KẾT LUẬN
4.1. Kết luận
- Trước những thách thức của biến đổi khí hậu
(xâm nhập mặn, sạt lở.) và hội nhập kinh tế quốc
tế, ngành nông nghiệp Bến Tre đã có những bước
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng
tích cực. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng đột
biến, diện tích dừa và cây ăn trái các loại cũng có xu
hướng gia tăng trong giai đoạn 2013-2017, thay thế
cho gần 1.500 ha lúa trồng trên đất bị tác động của
hạn, mặn và kém hiệu quả.
- Biến đổi khí hậu đang gây ra những nhiều tác
động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp của Bến Tre,
trong đó hạn, mặn và sạt lở là những tác động điển
hình. Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở rộng cánh
cửa cho các mặt hàng nông sản của Bến Tre vươn
xa hơn, giúp Bến Tre tăng quy mô sản xuất và giá trị
nông sản nhưng cũng đang tạo ra những áp lực và
thách thức lớn, gia tăng mức độ cạnh tranh của các
mặt hàng nông sản chính như chôm chôm, thuỷ sản.
- Để thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu,
nhiều mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi
đã xuất hiện mang lại thu nhập và hiệu quả kinh tế
cao cho nông dân như mô hình phát triển đồng cỏ
để chăn nuôi bò sữa, bò thịt; mô hình chuyển đổi đất
lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả; mô hình
lúa - tôm; mô hình nuôi tôm, cua bán thâm canh và
thâm canh v.v.
4.2. Đề nghị
Để phát triển bền vững các mô hình này, tỉnh cần
có những chính sách, giải pháp thay đổi căn bản về
quan hệ sản xuất, đẩy mạnh liên kết sản xuất giữa
doanh nghiệp với nông dân và giữa các hộ nông
dân, tạo vùng sản xuất hàng hoá tập trung, được cấp
chứng nhận chất lượng sản phẩm và sản xuất có hợp
đồng tiêu thụ sản phẩm.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng phát triển các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao giá trị và thích ứng với biến đổi khí hậu ở Bến Tre, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
112
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI
CƠ CẤU CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI THEO HƯỚNG NÂNG CAO GIÁ TRỊ
VÀ THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở BẾN TRE
Vũ Văn Đoàn1 và Nguyễn Hoàng Anh2
TÓM TẮT
Bến Tre là một trong 5 tỉnh của Đồng bằng sông Cửu Long chịu tác động lớn nhất biến đổi khí hậu. Trong những
năm qua, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Bến Tre mặc dù đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng cũng phải đối
mặt nhiều thách thức do tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu (xâm nhập mặn, hạn hán, sạt lở) và hội nhập kinh
tế quốc tế. Để thích ứng với những khó khăn, thách thức đó, nhiều mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi
đã được tỉnh Bến Tre triển khai thực hiện có hiệu quả. Trong giai đoạn 2013 - 2018, diện tích nuôi trồng thuỷ sản đã
tăng đột biến với nhiều mô hình chăn nuôi hiệu quả cao như nuôi tôm, cua thâm canh và bán thâm canh, nuôi bò
thịt và bò sữa, phát triển cây ăn quả lợi thế (chôm chôm, bưởi da xanh). Hàng nghìn ha đất trồng lúa kém hiệu quả,
thường xuyên bị tác động của hạn, mặn đã được chuyển đổi sang các cây trồng, vật nuôi khác. Hiện Bến Tre đang tập
trung phát triển 8 chuỗi sản xuất được xác định có lợi thế và phù hợp để thích ứng với biến đổi khí hậu là dừa, bưởi
da xanh, chôm chôm, nhãn, hoa kiểng, bò, heo và tôm biển.
Từ khóa: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; nâng cao giá trị, thích ứng biến đổi khí hậu, tỉnh Bến Tre
1 Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hệ thống Nông nghiệp; 2 Văn phòng Tỉnh ủy Bến Tre
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL), Bến Tre có nhiều tiềm năng sản xuất nông
nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp).
Tuy nhiên, Bến Tre cũng được đánh giá là một trong
năm tỉnh ĐBSCL chịu tác động lớn của biến đổi khí
hậu do đây là một hòn đảo bao quanh bởi sông và
biển, với hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt
và toàn bộ tỉnh chỉ cao hơn xấp xỉ 1,5 m so với mực
nước biển (Oxfam, 2008). Trong thời gian qua, xâm
nhập mặn trở thành mối nguy lớn cho sản xuất lúa,
cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản... của Bến Tre.
Mặc dù tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đã
hiện hữu rõ rệt trong những năm qua, thực tiễn đã
chứng minh nếu có giải pháp chuyển đổi sản xuất
phù hợp, nông dân có thể giảm thiểu được tác động
của biến đổi khí hậu thậm chí còn có thể chuyển
tác động tiêu cực thành tác động tích cực. Nhóm
nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển
Hệ thống Nông nghiệp thuộc Viện Cây Lương thực
và Cây thực phẩm - Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam đã phối hợp với một số đồng nghiệp ở Bến
Tre thực hiện nghiên cứu này nhằm tìm hiểu những
thành công, hạn chế, bài học kinh nghiệm và giải
pháp thúc đẩy phát triển các mô hình chuyển đổi cây
trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao giá trị và thích
ứng với biến đổi khí hậu tại Bến Tre.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là sự chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi trong bối cảnh biến đổi khí
hậu, các mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả
kinh tế và thích ứng với biến đổi khí hậu trên địa bàn
tỉnh Bến Tre.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu có sử dụng một số phương pháp thu
thập tài liệu, thông tin sau đây:
- Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp: Thu thập
các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê, văn bản chính
sách, bài viết, báo cáo chuyên đề, báo cáo nghiên cứu
có liên quan về tình hình sản xuất nông nghiệp, tác
động của biến đổi khí hậu, chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp, nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp trên
địa bàn tỉnh.
- Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp: Thông
qua phỏng vấn trực tiếp các cán bộ quản lý, cán bộ
chuyên môn thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn; Sở Tài nguyên và Môi trường; Sở Công
thương tỉnh Bến Tre. Những thông tin chính được
thu thập là quy mô sản xuất, năng suất, sản lượng,
giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp nói chung
và một số sản phẩm chủ lực của tỉnh Bến Tre nói
riêng; biến đổi khí hậu và các ảnh hưởng đến sản
xuất nông nghiệp của tỉnh Bến Tre; hệ thống sản
xuất nông nghiệp và sự thay đổi để thích ứng với
biến đổi khí hậu tại Bến Tre trong những năm gần
đây; kết quả và hiệu quả chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp của tỉnh Bến Tre.
- Phương pháp tổng hợp thông tin: Sau khi thu
thập, thông tin được xử lý và tổng hợp bằng nhiều
công cụ như: bảng biểu, sơ đồ, đồ thị. Từ đó, đánh
giá được những thay đổi của đối tượng nghiên cứu
theo không gian và thời gian.
113
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
- Phương pháp phân tích thông tin: Dựa vào ý
kiến đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước địa
phương và các chuyên gia. Thông tin được phân tổ,
phân tích thống kê mô tả, tiến hành so sánh trước
và sau kỳ đánh giá nhằm chỉ ra sự thay đổi về ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu, kết quả chuyển dịch cơ
cấu cây trồng, vật nuôi để thích ứng biến đổi khí hậu.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng sản xuất nông nghiệp của tỉnh
Bến Tre
Qua hơn 5 năm triển khai thực hiện Đề án “Tái
cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá
trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Bến Tre giai
đoạn 2013 - 2015 và hướng đến năm 2020”, sản xuất
nông nghiệp, nông thôn Bến Tre đã có sự đổi thay
rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng, giá trị sản suất trong giai
đoạn 2013 - 2018 đạt bình quân 4,59%/năm; cơ cấu
cây trồng, vật nuôi được chuyển dịch theo hướng
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn
bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Diện tích nuôi trồng thủy sản, cây trồng có giá trị
kinh tế cao đang tăng khá mạnh. Năm 2017, diện
tích nuôi trồng thủy sản đạt 46.500 ha, sản lượng
đạt 260.105 tấn so với năm 2013 là 2.419 ha và
21.464 tấn; diện tích lúa là 40.775 ha đạt sản lượng
167.660 tấn, giảm 1.462 ha và 163.829 tấn so với
năm 2013; diện tích dừa là 70.621 ha, sản lượng
573,4 triệu trái, tăng 7.621 ha và 80 triệu trái/năm
so với năm 2013; tổng đàn heo khoảng 610.000 con,
tăng 168.947 con so với năm 2013; tổng đàn bò năm
2017 là 220.000 con, tăng 67.632 con so với năm
2013; tổng đàn gia cầm năm 2017 là 6.200 nghìn
con, tăng 1.054 nghìn con so với năm 2013 (Ủy ban
nhân dân tỉnh Bến Tre, 2018).
Hiện nay, Bến Tre đang ưu tiên phát triển 08
chuỗi sản phẩm chủ lực: dừa, bưởi da xanh, chôm
chôm, nhãn, hoa kiểng, bò, heo và tôm biển. Tuy
nhiên, ngành nông nghiệp hiện đang gặp một số hạn
chế như:
- Việc xây dựng các mô hình liên kết sản xuất tiêu
thụ chưa hiệu quả.
- Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có chuyển
biến nhưng chưa mạnh, hiệu quả mang lại từ sản
xuất nông nghiệp chưa thật sự ổn định; phần lớn
sản xuất còn dựa trên quy mô nhỏ lẻ, chưa tạo được
số lượng hàng hóa lớn; vẫn còn xảy ra tình trạng ô
nhiễm môi trường trong chăn nuôi.
3.2. Những thách thức đối với nông nghiệp Bến Tre
3.2.1. Xâm nhập mặn
Bến Tre có hệ thống sông rạch trên 6.000 km,
tiếp giáp với biển Đông trên 65 km (từ Ba Tri, Bình
Đại đến Thạnh Phú). Vùng nước lợ chiếm 27% và
vùng nước mặn chiếm 36% diện tích toàn tỉnh. Ngay
trong tháng 3 năm 2020, tình trạng xâm nhập mặn
ở nồng độ 4‰ trên sông Cửa Đại đã bao trùm toàn
huyện Châu Thành; trên sông Hàm Luông vào sâu
cách cửa sông 88 km; trên sông Cửa Chiên vào sâu
cách 54 km (Sở Tài nguyên và Môi trường Bến Tre,
2020). Hiện tại, tình trạng xâm nhập mặn tại Bến
Tre đã vượt mức đỉnh của năm 2016.
Hình 1. Chiều sâu xâm nhập mặn (km) tính từ các cửa sông chính
của Bến Tre (số liệu thu thập vào tháng 3 các năm)
Hạn mặn thường xuyên gây thiệt hại lúa Đông
Xuân và vườn cây ăn quả tại nhiều địa phương trong
tỉnh. Theo thống kê, có 2.615 ha lúa gieo sạ trong
tổng số 20.632 ha vụ Đông Xuân bị ảnh hưởng ở thời
kỳ trổ bông, năng suất giảm từ 30 - 60% (Sở Nông
nghiệp và PTNT Bến Tre, 2011). Chỉ tính riêng
huyện Chợ Lách, xâm nhập mặn đã đe dọa trực tiếp
đến 8.575 ha cây ăn quả và 1.300 ha cây giống, hoa
114
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
kiểng. Năm 2020, hai huyện Giồng Trôm và Ba Tri
có nguy cơ mất trắng khoảng 2.000 ha (Tổng cục
Khí tượng thủy văn, 2020). Xâm nhập mặn cũng dẫn
đến thiếu nước ngọt, ảnh hưởng đến đời sống của
1,4 triệu dân.
3.2.2. Sạt lở
Thời gian qua, sạt lở bờ sông, bờ biển tại Bến Tre
diễn biến phức tạp và ngày càng nghiêm trọng làm
mất đất sản xuất, mất rừng phòng hộ ảnh hưởng
đến khu vực ven biển. Bến Tre có 112 điểm sạt lở
bờ sông, bờ biển với tổng chiều dài 138 km. Trong
đó, sạt lở bờ biển xảy ra tại 8 điểm với tổng chiều
dài 19,4 km, lấn sâu vào đất liền trung bình hàng
10 - 15 m/năm, làm mất trên 120 ha đất và 54 ha
rừng phòng hộ ven biển (Báo Tài nguyên và Môi
trường, 2019).
Ngoài ra, những năm gần đây hiện tượng nước
biển dâng trong mùa mưa bão đã gây ra những thiệt
hại nghiêm trọng, gây ngập úng đất nông nghiệp
(cây ăn quả, hoa màu, lúa, nuôi trồng thủy sản...)
trên diện rộng. Hiện tượng nước biển dâng do triều
cường gây ra thường xuất hiện từ khoảng giữa mùa
mưa đến cuối năm. Với diễn tiến của biến đổi khí
hậu, Bến Tre nằm giữa lưu vực và cuối dòng chảy
sông Mekong sẽ là tỉnh mất nhiều đất khi nước biển
dâng kết hợp với triều cường, mưa lũ. Các lĩnh vực
dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu là nuôi
trồng thuỷ sản (Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú); lâm
nghiệp (huyện Bình Đại, Ba Tri); trồng trọt (lúa ở
Ba Tri, một phần Thạnh Phú và Giồng Trôm), cây
ăn quả và các cây trồng khác (Châu Thành, Mỏ Cày,
một phần huyện Giồng Trôm).
3.2.3. Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lợi nhiều cơ hội
nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức cho nông nghiệp
Việt Nam nói chung và Bến Tre nói riêng. Sự tăng
trưởng nóng các sản phẩm nông nghiệp trong nước
đã tạo ra sức ép rất lớn trong tái cơ cấu nông nghiệp
của Bến Tre. Trong số 8 chuỗi sản phẩm chủ lực của
Bến Tre (dừa, bưởi da xanh, chôm chôm, nhãn, hoa
kiểng, bò, lợn và tôm biển), nhiều sản phẩm gặp
cạnh tranh gay gắt ở thị trường trong nước cũng như
thị trường quốc tế.
Dừa và các sản phẩm từ dừa (nước dừa, nước cốt
dừa, dầu dừa nguyên chất) đóng vai trò quan trọng
trong cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu của tỉnh Bến Tre
và tỉnh cũng đã tiếp cận được nhiều thị trường lớn,
yêu cầu chất lượng khắt khe như Mỹ, Châu Âu, Nhật
Bản, Australia... cho một số mặt hàng truyền thống.
Bảng 1. Tình hình xuất khẩu các sản phẩm dừa của tỉnh Bến Tre
Tiêu chí ĐVT Năm 2011 Năm 2015 Năm 2019
Số lượng các nước nhập khẩu dừa Bến Tre nước 70 105 90
Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm dừa triệu đô la 159 160 215
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm dừa % 37 25 22
Tuy nhiên, trong thời gian tới, thị trường dừa
trên thế giới sẽ tuân thủ một số điều khoản trong
các hiệp định đã ký kết trước đây, nay đã bắt đầu có
hiệu lực (WTO, AFTA). Các vấn đề liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật là những rào
cản cho doanh nghiệp xuất khẩu. Mặt khác, doanh
nghiệp trong tỉnh đang phải đối mặt với sự cạnh
tranh gay gắt của các đối thủ mạnh như Indonesia,
Philippines, Thái Lan
Chôm chôm của Bến Tre chiếm diện tích và sản
lượng đứng thứ 2 Việt Nam (5.691 ha, sản lượng
107.314 tấn/năm), trong đó trên 70% sản lượng tiêu
thụ tại thị trường nội địa (đã dư thừa), 30% xuất
khẩu sang Trung Quốc (Sở Công thương tỉnh Bến
Tre, 2017). Ở thị trường này, chôm chôm Bến Tre
phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm chôm chôm
Thái Lan (đã có thương hiệu, được sản xuất theo các
tiêu chuẩn an toàn...). Vì vậy, việc tìm kiếm và đa
dạng thị trường xuất khẩu, đồng thời tổ chức sản
xuất, liên kết và logistic đáp ứng đúng yêu cầu của
các nhà nhập khẩu là rất cần thiết để phát triển bền
vững chuỗi giá trị chôm chôm nói chung và các sản
phẩm chủ lực khác nói riêng của Bến Tre trong bối
cảnh hội nhập.
Chuyển đổi mô hình canh tác lúa sang nuôi trồng
thủy sản của Bến Tre trước biến đổi khí hậu cũng
đang gặp thách thức. Các đối tượng nuôi chủ yếu
là tôm sú, tôm thẻ chân trắng, nghêu, cá tra và tôm
càng xanh... Tuy nhiên, phát triển tôm công nghiệp
hầu như chỉ tập trung ở những doanh nghiệp lớn
và gây ô nhiễm môi trường cho các đối tượng nuôi
phù hợp với đa số người dân như cua biển, nghêu,
sò huyết.
Bến Tre đã định hình vùng sản xuất tập trung
các sản phẩm chủ lực. Tuy nhiên, rủi ro thị trường
rất lớn do phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung
115
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Quốc, ít coi trọng thị trường ổn định nội địa với
sức mua có xu hướng tăng; sản phẩm đơn điệu và ít
được chế biến.
3.3. Hiệu quả của một số mô hình chuyển đổi cây
trồng, vật nuôi tại Bến Tre
Trước những thách thức biến đổi khí hậu và kinh
tế hội nhập, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp ở
Bến Tre cho hiệu quả kinh tế - xã hội cao đã và đang
được thử nghiệm.
3.3.1. Mô hình chuyển đổi đất lúa
Hiện nay, diện tích lúa của Bến Tre đã giảm
10.000 ha để chuyển sang nuôi thủy sản ở vùng mặn
và trồng các loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao
hơn như dừa, cây ăn trái, rau màu, cỏ phục vụ chăn
nuôi và đất phi nông nghiệp.
a) Chuyển đổi đất lúa sang trồng các loại cây khác
Các loại cây trồng được chuyển đổi từ đất lúa
mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn như dừa, bưởi da
xanh, chanh, hoa màu... Áp dụng mô hình này, diện
tích dừa từ 68.000 ha tăng lên 72.000 ha, diện tích cây
ăn quả tăng từ 27.000 ha lên hơn 28.000 ha (chôm
chôm, nhãn, sầu riêng, măng cụt...). Mặt khác, một
số loại cây ăn trái như dừa vừa có khả năng chịu mặn
cao, dễ chăm sóc và có thể trồng xen chanh, hoa màu
để có thêm thu nhập khi dừa còn nhỏ. Dừa Bến tre
đã bước đầu được phát triển theo mô hình canh tác
hữu cơ, các sản phẩm chế biến từ dừa đã được cấp
chứng nhận hữu cơ. Tổng diện tích dừa đang chuyển
đổi sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ và được chứng
nhận hữu cơ là trên 4.137 ha với số hộ và đại diện
nhóm hộ sản xuất là 2.447 hộ, trong đó diện tích đạt
chứng nhận là trên 2000 ha. Dự kiến đến năm 2020,
tổng diện tích dừa được chứng nhận hữu cơ tiếp tục
tăng lên và đạt 10.000 ha (Công ty Cổ phẩn Xuất
nhập khẩu Bến Tre, 2018).
b) Chuyển đổi diện tích lúa sang nuôi tôm công
nghệ cao
Một số mô hình chuyển đổi đất lúa sang nuôi tôm
hai giai đoạn mang lại hiệu quả cao với năng suất từ
150 - 180 tấn/ha/năm (năng suất 4 tấn/ 1.000 m2, lợi
nhuận 200 triệu đồng/vụ).
Tuy nhiên, đây là mô hình đòi hỏi đầu tư lớn,
công nghệ cao và đang gây ô nhiễm môi trường cho
các đối tượng thủy sản khác và không thích hợp với
nông dân nghèo.
c) Chuyển đổi lúa sang sản xuất lúa - tôm
Tuy lợi nhuận không cao so với nuôi tôm công
nghiệp, mô hình canh tác lúa - tôm tại vùng nước
mặn khá phù hợp với nông dân Bến Tre vì đầu tư
thấp, không gây tác hại tới môi trường. Bên cạnh
đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ, khi diện tích lúa
giảm, người dân còn tận dụng đất ven bờ để trồng
cỏ nuôi bò. Đầu ra của sản phẩm ổn định, bình quân
cho thu nhập trên 50 triệu đồng/vụ/ha. Mô hình
trồng lúa trên đất nuôi tôm là biện pháp canh tác
cải tạo môi trường. Lúa trồng sau vụ tôm, nhất là
các giống lúa kháng phèn, mặn cao như OM 9915,
OM 9916, OM 9921, OM 10636, OM 9577-1,
OM 9584-4, MTL 580 và MTL 689 vừa tăng độ phì
cho đất, tạo nguồn thức ăn tự nhiên phong phú cho
tôm; lúa có năng suất, chất lượng cao, an toàn do ít
sử dụng thuốc trừ sâu trong quá trình gieo trồng.
d) Chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang trồng cỏ
nuôi bò
Trước tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra
thường xuyên, nhiều địa phương ven biển tỉnh Bến
Tre đã chuyển diện tích lúa sang trồng các loại cây
khác. Năm 2016, diện tích lúa được gieo trồng tại
Bến Tre đạt trên 58.000 ha, giảm 7,5% so với năm
2015. Trong đó, một phần diện tích được chuyển
sang trồng cỏ làm thức ăn chăn nuôi bò. Vì vậy tổng
diện tích trồng cỏ đạt 3.035 ha, tăng 15,8% so với
năm 2015 (Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, 2018).
Mô hình trồng cỏ chăn nuôi bò sữa bắt đầu từ
huyện Ba Tri, sau đó nhân rộng sang huyện Giồng
Trôm. Đến nay, đã có 1.310 hộ dân tham gia, tổng
đàn đạt 2.432 con bò nền, 1.796 con bò sữa, cho thu
nhập bình quân 52,2 triệu đồng/con/năm. Hiện tại,
nuôi bò sữa đạt hiệu quả kinh tế cao và ổn định hơn
bò thịt (Ban quản lý Dự án phát triển đàn bò sữa Bến
Tre, 2019).
Việc chuyển đổi diện tích lúa bị ảnh hưởng của
mặn hoặc kém hiệu quả sang trồng cỏ nuôi bò thịt
và bò sữa tại Ba Tri còn tạo ra thêm nguồn thu nhập
mới từ phân bò. Bình quân mỗi hộ nuôi 5 con bò mỗi
năm thu nhập từ 10 - 15 triệu đồng từ tiền bán phân.
3.3.2. Nuôi trồng thủy sản trên các vùng đất ngập mặn
Ngoài việc chuyển đổi đất lúa, những vùng
đất bị xâm nhập mặn rất thích hợp cho phát triển
nuôi trồng thủy sản. Sự biến động về mức độ mặn
(4‰ vào sâu 50 km, 1‰ vào sâu 70 km, các đường
đẳng mặn từ 4‰, 10‰, 20‰, 30‰) cho phép nuôi
các đối tượng thủy sản khác nhau có giá trị cao như:
tôm sú, tôm chân trắng, tôm càng xanh, nghêu, cua
biển, sò huyết. Trong đó, cua, ghẹ là một lợi thế với
nông dân vùng sinh thái nước mặn của Bến Tre
(Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú). Ước tính trữ lượng
116
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
cua, ghẹ tự nhiên khoảng 908 tấn, tương đương với
sản lượng trung bình 1,5 kg/giờ (Sở Thủy sản Bến Tre,
2000). Bến Tre có 2 loài cua biển kích thước lớn và
giá trị kinh tế cao là cua Bùn (Scylla paramamosain)
và cua Xanh (Scylla serrata). Tuy nhiên, hai loài cua
biển đang được nuôi với hình thức quảng canh và
bán thâm canh Mô hình nuôi cua bán thâm canh
hiện cho thu nhập từ 80 - 100 triệu đồng/ha/năm,
nuôi thâm canh đạt 180 - 200 triệu đồng/ha/năm,
nếu nuôi thâm canh cao có thể đạt 500 triệu đồng/
ha/năm.
3.3.3. Tái cơ cấu cho từng chuỗi giá trị sản phẩm
thế mạnh
Cây ăn quả là một trong những thế mạnh ưu tiên
tại Bến Tre. Tuy nhiên, cơ cấu của từng chuỗi sản
phẩm từ cây ăn quả còn nhiều bất ổn. Mặc dù đứng
thứ 2 cả nước về diện tích và sản lượng, cơ cấu giống
chôm chôm của Biến Tre còn nhiều bất cập. Tăng
trưởng chôm chôm trong thời gian qua còn thiên
về lượng, sử dụng các giống có năng suất cao như
“Java” rambutan, “Dona” rambutan... (trên 90% cơ
cấu giống); giống “Nhan” rambutan có chất lượng
tốt, giá cao và ổn định ngay tại thị trường nội địa lại
có nguy cơ bị loại bỏ trong sản xuất. Vì vậy, hiệu quả
kinh tế của chôm chôm nói riêng và cây ăn quả nói
chung không ổn định.
3.3.4. Gia tăng giá trị chế biến, xây dựng chuỗi giá
trị và phát triển thương hiệu
Ngoại trừ dừa đã tạo ra được chuỗi sản phẩm có
chế biến sâu, đa dạng, có tổ chức chuỗi liên kết, hầu
hết các nông sản của Bến Tre đều ở dạng nguyên
liệu thô (bò, thủy sản, trái cây, hoa kiểng...), chịu sức
ép cạnh tranh lớn với các sản phẩm cùng loại trong
nước. Mặt khác, các sản phẩm ngành nông nghiệp
của Bến Tre chưa đạt được các chứng nhận sản xuất
an toàn, chưa có các dấu hiệu để thị trường biết,
phân biệt và tiếp cận. Chiến lược định vị thị trường
không rõ ràng nên tình trạng “được mùa rớt giá”
thường xuyên diễn ra.
Vì vậy, cần đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu
cho các sản phẩm gắn với nguồn gốc xuất xứ, chuẩn
hóa chất lượng theo tiêu chuẩn của các thị trường
mục tiêu, nghiên cứu phát triển thị trường tiêu thụ
để nâng cao giá trị sản xuất. Nghiên cứu đa dạng
hóa sản phẩm thành phẩm bằng việc áp dụng công
nghệ bảo quản sau thu hoạch và chế biến (quả tươi,
quả khô, đông lạnh, các sản phẩm chiết xuất...).
Áp dụng và mở rộng các tiêu chuẩn sản xuất an toàn
(GlobalGap, VietGap) để hướng tới các phân khúc
thị trường cao cấp trong và ngoài nước.
IV. KẾT LUẬN
4.1. Kết luận
- Trước những thách thức của biến đổi khí hậu
(xâm nhập mặn, sạt lở...) và hội nhập kinh tế quốc
tế, ngành nông nghiệp Bến Tre đã có những bước
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng
tích cực. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng đột
biến, diện tích dừa và cây ăn trái các loại cũng có xu
hướng gia tăng trong giai đoạn 2013-2017, thay thế
cho gần 1.500 ha lúa trồng trên đất bị tác động của
hạn, mặn và kém hiệu quả.
- Biến đổi khí hậu đang gây ra những nhiều tác
động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp của Bến Tre,
trong đó hạn, mặn và sạt lở là những tác động điển
hình. Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở rộng cánh
cửa cho các mặt hàng nông sản của Bến Tre vươn
xa hơn, giúp Bến Tre tăng quy mô sản xuất và giá trị
nông sản nhưng cũng đang tạo ra những áp lực và
thách thức lớn, gia tăng mức độ cạnh tranh của các
mặt hàng nông sản chính như chôm chôm, thuỷ sản.
- Để thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu,
nhiều mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi
đã xuất hiện mang lại thu nhập và hiệu quả kinh tế
cao cho nông dân như mô hình phát triển đồng cỏ
để chăn nuôi bò sữa, bò thịt; mô hình chuyển đổi đất
lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả; mô hình
lúa - tôm; mô hình nuôi tôm, cua bán thâm canh và
thâm canh v.v.
4.2. Đề nghị
Để phát triển bền vững các mô hình này, tỉnh cần
có những chính sách, giải pháp thay đổi căn bản về
quan hệ sản xuất, đẩy mạnh liên kết sản xuất giữa
doanh nghiệp với nông dân và giữa các hộ nông
dân, tạo vùng sản xuất hàng hoá tập trung, được cấp
chứng nhận chất lượng sản phẩm và sản xuất có hợp
đồng tiêu thụ sản phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban quản lý Dự án phát triển đàn bò sữa Bến Tre,
2019. Báo cáo kết quả Dự án phát triển đàn bò sữa
tỉnh Bến Tre, giai đoạn 2015 - 2019.
Báo Tài nguyên và Môi trường, 2019. Bến Tre: Khẩn
trương xử lý, khắc phục sạt lở bờ biển, ngày truy
cập: 08/3/2020. https://baotainguyenmoitruong.vn/
ben-tre-khan-truong-xu-ly-khac-phuc-sat-lo-bo-
bien-293860.html.
Công ty Cổ phẩn Xuất nhập khẩu Bến Tre
(BETRIMEX), 2018. Báo cáo vùng nguyên liệu dừa
Bến Tre.
Oxfam, 2008. Bến Tre - Đối mặt với biến đổi khí hậu.
In trong Việt Nam - Biến đổi khí hậu, sự thích ứng và
người nghèo. Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin.
117
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Sở Công thương tỉnh Bến Tre, 2017. Báo cáo kết quả
xuất khẩu rau quả 8 tháng đầu năm 2017.
Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bến Tre, 2011. Báo cáo
kết quả sản xuất vụ Đông Xuân 2010 - 2011 của tỉnh
Bến Tre.
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre, 2020.
Số liệu theo dõi của Đài Khí tượng Thủy văn tỉnh
Bến Tre.
Sở Thủy sản tỉnh Bến Tre, 2000. Báo cáo kết quả đề tài
Điều tra quy hoạch khai thác và bảo vệ nguồn lợi
thủy sản vùng ven bờ và xa bờ tỉnh Bến Tre.
Tổng cục Khí tượng thủy văn, 2020. Bến Tre đối mặt
nguy cơ hạn hán, xâm nhập mặn, ngày truy cập:
08/3/2020. Địa chỉ:
san-xuat-va-doi-song-106/ben-tre-doi-mat-nguy-
co-han-han-xam-nhap-man-5497.html.
Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, 2018. Báo cáo kết quả
thực Đề án số 6227/ĐA-UBND ngày 18/12/2013
về “Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững
tỉnh Bến Tre giai đoạn 2013 - 2015 và hướng đến
năm 2020”.
Development status of conversion models of crop
and animal structures in Ben Tre province toward raising values
and adapting to climate change
Vu Van Doan, Nguyen Hoang Anh
Abstract
Ben Tre is one of 5 provinces in the Mekong Delta region most affected by climate change. In recent years, although
the agricultural production of Ben Tre province has recorded remarkable achievements, it also faces many challenges
due to negative impacts of climate change (saline intrusion, drought, landslides), and international economic
integration. To adapt to those difficulties, challenges; many models of crop and animal restructuring have been
effectively creating by Ben Tre province. In the period of 2013 - 2017, the area of aquaculture increased sharply
with many high efficiency models of raising shrimp, crab in intensive and semi-intensive farming; beef and dairy
farming, developing suitable fruit trees (rambutan, green skin grapefruit). Thousands of hectares of inefficient rice
fields, frequently affected by drought and salinity, have been converted to other crops and animals. Currently, Ben
Tre has been focusing on developing 8 production chains that are identified to have advantages and suitable to adapt
to climate change: coconut, green grapefruit, rambutan, longan, ornamental flowers, cows, pigs and marine shrimp.
Keywords: Conversion of crop and animal structure; raising values; adaptation to climate change; Ben Tre province
Ngày nhận bài: 8/3/2020
Ngày phản biện: 15/3/2020
Người phản biện: PGS. TS. Đào Thế Anh
Ngày duyệt đăng: 23/3/2020
1 Viện Dược liệu; 2 Sinh viên khóa 59 - Đại học Lâm nghiệp
HÌNH THÁI, GIẢI PHẪU VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NHIỆT ĐỘ VÀ THỜI GIAN NGÂM HẠT ĐẾN TỶ LỆ NẢY MẦM
CỦA HẠT ĐẢNG SÂM VIỆT NAM
Phạm Ngọc Khánh1, Nghiêm Tiến Chung1,
Chu Thị Thúy Nga1, Đỗ Ly Giang2
TÓM TẮT
Đảng sâm Việt Nam (Codonopsis javanica (Blume) Hook.f ) - Campanulaceae là cây thuốc được sử dụng phổ
biến trong y học cổ truyền của Việt Nam. Nghiên cứu đặc điểm hình thái và giải phẫu hạt cho thấy, hạt Đảng sâm
Việt Nam hình dạng đa dạng như dạng trứng, dạng elip, dạng bầu dục với khối lượng 1000 hạt 0,174 g và kích thước
0,4 - 0,6 ˟ 0,2 - 0,3 mm. Vỏ hạt màu vàng nâu đến nâu đậm; gồm một lớp tế bào hình đa giác (5 - 7 mặt) thấm sáp và
cutin, có vân dạng lưới, phôi hạt nhỏ, nội nhũ lớn gồm các tế bào dự trữ lipit. Nhiệt độ thích hợp cho hạt nảy mầm
từ 25oC đến 30oC với tỷ lệ nảy mầm của hạt từ 76,7% đến 81,3%. Thời gian ngâm hạt thích hợp là 48 giờ với tỷ lệ nảy
mầm của hạt là 82,1%.
Từ khóa: Đảng sâm Việt Nam (Codonopsos javanica), hình thái, giải phẫu, nhiệt độ, thời gian ngâm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hien_trang_phat_trien_cac_mo_hinh_chuyen_doi_co_cau_cay_tron.pdf