng diễn biến phức tạp. Trong khi đó, sản phẩm thu 
hoạch thường được bán cho các đầu nậu nhỏ lẻ tại 
địa phương, nên thị trường tiêu thụ sản phẩm không 
ổn định. Do đó, hiện nay đời sống của các hộ nuôi 
trồng thủy sản địa phương vẫn chưa được cải thiện, 
mặc dù có chuyển đổi đối tượng (tôm chân trắng 
thay tôm sú) và hình thức nuôi (xen canh thay bán 
thâm canh). Kết quả điều tra cho thấy, 86,67% các 
hộ cho rằng lợi nhuận từ nuôi trồng Thủy sản hiện 
nay giảm hơn so với 5 năm trước, chỉ 13,33% cho 
rằng lợi nhuận từ hoạt động này không đổi so với 5 
năm trước. 
Bảng 1. Hoạt động nuôi trồng thủy sản khu vực đầm Thủy Triều trong 5 năm gần đây 
[Nguồn: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cam Lâm] 
Nội dung ĐVT 
Năm 
TT 2008 2009 2010 2011 2012* 
I Tổng diện tích ao đìa hiện có 1.191,089 
1. Tổng diện tích nuôi tôm Ha 403 432 411 390 370 
1.1 Tôm sú Ha 120 129 85 78 74 
1.1.1 Nuôi bán thâm canh Ha 110 115 70 60 60 
1.1.2. Nuôi xen canh ha 10 14 15 18 14 
1.2. Tôm chân trắng ha 283 303 326 312 296 
1.3. Động vật thân mềm ha 70 50 0 0 0 
1.4. Rong biển ha 55 55 50 50 40 
II Tổ chức sản xuất 
1. Số hộ NTTS hộ 570 570 570 470 470 
2 Số DN hoạt động NTTS DN 1 1 1 1 1 
3 Số lao động NTTS người 1195 1155 1155 995 995 
III Sản lượng NTTS tấn 3500 3500 3500 3500 3000 
1 Sản lượng tôm sú tấn 480 480 375 250 183 
2 Sản lượng tôm chân trắng tấn 1120 1128 1270 1380 1264 
3 Sản lượng nuôi biển tấn 1880 1857 1814 1826 1513 
4 Sản lượng rong biển tấn 1480 1400 1600 1500 1200 
5 Động vật thân mềm tấn 480 457 0 0 0 
Ghi chú: DN: doanh nghiệp; NTTS: Nuôi trồng thủy sản, *Tính đến tháng 6 năm 2012 
Hiện trạng cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy 
sản khu vực đầm Thủy Triều 
Hệ thống giao thông 
Huyện Cam Lâm có 587,31km đường giao 
thông, trong đó tuyến đường do trung ương và tỉnh 
quản lý là 81,2km đường nhựa; do huyện quản lý là 
62,45km gồm đường bê tông nhựa (35,85km), 
đường đá dăm, cấp phối (15,3km) và đường đất 
(11,3km). Đường giao thông do xã và thị trấn quản 
lý là 443,66km gồm đường bê tông nhựa (42,07km), 
đường đá dăm cấp phối (29,74km), đường bê tông 
ciment (29,67km) và đường đất (342,18km) [3]. 
Thực tế khảo sát cho thấy, hệ thống giao thông giữa 
các xã, phường khu vực đầm Thủy Triều đi lại khá 
thuận tiện do được bê tông hóa. Tuy nhiên, những 
Nguyễn Thị Thanh Thủy, Nguyễn Xuân Hòa  
 400
khu vực xa dân cư, nuôi trồng thủy sản tập trung, hệ 
thống giao thông chưa được đầu tư, chủ yếu là 
đường đất, do đó, việc đi lại còn khó khăn, nhất là 
vào mùa mưa bão. 
Hệ thống điện, nước sinh hoạt, thủy lợi phục 
vụ nuôi trồng thủy sản 
Theo số liệu Niên giám thống kê huyện Cam 
Lâm 2010, tổng giá trị công nghiệp về sản xuất và 
phân phối điện, nước trên địa bàn huyện Cam Lâm 
là 2.505 triệu đồng trong đó cá thể là 395 triệu đồng 
và doanh nghiệp tư nhân là 2.109 triệu đồng. Như 
vậy, hệ thống điện, nước sinh hoạt và thủy lợi phục 
vụ cho nuôi trồng thủy sản khu vực đầm đều do 
doanh nghiệp tư nhân và cá thể đầu tư [3]. Thực tế 
điều tra cho thấy, đa số các hộ nuôi tôm đều tự trang 
bị máy phát điện để bơm nước và chạy quạt nước 
sục khí trong ao. Những khu vực nuôi trồng thủy 
sản tập trung ở phía đỉnh đầm Thủy Triều thuộc xã 
Cam Hòa, phần lớn không có hệ thống nước sạch 
cho sinh hoạt hàng ngày, người nuôi phải dùng nước 
giếng đào hoặc nước mưa. 
Về hệ thống thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản, có 
tới 86,67% ao đìa không có hệ thống xử lý nước 
thải, tức nước thải từ các ao đìa nuôi tôm được xả 
trực tiếp ra đầm Thủy Triều. Có 53,33% các ao đìa 
nuôi không có hệ thống cấp, thoát nước riêng biệt. 
Kết quả điều tra về ảnh hưởng của các nguồn nước 
thải đối với các ao đìa nuôi cho thấy, 60% các hộ 
nuôi có các ao đìa gần nguồn nước thải công 
nghiệp; 43,33% ao đìa gần nguồn nước thải nông 
nghiệp và 30% ao đìa gần khu dân cư, trong đó có 
20% ao đìa vừa gần nước thải công nghiệp vừa gần 
khu dân cư. Đây có thể là những nguyên nhân dẫn 
đến dịch bệnh và thua lỗ trong nuôi trồng thủy sản 
tại khu vực đầm những năm qua [3]. Thực trạng này 
đòi hỏi các nhà quản lý và cơ quan chức năng địa 
phương cần sớm đưa ra một quy hoạch tổng thể và 
chi tiết, đặc biệt là cho nuôi trồng thủy sản khu vực 
đầm nhằm tránh những ảnh hưởng bất lợi lẫn nhau 
giữa các hoạt động kinh tế - xã hội tại khu vực đầm 
Thủy Triều. 
Về dự kiến kế hoạch nuôi trong tương lai, có 
46,67% hộ nuôi có ý định sẽ giảm diện tích trong 
những năm tới. Kết quả điều tra cho thấy tính không 
ổn định của nghề nuôi trồng thủy sản khu vực đầm. 
Khi khảo sát nhận thức của cộng đồng về vai trò của 
hệ sinh thái rừng ngập mặn đối với nghề cá, có tới 
70% hộ nuôi trồng thủy sản có nguyện vọng trồng 
rừng ngập mặn, 10% hộ không muốn tham gia trồng 
và 20% không có ý kiến gì về việc phục hồi rừng 
ngập mặn. Tuy có nhiều vùng nuôi bỏ hoang nhưng 
hầu hết các hộ này không muốn chuyển đổi hoàn 
toàn diện tích sang trồng rừng ngập mặn, họ chỉ có 
nhu cầu trồng cây ngập mặn trên những bờ đìa để 
bảo vệ các ao nuôi trồng thủy sản. Lý do người nuôi 
tôm không muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất 
vì lợi nhuận cao từ nghề nuôi tôm vẫn luôn hấp dẫn 
họ mặc dù họ biết có nhiều rủi ro. Trong khi đó lợi 
nhuận trước mắt từ việc trồng rừng chưa thuyết 
phục được người nuôi và hiệu quả của việc trồng 
rừng cần có thời gian kiểm chứng. Mặt khác, hiện 
nay địa phương vẫn chưa có một chính sách hỗ trợ 
hợp lý cho những hộ trồng rừng để có thể khuyến 
khich người dân tham gia hoạt động này. 
Hiện trạng khai thác thủy sản trong đầm Thủy 
Triều 
Hoạt động khai thác thủy sản của các xã khu vực 
đầm Thủy Triều 
Theo số liệu thống kê của địa phương, tính đến 
tháng 6/2012, vùng đầm Thuỷ Triều có 721 hộ làm 
nghề khai thác thủy sản, trong đó Cam Hải Đông có 
số hộ khai thác nhiều nhất (178 hộ), tương ứng với 
số lao động là 468 người. Sản lượng khai thác thủy 
sản của 6 xã, phường ven đầm trong 6 tháng đầu 
năm 2012 là 1.710 tấn, bao gồm một số loài cá, giáp 
xác và động vật thân mềm, trong đó Cam Hải Đông 
có sản lượng khai thác lớn nhất (1.100 tấn), Cam 
Hòa có sản lượng ít nhất (20 tấn). Số hộ thu mua hải 
sản quanh đầm là 25 hộ, nhiều nhất là ở Cam Đức 
(12 hộ). Số lượng tàu thuyền hoạt động đánh bắt 
thuỷ sản khu vực đầm Thủy Triều có khoảng 290 
thuyền thủ công và 611 thuyền máy. Dụng cụ khai 
thác chủ yếu của đầm Thủy Triều hiện nay là lưới 
các loại (408 chiếc) và lờ dây (260 chiếc) (bảng 2). 
Cùng với các loại ngư cụ này, một phương thức khai 
thác được dùng khá phổ biến là xẻng đào và lặn để 
bắt bằng tay. Ngoài ra, còn bắt gặp các loại ngư cụ 
khai thác khác như rớ, nò  nhưng số lượng không 
đáng kể. 
Lờ dây có nguồn gốc từ Trung Quốc, được nhập 
vào Việt Nam trong vài năm gần đây. Loại ngư cụ 
này dễ sử dụng, giá cả phù hợp với những hộ gia 
đình thu nhập thấp (khoảng 300 ngàn đồng/chiếc), 
hiệu quả đánh bắt cao, nên được người dân ưa 
chuộng. Tuy nhiên, do kích thước mắt lưới nhỏ (1,0 
- 1,6cm), chúng có thể tận thu được các cá thể ngay 
từ giai đoạn giống, nên lờ dây đang bị xem là loại 
phương tiện gây ra nguy cơ làm cạn kiệt nguồn lợi 
Hiện trạng nuôi trồng và khai thác thủy sản  
 401 
thủy sản và ảnh hưởng tới hệ sinh thái của đầm. Qua 
điều tra cho thấy, những năm trước đây, một đầu 
nậu địa phương có thể thu mua vài chục kg đến 
hàng tạ tôm, cá các loại/ngày. Hiện nay một người 
chỉ thu mua được 5-10 kg/ngày, chủ yếu tôm, cá tạp. 
Điều đó cho thấy, nguồn lợi đầm đang bị giảm sút 
nghiêm trọng. 
Từ năm 2008, UBND huyện Cam Lâm đã có 
chỉ thị 15 về việc “Tăng cường quản lý việc khai 
thác, đánh bắt thủy sản trong đầm Thủy Triều”, 
trong đó nêu rõ “Nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân 
sử dụng lưới cước có kích thước nhỏ hơn 1,8cm, lờ 
dây, bẫy rập, nghề đáy và các loại ngư cụ bị cấm để 
khai thác thủy sản trong đầm Thủy Triều làm cạn 
kiệt nguồn lợi thủy sản”. Tuy nhiên, chỉ thị 15 mới 
dừng lại ở mức vận động, tuyên truyền là chính. Các 
chế tài xử phạt cho vi phạm này hiện nay vẫn chưa 
có. Hơn nữa, lờ dây hiện là một nghề kiếm sống của 
đại bộ phận ngư dân sống xung quanh đầm Thủy 
Triều, để người dân chuyển sang nghề mới cần xây 
dựng một lộ trình phù hợp với điều kiện cụ thể của 
địa phương. 
Thực tế điều tra phỏng vấn cho thấy, đa số 
người dân đều biết địa phương đang có chủ trương 
khuyến cáo không dùng lờ dây khai thác thủy sản 
trong đầm. Do vậy, hầu hết các hộ khai thác thủy 
sản đều e ngại không muốn nhận mình sử dụng 
phương tiện này. Kết quả, chỉ có 16,67% hộ khai 
thác thủy sản xác nhận làm nghề lờ dây, 33,33% các 
hộ khai thác chỉ xác nhận làm nghề khai thác gần 
bờ, 50% xác nhận làm nghề lưới, mặc dù thực tế 
trong quá trình điều tra đều bắt gặp hầu hết các ghe 
thuyền hoạt động trên đầm có lờ dây mang theo. 
Bảng 2. Hoạt động khai thác thủy sản của các xã/phường khu vực đầm Thủy Triều 
[Nguồn: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cam Lâm & UBND phường Cam Nghĩa; Niên giám 
thông kê Cam Lâm 2010; Niên giám thống kê thành phố Cam Ranh, 2011] 
Nội dung ĐVT Tổng số* 
Xã/phường 
Cam Đức Cam Hòa Cam Hải Đông 
Cam Hải 
Tây 
Cam Thành 
Bắc Cam Nghĩa 
Số hộ KTTS hộ 721 156 24 178 88 122 153 
Số lao động KTTS người 1561 315 50 468 180 252 296 
Sản lượng KTTS 2012 tấn 1710 200 20 1.100 150 170 70 
Số hộ thu mua hải sản hộ 25 12 0 0 5 8 - 
Thuyền máy chiếc 611 156 24 178 88 122 43 
Thuyền thủ công chiếc 290 15 0 140 30 105 
Lưới các loại chiếc 408 93 7 106 49 88 65 
Nghề lờ dây chiếc 260 63 17 72 39 34 35 
Ghi chú: KTTS: khai thác thủy sản, *Tính đến tháng 6/2012. 
Về việc tham gia các tổ chức sản xuất hay hiệp 
hội nghề cá, cũng như hoạt động nuôi trồng thủy 
sản, 100% các hộ khai thác thủy sản được phỏng 
vấn đều không tham gia tổ chức sản xuất nào. Điều 
này cho thấy hoạt động khai thác thủy sản trong 
đầm vẫn mang tính chất cá thể, quy mô hộ gia đình 
và phát triển một cách tự phát. Nói cách khác, địa 
phương vẫn chưa có những quy định cụ thể về quản 
lý, chế tài xử phạt và chính sách hỗ trợ đối với các 
hoạt động khai thác thủy sản trong đầm. 
Khi khảo sát về vai trò của nghề cá đối với cuộc 
sống, chỉ có 13,33% cho rằng nghề khai thác thủy 
sản đảm bảo cho cuộc sống tương lai. Tuy vậy, 
53,33% hộ vẫn không có ý định chuyển nghề. 
Khoảng 33,33% số hộ muốn chuyển nghề khác để 
cuộc sống tốt đẹp hơn, 16,67% hộ muốn chuyển 
sang nghề đánh bắt xa bờ, trong khi đó 50% hộ 
không không có ý kiến gì. Thực tế này cho thấy, 
mặc dù cuộc sống khó khăn, kinh tế không ổn định 
nhưng ngư dân địa phương vẫn chưa tìm ra được 
một nghề thay thế phù hợp để có thể cải thiện cuộc 
sống tốt hơn hiện tại. Họ cần có những định hướng 
và chính sách hỗ trợ cụ thể của địa phương để người 
dân có thể tiếp tục với những nghề khai thác ven bờ 
hoặc chuyển sang nghề đánh bắt xa bờ, hoặc ngành 
nghề khác để đảm bảo cuộc sống trong tương lai. 
Hiện trạng khai thác nguồn lợi ở khu vực phân bố 
rừng ngập mặn tự nhiên và thảm cỏ biển trong 
đầm Thủy Triều 
Trên cơ sở các kết quả khảo sát trong những 
năm gần đây và đợt điều tra bổ sung vào tháng 
8/2012 cho thấy khu vực dọc theo đường bờ của 
xóm 4, thôn Thủy Triều, xã Cam Hải Đông là nơi 
Nguyễn Thị Thanh Thủy, Nguyễn Xuân Hòa  
 402
duy nhất còn rừng ngập mặn tự nhiên phân bố trong 
đầm Thủy Triều, với chiều dài toàn tuyến khu vực 
này khoảng 3.400m, chiều ngang khoảng 100m từ 
bờ ra [3] (hình 1). 
Hình 1. Khu vực có rừng ngập mặn tự nhiên và 
thảm cỏ biển phân bố tại đầm Thủy Triều 
Kết quả điều tra phỏng vấn người dân khai thác 
khu vực thôn Thủy Triều, xã Cam Hải Đông cho 
thấy, tổng sản lượng khai thác nguồn lợi thủy sản 
khu vực điều tra trung bình là 106,350 tấn/năm, đem 
lại giá trị thu nhập trung bình là 2,945 tỷ đồng/năm 
(bảng 3). Các đối tượng thủy sản được khai thác chủ 
yếu trong khu vực này gồm 2 loài cá, 3 loài giáp xác 
và 3 loài động vật thân mềm. Thời gian khai thác 
các đối tượng này gần như quanh năm. Cá móm và 
cá giò là hai loài được khai thác chủ yếu trong đầm. 
Ngoài ra một số loài cá khác cũng được khai thác 
nhưng số lượng không đáng kể. Nguồn lợi giáp xác 
được khai thác hiện nay chủ yếu là còng lông 
(69,57%) và cua héc (26,09%), tôm đất cũng được 
khai thác quanh năm nhưng số lượng không nhiều 
(4,35%) (bảng 3). 
Giá biển hiện nay vẫn là nguồn lợi chủ yếu 
(60%) được khai thác ở đầm Thủy Triều làm thức 
ăn cho tôm hùm nuôi tại địa phương. Giá 1kg giá 
biển hiện nay khoảng 20.000 đồng (bảng 3), tăng 2 -
3 lần so với 5 năm trước [3]. Tuy vậy hiện nay sản 
lượng khai thác động vật thân mềm giảm 5 - 10 lần 
so với 5 năm trước, trung bình một người chỉ khai 
thác được 3 kg/ngày. Móng tay không còn là nguồn 
lợi thân mềm chủ yếu của đầm như 5 năm trước [3]. 
Theo một số đầu nậu thu mua ở khu vực phía tây và 
đỉnh đầm Thủy Triều, khoảng 5 năm trước, một 
ngày một đầu nậu có thể thu mua được hàng tấn các 
loại hai mảnh vỏ (chủ yếu giá biển, móng tay và 
phi), nhưng hiện nay chỉ thu được 20 -50 kg/ngày, 
hiếm khi thu mua được 1 tạ/ngày, trong đó hầu như 
người dân không khai thác được móng tay [3].
Bảng 3. Sản lượng một số đối tượng khai thác chủ yếu ở vùng có rừng ngập mặn tự nhiên và thảm cỏ biển 
trong đầm Thủy Triều thuộc thôn Thủy Triều, xã Cam Hải Đông 
TT Đối tượng Mùa vụ khai thác chính 
Tổng sản lượng 
(tấn/năm) 
Tỷ lệ % 
Giá hiện tại 
1000đ/kg 
Tổng giá trị 
(triệu/năm) 
I Nguồn lợi cá 35.000 100 1.000 
1 Cá giò Siganus canaliculatus Quanh năm 15.000 42,86 40 600 
2 Cá móm Gerres filamentosus Quanh năm 20.000 57,14 20 400 
II Nguồn lợi giáp xác 28.750 100 775 
1 Còng lông Uca sp. Quanh năm 20.000 69,57 25 500 
2 Cua héc Charybdis anisodon Quanh năm 7.500 26,09 30 225 
3 Tôm đất Metapenaeus spp. Quanh năm 1.250 4,35 40 50 
III Nguồn lợi động vật thân mềm 37.500 100 660 
1 Giá biển Lingula sp. Quanh năm 22.500 60,00 20 450 
2 Phi Hiatula spp. Quanh năm 6.000 16,00 20 120 
3 Sò bum Sipunculus nudus Quanh năm 9.000 24,00 10 90 
IV Nguồn lợi khác 5.100 100 510 
1 Sá sùng Sipunculus nudus Quanh năm 3.000 58,82 100 300 
2 Giời Perinereis nuntia Quanh năm 2.100 41,18 100 210 
 Tổng số 106.350 2.945 
Hiện trạng nuôi trồng và khai thác thủy sản  
 403 
Bảng 4. Phương tiện và tần xuất khai thác thủy sản ở vùng rừng ngập mặn tự nhiên và thảm cỏ biển trong 
đầm Thủy Triều thuộc thôn Thủy Triều, xã Cam Hải Đông 
TT Phương tiện khai thác 
Đối tượng 
khai thác 
Số lượng người 
khai thác 
Số ngày khai 
thác/tháng 
Số tháng khai 
khác/năm 
Sản lượng khai tháctrung 
bình/ngày (kg) 
1 Ghe lưới Cá giò 50 20 3 5 
2 Ghe lưới Cá móm 50 20 10 2 
3 Lờ dây Tôm đất 10 25 5 1 
4 Lờ dây Cua héc 10 25 10 3 
5 Lặn, xẻng đào Giá biển 50 15 10 3 
6 Ghẹ lưới Còng lông 20 25 10 4 
7 Lặn, cào Sò bum 20 15 10 3 
8 Lặn, xẻng đào Phi cái 20 15 10 2 
9 Xẻng đào Sá sùng 20 15 10 1 
10 Xẻng đào Giời 20 15 10 0,7 
11 Lặn bắt Ghẹ giống 100 25 2 10 
Sá sùng và giời là 2 loài có giá trị kinh tế, tuy 
sản lượng khai thác không nhiều nhưng do giá thị 
trường cao hơn so với các loài cá, tôm và giá biển, 
nên tổng giá trị thu được (510 triệu/năm) cũng đáng 
kể so với nguồn lợi cá (1.000 triệu/năm), giáp xác 
(775 triệu/năm) và động vật thân mềm được khai 
thác (660 triệu/năm). Kết quả điều tra và phỏng vấn 
cộng đồng cho thấy vùng nước ven bờ thôn Thủy 
Triều (xã Cam Hải Đông) cũng là nơi tập trung con 
giống của nhiều loài thủy sản có giá trị. Ngoài sự 
phân bố nguồn giống của các loài tôm, cá và động 
vật thân mềm trên, điều đáng chú ý là nguồn ghẹ 
giống, mặc dù chỉ được khai thác 2 tháng/năm 
nhưng vào mùa ghẹ sinh sản có hàng trăm người 
khai thác bằng phương thức lặn bắt, ước tính sản 
lượng trung bình lên tới 10kg ghẹ giống/ngày [3]. 
Điều đó lý giải tại sao nguồn lợi ghẹ ngày càng cạn 
kiệt và hiện nay không còn là nguồn lợi chủ yếu của 
đầm Thủy Triều (bảng 3, 4). 
Ngoài các đối tượng tôm, cá và động vật thân 
mềm, rong câu tự nhiên (Gracilaria sp.) cũng là một 
nguồn lợi đáng kể của đầm. Rong câu được khai 
thác bằng tay, nên khi mùa vụ đến, những người dân 
không làm nghề khai thác tôm, cá cũng có thể tham 
gia hoạt động này. Tuy nhiên, nguồn lợi rong câu 
thường biến động theo thời gian (đặc biệt theo mùa) 
và không gian. Năm 2009, rong câu chỉ tập trung ở 
khu vực đầm thuộc xã Cam Hải Tây, với sản lượng 
khai thác 87,5 tấn rong câu khô/năm [3]. Năm 2012, 
nguồn lợi rong câu phân bố rộng hơn, tập trung chủ 
yếu ở các vùng thuộc xã Cam Hòa, ngoài ra Cam 
Hải Đông và Cam Hải Tây cũng có rong câu tự 
nhiên phân bố. Thời gian thu hoạch từ tháng 11 đến 
tháng 5 âm lịch. Hiện nay, một người có thể thu 
được 50kg rong khô/ngày, giá một kg rong câu khô 
khoảng 4.000đ/kg. Đây là một nguồn thu nhập đáng 
kể của ngư dân khu vực đầm (bảng 5). 
Bảng 5. Sản lượng rong câu (Gracilaria sp.) khai thác ở đầm Thủy Triều khu vực xã Cam Hòa năm 2012 
Số người khai 
thác/ngày 
Số ngày khai 
thác/tháng 
Số tháng khai 
thác/năm 
Sản lượng khai thác 
trung bình/người/ngày 
(kg khô) 
Tổng sản 
lượng 
Giá hiện tại 
1.000đ 
Tổng giá trị 
triệu 
đồng/năm 
25 20 6 50 150 tấn/năm 4 600 
Trên cơ sở khảo sát nhiều năm của nhóm nghiên 
cứu, kết quả cho thấy vùng nước thuộc xã Cam Hải 
Đông là khu vực có tầm ảnh hưởng rộng đến các 
khu vực khác trong đầm Thủy Triều do nguồn lợi và 
nguồn giống thủy sản ở đây có tính đa dạng sinh học 
cao hơn so với những vùng khác trong đầm [3]. 
Việc khai thác quá mức bất chấp kích thước lớn nhỏ 
bằng lờ dây và lặn bắt bằng tay là một trong những 
nguyên nhân làm cạn kiệt nguồn lợi khu vực đầm. 
Đồng thời, việc sử dụng xẻng đào bới nền đáy đã 
làm suy giảm nghiêm trọng hệ sinh thái cỏ biển khu 
vực đầm. Kết quả khảo sát hệ sinh thái cỏ biển khu 
vực đầm cho thấy một số vị trí trước kia có thảm cỏ 
biển phân bố nhiều ở dọc bờ đầm thuộc Cam Hải 
Đông, hiện nay đã bị suy thoái hoặc mất hoàn toàn 
[3]. Do vậy các hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ 
biển ở đây cần được quản lý và bảo tồn với những 
quy chế cụ thể và khả thi. 
Đánh giá về sự tăng giảm sản lượng khai thác 
thủy sản, 100% các hộ được phỏng vấn đều xác 
nhận sản lượng đánh bắt giảm so với 5 năm trước. 
Nguyễn Thị Thanh Thủy, Nguyễn Xuân Hòa  
 404
Đánh giá nguyên nhân chủ yếu của sự giảm sản 
lượng khai thác, 83,33% số hộ được phỏng vấn cho 
là do sử dụng phương tiện khai thác hủy diệt; 80% 
hộ cho rằng nguồn lợi trong đầm bị giảm; có khoảng 
56,67% hộ cho rằng nguồn lợi giảm là do môi 
trường bị ô nhiễm. Ngoài ra, một số nguyên nhân 
khác cũng được đưa ra như do quá nhiều thuyền 
khai thác (43,33%); thiếu vốn (30%); hệ sinh thái 
rừng ngập mặn và cỏ biển bị suy thoái (10%) và do 
cạnh tranh giữa các nghề (3,3%). 
Về quan điểm bảo vệ nguồn lợi nhằm tăng sản 
lượng khai thác thủy sản trong đầm, có đến 86,67% 
cho rằng cần cấm đánh bắt bằng các phương tiện 
hủy diệt; cần phải kiểm soát chất thải từ các nhà 
máy (76,67%); cần phục hồi và quản lý rừng ngập 
mặn, cỏ biển (40%) và đầu tư cho phương tiện khai 
thác khác (36,67%). Điều tra về khó khăn lớn nhất 
trong hoạt động khai thác hiện nay của đầm, đa số 
các hộ được phỏng vấn cho rằng do nguồn lợi đã bị 
cạn kiệt (83,33%) và thiếu vốn nên không mạnh dạn 
đầu tư (83,33%). Ngoài ra, một số ít hộ cho rằng 
khó khăn của họ là do dụng cụ khai thác còn thô sơ 
(10%) và bị cấm khai thác bằng những phương tiện 
hủy diệt (6,67%). 
KẾT LUẬN 
Hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản 
trong đầm Thủy Triều còn mang tính chất cá thể, tự 
phát, 100% các hộ nuôi trồng và khai thác thủy sản 
không tham gia tổ chức sản xuất nào. Tổng số ao đìa 
bỏ hoang trong năm 2012 là 68,94%. 
Hiện chưa có một quy hoạch cụ thể cho nuôi 
trồng thủy sản khu vực đầm: có 60% ao đìa gần 
nguồn nước thải công nghiệp; 43,33% ao đìa gần 
nguồn nước thải nông nghiệp và 30% ao đìa gần 
nguồn thải sinh hoạt, trong đó có 20% ao đìa vừa gần 
nước thải công nghiệp vừa gần nước thải sinh hoạt. 
Cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thủy sản chưa được 
đầu tư bằng ngân sách địa phương: hệ thống điện, 
nước sinh hoạt đều do cá nhân tự đầu tư; hệ thống 
giao thông tại những vùng nuôi tập trung chưa được 
mở rộng và bê tông hóa; 86,67% ao nuôi không có hệ 
thống xử lý nước thải; 53,33% các ao đìa nuôi không 
có hệ thống cấp, thoát nước riêng biệt. 
Nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản khu vực 
đầm phát triển không ổn định: 46,67% hộ nuôi có ý 
định sẽ giảm diện tích trong những năm tới; 46,67% 
hộ khai thác thủy sản có ý định chuyển nghề; 
86,67% các hộ cho rằng lợi nhuận giảm hơn so với 
5 năm trước; nguồn lợi thủy sản trong đầm giảm sút 
đáng kể so với 5-10 năm trước. 
Hiện chưa có những quy định cụ thể về quản lý, 
chế tài xử phạt vi phạm cũng như chính sách hỗ trợ 
của địa phương trong các hoạt động nuôi trồng và 
khai thác thủy sản khu vực đầm Thủy Triều. 
Lời cảm ơn: Bài báo là một phần kết quả nghiên 
cứu của đề tài “Triển khai các mô hình phục hồi và 
quản lý rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở khu vực 
đầm Thủy Triều” do kinh phí của tỉnh Khánh Hòa 
hỗ trợ. Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn Sở Khoa 
học và Công nghệ Khánh Hòa, UBND huyện Cam 
Lâm, UBND các xã, phường và cộng đồng địa 
phương khu vực đầm Thủy Triều đã giúp đỡ và tạo 
mọi điều kiện thuận lợi để Viện Hải dương học hoàn 
thành được các nội dung của đề tài. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Niên giám thống kê Cam Lâm 2010. Chi cục 
thống kê huyện Cam Lâm. Tháng 6/2011. 113 tr. 
2. Niên giám thống kê thành phố Cam Ranh 2011. 
Chi Cục Thống kê thành phố Cam Ranh. Tháng 
9/2012. 108 tr. 
3. Nguyễn Xuân Hòa, Nguyễn Thị Thanh Thủy, 
Nguyễn Nhật Như Thủy, 2013. Hiện trạng hệ sinh 
thái rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở khu vực 
đầm Thủy Triều (tỉnh Khánh Hòa). Báo cáo khoa 
học về sinh thái và tài nguyên sinh vật. Hội nghị 
khoa học toàn quốc lần thứ năm. Hà Nội 
18/10/2013. Nxb. Nông nghiệp. Tr. 488-496. 
Hiện trạng nuôi trồng và khai thác thủy sản  
 405 
CURRENT AQUACULTURE AND FISHERY ACTIVITIES 
AT THUY TRIEU LAGOON, CAM LAM, KHANH HOA 
PROVINCE 
Nguyen Thi Thanh Thuy, Nguyen Xuan Hoa, Nguyen Nhat Nhu Thuy 
Institute of Oceanography-VAST 
ABSTRACT: The surveyed results showed that the aquaculture and inshore fishery activities at Thuy 
Trieu lagoon have developed privately and spontaneously; the total area of unused ponds was up to 
68.94%; 100% of shrimp farmers and fishermen have not participated any fishery associations. So far, there 
has no a specific plan for aquaculture at the lagoon; 60% of farming ponds is nearby industrial wastewater; 
43.33% of farming ponds is nearby agricultural wastewater and 30% of farming ponds is nearby residential 
wastewater, in which 20% of the farming ponds is nearby both industrial and residential wastewater. The 
infrastructure for aquaculture has not been invested by the local budgets:the electrical and freshwater systems 
have been only invested by the shrimp farmers; pathways at the concentrated aquaculture areas have not been 
extended and cemented; 86.67% of farming ponds without wastewater treatment system; 53.33% of farming 
ponds without inlet and outlet systems separately. The aquaculture and inshore fishery have not sustainably 
developed: 46.67% of shrimp farmers have tended to reduce aquaculture areas in the coming years; 46.67% of 
the fishermen have tended to change their occupation; 86.67% of shrimp farmers asserted that the profit 
decreases significantly compared to that of 5 years ago. The marine recourses in the lagoon decrease 
significantly compared to those of 5 years ago. There have no local specific regulations in management, 
sanctions as well as supporting policies for the aquaculture and inshore fishery at Thuy Trieu lagoon. 
Keywords: Aquaculture, fishery, Thuy Trieu lagoon. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 hien_trang_nuoi_trong_va_khai_thac_thuy_san_tai_dam_thuy_tri.pdf hien_trang_nuoi_trong_va_khai_thac_thuy_san_tai_dam_thuy_tri.pdf