Thành phần loài cây ngập mặn ở
vùng ven biển Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng
đến Ninh Thuận) tương đối nghèo với 40
loài cây được xác định. Trong đó có 26 loài
cây ngập mặn thực sự (true mangrove) và
14 loài cây tham gia rừng ngập mặn
(mangrove associates). Hai tỉnh Bình Định
và Khánh Hòa có thành phần loài cây ngập
mặn đa dạng nhất với 34 loài.
Rừng ngập mặn ở vùng ven biển
Nam Trung Bộ đã bị suy thoái nghiêm
trọng, tổng diện tích chỉ còn khoảng
447,86 ha, tập trung nhiều ở các tỉnh177
Quảng Nam (114,27 ha), Bình Định (177
ha), Khánh Hòa (104,08 ha).
Những địa điểm có rừng ngập mặn
còn trong tình trạng tương đối tốt và thành
phần loài khá phong phú cần được ưu tiên
quản lý và phục hồi là: Hội An (81,23 ha),
cửa sông Trường Giang và đầm An Hòa
(33,04 ha), đầm Hương (24,86 ha), đầm
Thị Nại (117 ha), đầm Đề Gi (57 ha), Tuần
Lễ (8,33 ha), Ninh Ích (15 ha), Mỹ Ca (10
ha), Phương Cựu (11 ha)
11 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 628 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng rừng ngập mặn ở dải ven bờ Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
167
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2010, XVII: 167-177
HIỆN TRẠNG RỪNG NGẬP MẶN Ở DẢI VEN BỜ
NAM TRUNG BỘ (TỪ ĐÀ NẴNG ĐẾN NINH THUẬN)
Nguyễn Xuân Hòa, Phạm Thị Lan, Nguyễn Xuân Trường
Viện Hải dương học
Tóm tắt Diện tích rừng ngập mặn ở dải ven bờ Nam Trung Bộ từ Đà Nẵng đến Ninh
Thuận đã bị suy giảm nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân khác nhau như:
phá rừng ngập mặn để phát triển khu dân cư, cơ sở hạ tầng, xây dựng ao, đìa
nuôi thủy sản, thiếu sự quản lý...Hiện nay, diện tích rừng ngập mặn chỉ còn
khoảng 447,86 ha phân bố rất phân tán ở vùng cửa sông và ven các đầm,
vịnh ven biển. Trong đó, các tỉnh có diện tích rừng ngập mặn lớn nhất là
Bình Định với 177ha, Quảng Nam: 114,27 ha, Khánh Hòa: 104,08 ha. Các
tỉnh Quảng Ngãi, Phú Yên, Ninh Thuận chỉ còn vài chục ha rừng ngập mặn.
Tuy nhiên, rừng ngập mặn nguyên sinh hầu như không còn, thay vào đó chủ
yếu là các dải rừng trồng phân tán hoặc tập trung với diện tích nhỏ hẹp trong
vùng ao, đìa nuôi trồng thủy sản. Thành phần loài cây ngập mặn dọc dải ven
bờ Nam Trung Bộ tương đối nghèo với 40 loài cây được xác định. Trong đó
có 26 loài cây ngập mặn thực sự (true mangrove) và 14 loài cây tham gia
rừng ngập mặn (mangrove associates). Để ứng phó với tình hình biến đổi khí
hậu và ổn định đời sống của một bộ phận không nhỏ cư dân sống ở vùng ven
biển, chính quyền các địa phương cần cấp thiết quản lý và xúc tiến phục hồi
rừng ngập mặn.
STATUS OF MANGROVE FOREST IN THE COASTAL WATERS OF SOUTH
CENTRAL VIETNAM (FROM DA NANG TO NINH THUAN PROVINCES)
Nguyen Xuan Hoa, Pham Thi Lan, Nguyen Xuan Truong
Institute of Oceanography
Abstract Due to several causes such as destruction for development of residential
quarters, infrastructure, build of aquaculture ponds, lack of management...,
the mangrove area along the coast of Southern Central Vietnam (from Da
Nang to Ninh Thuan province) was declined seriously. At present, the area
of mangrove is still about 447.86 ha, that distributes dispersedly at river
mouths, lagoons and bays of coastal zone. Among them, Binh Dinh province
exists 177 ha, Quang Nam province: 114.27 ha, Khanh Hoa province:
104.08ha. The provinces of Quang Ngai, Phu Yen and Ninh Thuan only
remain tens of ha. Almost the primeval mangrove forests are not existed; the
present forests are mainly replanted with mangrove bands in the aquaculture
zones. The composition of mangrove species is fairly poor, with 40 species
were identified, among them 26 species are true mangrove and 14 species
are mangrove associates. In order to cope with the change of global climate
and stabilization of coastal inhabitant, the local governments need to manage
and restore urgently the mangrove forests.
168
I. MỞ ĐẦU
Rừng ngập mặn là hệ sinh thái có
tính đa dạng sinh học và năng suất cao ở
vùng nhiệt đới. Rừng ngập mặn không
những cung cấp cho nhân dân trong vùng
các loại lâm sản như gỗ, củi, tanin, thức ăn,
thuốc chữa bệnh...mà còn là nơi cư trú,
sinh sản và kiếm ăn của nhiều loài thủy sản
có giá trị, các loài chim nước, chim di cư
và một số động vật sống trên cạn. Rừng
ngập mặn còn có những chức năng to lớn
trong việc bảo vệ đường bờ của sông, biển
khỏi xói lở, bảo vệ đê điều, ruộng vườn,
nhà cửa, làng mạc, đồng thời điều hòa khí
hậu cho khu vực. Nguồn giống tôm, cua, cá
trong vùng rừng ngập mặn rất phong phú,
đó là nơi cung cấp nguồn giống cho nghề
nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, rừng ngập
mặn đang thực hiện những chức năng và
vai trò sinh thái to lớn đối với tài nguyên,
môi trường và sự phát triển kinh tế- xã hội,
đặc biệt là chúng đem lại sinh kế, nguồn
thức ăn và những lợi ích lâu dài khác cho
đời sống của hàng ngàn người dân sống
trong khu vực.
Đã có nhiều công trình khoa học
được công bố về rừng ngập mặn ở Việt
Nam nhưng hầu hết tập trung nghiên cứu ở
vùng Nam Bộ và Bắc Bộ. Rừng ngập mặn ở
dải ven bờ Nam Trung Bộ từ Đà Nẵng đến
Ninh Thuận hầu như chưa được quan tâm
nghiên cứu. Công trình đầu tiên của Barry
và cs. (1961) đã công bố danh mục 19 loài
cây ngập mặn ở vịnh Cam Ranh. Theo Đặng
Ngọc Thanh (chủ biên, 1994) rừng ngập
mặn từ mũi đèo Hải Vân đến mũi Vũng Tàu
thuộc tiểu khu III.2, được đặc trưng bởi có
các của khu vực này là sông ngòi nhỏ, đồng
bằng hẹp, khí hậu khá khắc nghiệt, do vậy,
rừng ngập mặn ở khu vực này thường phân
bố trong các đầm ven biển với diện tích nhỏ
hẹp.
Những năm gần đây, tốc độ phát
triển kinh tế- xã hội diễn ra nhanh chóng,
kèm theo sự thay đổi quá trình sử dụng đất
ở dải ven biển Nam Trung Bộ đã tác động
lớn đến các hệ sinh thái biển, trong đó có
rừng ngập mặn. Tuy nhiên, những hiểu biết
của chúng ta về thành phần và phân bố
rừng ngập mặn ở khu vực này còn rất ít ỏi.
Báo cáo nêu lên những kết quả
nghiên cứu về hiện trạng thành phần loài,
phân bố và diện tích của rừng ngập mặn ở
dải ven bờ Nam Trung Bộ.
II. PHƯƠNG PHÁP
Khảo sát sự phân bố và cấu trúc của
rừng ngập mặn được tiến hành dựa theo
các tài liệu “Hướng dẫn điều tra nguồn lợi
biển nhiệt đới” (English và cs., 1994).
Công việc khảo sát thực địa rừng ngập mặn
được tiến hành vào tháng 11/2009 dọc theo
vùng ven biển Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng
đến Ninh Thuận). Kết hợp với bản đồ viễn
thám, tại mỗi địa điểm có rừng ngập mặn,
xác định tọa độ và lập các tuyến khảo sát
dọc theo đường bờ. Ở những nơi rừng ngập
mặn có bề ngang rộng, lập thêm các tuyến
khảo sát thẳng góc với đường bờ. Trên các
tuyến khảo sát ghi chép thành phần cây
ngập mặn và những nhận xét, đánh giá về
hiện trạng, đặc điểm phân bố.
Định loại cây ngập mặn dựa theo các
tài liệu của Viên Ngọc Nam và Nguyễn
Sơn Thụy (1999), Shozo và cs. (1997).
Diện tích rừng ngập mặn được tính
toán dựa trên kết quả phân tích ảnh viễn
thám kết hợp điều tra thực địa và phần
mềm Mapinfo.
III. KẾT QUẢ
1. Thành phần loài:
Kết quả khảo sát cho thấy thành phần
loài cây ngập mặn ở vùng ven biển từ Đà
Nẵng đến Ninh Thuận khá đa dạng với 40
loài cây được xác định. Trong đó có 26 loài
cây ngập mặn thực sự (true mangrove) và
14 loài cây tham gia rừng ngập mặn
(mangrove associates), (Bảng 1). Các loài
cây ngập mặn phổ biến ở vùng Nam Trung
Bộ gồm: đước đôi (Rhizophora apiculata),
đưng (Rhizophora mucronata), vẹt dù
(Bruguiera gymnorrhiza), mắm trắng
(Avicennia alba), mắm biển (Avicennia
marina), bần trắng (Sonneratia alba), giá
(Excoecaria agallocha), dừa nước (Nypa
169
fruticans), cóc vàng (Lumnitzera race-
mosa)...
Thành phần loài cây ngập mặn ở 2
tỉnh Bình Định và Khánh Hòa đa dạng nhất
với 34 loài được xác định. Ở nhiều địa
phương rừng ngập mặn hầu như bị phá hủy
hoàn toàn nên thành phần cây ngập mặn rất
nghèo nàn như Đà Nẵng, Ninh Thuận.
Riêng tỉnh Quảng Nam thành phần loài
nghèo do rừng dừa nước (Nypa fruticans)
hầu như chiếm ưu thế hoàn toàn.
So sánh với 78 loài cây ngập mặn đã
được xác định ở Việt Nam (Phan Nguyen
Hong & Hoang Thi San, 1993) thì thành
phần loài cây ngập mặn ở vùng ven bờ
Nam Trung Bộ tương đối nghèo.
2. Hiện trạng phân bố:
Các kết quả khảo sát dọc theo dải ven
bờ Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Ninh
Thuận) cho thấy những khu rừng ngập mặn
tự nhiên còn lại rất ít. Rừng ngập mặn đúng
nghĩa hầu như không còn, chỉ là các dải
rừng ngập mặn nhỏ hẹp tái sinh hoặc được
trồng lại ở các vùng cửa sông, lạch, ven
các đầm, vịnh và trong vùng ao, đìa nuôi
trồng thủy sản với tổng diện tích khoảng
447,86 ha (Hình 1, Bảng 2). Các tỉnh có
diện tích rừng ngập mặn tương đối lớn
là Quảng Nam (114,27 ha), Bình Định
(177ha), Khánh Hòa (104,08 ha). Nhìn
chung, diện tích rừng ngập mặn ở vùng ven
biển Đà Nẵng đến Ninh Thuận đã bị suy
giảm nghiêm trọng so với trước đây.
Hình 1. Các địa điểm phân bố rừng ngập mặn ở vùng ven bờ Nam Trung Bộ
Fig. 1. The sites of distribution of mangrove forest at the coastal area of Southern Central Vietnam
170
Bảng 1. Thành phần loài cây ngập mặn ở vùng ven biển Nam Trung Bộ
Table 1. The species composition of mangroves along the coast of the Southern Central Vietnam
TT Tên khoa học Tên Việt
Nam
Đà
Nẵng
Quảng
Nam
Quảng
Ngãi
Bình
Định
Phú
Yên
Khánh
Hòa
Ninh
Thuận
Các loài ngập mặn thật sự (true mangroves)
Họ rau đắng (AIZOACEAE)
1 Sesuvium portulacastrum L. Sam biển + + + + +
Họ ô rô (Acanthaceae)
2 Acanthus ebracteatus Vahl Ô rô trắng + +
Họ mắm (AVICENNIACEAE) +
3 Avicennia alba Blume Mắm trắng + + + + + +
4 Avicennia marina (Forsk.) Vierh. Mắm biển + + + + + +
5 Avicennia officinalis L. Mắm đen + + +
6 Avicennia lanata Ridl Mắm quăn +
Họ đinh (BIGNONIACEAE)
7 Dolichandrone spathacea (L.f.) Sch. Quao nước + + +
Họ dơn nem (MYRSINACEAE)
8 Aegiceras corniculatum (L.) Blanco Sú + + +
Họ cau dừa (PALMAE)
9 Nypa fruticans Wurmb Dừa nước + + + + +
10 Phoenix paludosa Roxb. Chà là + + +
Họ ráng (PTERIDACEAE)
11 Acrostichum aureum L. Ráng + + + + +
Họ bàng (COMBRETACEAE)
12 Lumnitzera littorea (Jack) Voigt Cóc đỏ +
13 Lumnitzera racemosa Willd. Cóc vàng + + + +
Họ xoan (MELIACEAE)
14 Xylocarpus granatum Koenig Xu ổi + + +
Họ đước (RHIZOPHORACEAE)
15 Bruguiera gymnorrhiza (L.) Lam. Vẹt dù + + + +
16 Bruguiera sexangula (Lour.) Poir. Vẹt đen + +
17 Rhizophora apiculata Bl. Đước, đước
đôi
+ + + + + +
18 Rhizophora mucronata Lam. Đưng, đước
bộp
+ + +
19 Rhizophora stylosa Griff. Đâng +
20 Rhizophora lamarckii Montr. Đước lai +
21 Ceriops tagal (Perr) CB. Reb Dà vôi + +
22 Ceriops decandra (Griff.) Dà quánh + +
Họ cà phê (RUBIACEAE)
23 Scyphiphora hydrophyllacea Gaertn.f. Côi +
Họ thầu dầu (EUPHORBIACEAE)
24 Excoecaria agallocha L. Giá + + + + + +
Họ bần (SONNERATIACEAE)
25 Sonneratia alba J. Sm in Rees Bần trắng + + + + +
26 Sonneratia caseolaris (L.) Engl Bần chua + + +
Những loài tham gia rừng ngập mặn (mangrove associates)
Họ na (ANNONACEAE)
27 Annona glabra L. Na biển + + +
Họ thiên lý (ASCLEPIADACEAE)
28 Gymnanthera nitida R. Br. Thiên lý dại + +
Họ cúc (COMPOSITAE)
29 Pluchea indiaca (L.) Leres Cúc tần, lức + + + + +
Họ cói (CYPERACEAE)
30 Cyperus malaccensis Lam Cói + + + + +
31 Cyperus compactus Lác +
171
Họ đậu (FABACEAE)
32 Derris trifoliata Lour Cốc kèn + + +
Họ bông (MALVACEAE)
33 Thespesia populnea (L.) Sd.ex.Corrs Tra lâm vồ + + + +
34 Hibiscus tiliaceus L. Tra, tra nhớt + + + +
Họ bìm bìm (CONVOVULACEAE)
35 Ipomoea pes-caprae (L.) Rau muống
biển
+ + + +
Họ sim (MYRTACEAE)
36 Melaleuca cajeputi Powell Tràm + +
Họ cỏ roi ngựa (VERBENACEAE)
37 Clerodendron inerme (L.) Gaertn. Ngọc nữ,
chùm gọng
+ + + +
Họ gai me (SALVADORACEAE)
38 Azima sarmentosa (Bl.) Benth.&
Hook.
Chùm lé + + +
Họ dứa dại (PANDANACEAE)
39 Pandanus tectorius L. Dứa dại + + + +
Họ Leguminosae
40 Pongamia pinnata (L.) Pierre Bánh dày +
Tổng cộng: 4 6 26 34 21 34 6
Bảng 2. Thống kê diện tích rừng ngập mặn ở vùng ven biển Nam Trung Bộ
Table 2. Statistics of mangrove’s areas along the coast of Southern Central Vietnam
Tỉnh, Thành Địa điểm Diện tích (ha)
TP. Đà Nẵng Vùng Nam Ô 0
Quảng Nam Hạ lưu sông Thu Bồn (Hội An) 81,23
Cửa sông Trường Giang và đầm An Hòa 33,04
Cộng: 114,27
Quảng Ngãi Sa Huỳnh 3
Đầm Hương (Xã Bình Nguyên) 24,86
Sa Kỳ 1,65
Cộng: 28,51
Bình Định Đầm Thị Nại 117
Đầm Đề Gi 57
Cửa sông Tam Quan 3
Cộng: 177
Phú Yên Đầm Cù Mông 7
Cộng: 7
Khánh Hòa Vịnh Vân Phong 17,70
Đầm Nha Phu 37,33
Tp. Nha Trang 15,64
Đầm Thủy Triều 14,30
Vịnh Cam Ranh 19,11
Cộng: 104,08
Ninh Thuận Đầm Nại 17
Cộng: 17
Tổng cộng: 447,86
172
2.1. Rừng ngập mặn ở Đà Nẵng:
Qua điều tra cộng đồng trước năm
1990, rừng ngập mặn phân bố khá nhiều ở
Nam Ô- Đà Nẵng với diện tích ước khoảng
50 ha, cây ngập mặn chủ yếu là cây bần
(Sonneratia sp.) lâu năm có thân cao lớn.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát năm 2009 cho
thấy rừng ngập mặn nơi đây đã không còn.
Rừng bần đã bị biến mất, thay vào đó là
những ao, đìa nuôi thủy sản, một số ít loài
cây tái sinh như ráng (Acrostichum
aureum), giá (Excoecaria agallocha), lức
(Pluchea indica), cói (Cyperus malacc-
ensis) mọc rải rác trên bờ ao, đìa bỏ hoang.
2.2. Rừng ngập mặn ở tỉnh Quảng Nam:
Rừng ngập mặn ở tỉnh Quảng Nam
phân bố chủ yếu ở vùng hạ lưu sông Thu
Bồn (Hội An), sông Trường Giang và ven
đầm An Hòa (huyện Núi Thành) với tổng
diện tích khoảng 114,27 ha. Những loài
cây ngập mặn phổ biến là dừa nước (Nypa
fructicans), mắm trắng (Avicennia alba),
mắm biển (Avicennia marina), đước
(Rhizophora apiculata), giá (Excoecaria
agallocha), bần trắng (Sonneratia alba).
Trong đó, phổ biến nhất là dừa nước.
- Rừng dừa nước ở Hội An
Ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn (Hội
An) loài dừa nước (Nypa fructicans) hầu
như chiếm ưu thế hoàn toàn. Trước đây,
diện tích rừng dừa nước ở vùng cửa sông
Thu Bồn rất lớn, nhưng hiện nay diện tích
rừng dừa nước ở đây đã bị giảm nhiều do
bị chặt phá lấy đất xây dựng khu dân cư,
làm đồng muối, ao, đìa nuôi tôm.
Dựa trên kết quả phân tích của ảnh
viễn thám tổng diện tích phân bố của rừng
dừa nước ở hạ lưu sông Thu Bồn hiện nay
khoảng 81,23 hecta tập trung chính ở vùng
Hội An. Quần thể dừa nước ở Hội An rất
đặc sắc, hiếm gặp ở vùng Nam Trung Bộ.
Hiện nay do lá dừa nước có giá trị nên
người dân nơi đây đang giữ gìn rừng dừa
nước còn lại khá tốt.
- Rừng ngập mặn ở vùng cửa sông
Trường Giang và đầm An Hòa (huyện Núi
Thành)
Sông Trường Giang đổ vào đầm An
Hòa và ra biển theo 2 cửa: cửa Lở và cửa
An Hòa (Kỳ Hà). Trong đầm An Hòa có
nhiều cồn lớn, nhỏ thuận lợi cho sự phát
triển của cây ngập mặn. Các loài cây ngập
mặn phổ biến ở đây là bần trắng
(Sonneratia alba), mắm biển (Avicennia
marina), mắm trắng (A. alba), đước đôi
(Rhizophora apiculata), giá (Excoecaria
agallocha)... trong đó bần trắng và các loài
mắm chiếm ưu thế tạo thành quần xã điển
hình cho khu vực.
Theo điều tra cộng đồng, trước đây
diện tích rừng ngập mặn ở hạ lưu sông
Trường Giang và trong đầm An Hòa khá
lớn, khoảng trên 150 ha. Tuy nhiên, hiện
nay chỉ còn thấy rừng ngập mặn phân bố
tương đối nhiều ở cồn Si và rải rác ven
đầm thuộc xã Tam Hải, Tam Giang với
tổng diện tích khoảng 33,04 ha.
2.3. Rừng ngập mặn ở tỉnh Quảng Ngãi:
Các dải rừng ngập mặn ở tỉnh Quảng
Ngãi phân bố nhiều ở Sa Huỳnh, đầm
Hương (xã Bình Nguyên) và Sa Kỳ với
tổng diện tích khoảng 28,51 ha. Trong đó,
rừng ngập mặn ở đầm Hương có diện tích
lớn nhất với 24,86 ha. Đã xác định 26 loài
cây ngập mặn phân bố ở tỉnh Quảng Ngãi,
các loài cây phổ biến là dừa nước (Nypa
fruticans), mắm trắng (Avicennia alba),
mắm biển (Avicennia marina), đước
(Rhizophora apiculata), giá (Excoecaria
agallocha)...
- Rừng ngập mặn ở Sa Huỳnh
Hiện nay, chỉ còn thấy các dải cây
ngập mặn nhỏ hẹp phân bố rải rác dọc theo
2 bên bờ rạch và quanh bờ đầm, gồm các
loài như mắm trắng (Avicennia alba),
đước (Rhizophora apiculata), mắm biển
(Avicennia marina)...trong đó ưu thế là cây
mắm biển. Tổng diện tích các dải cây ngập
mặn nơi đây khoảng 3ha.
- Rừng ngập mặn ở đầm Hương (xã
Bình Nguyên)
Tại đầm Hương, xã Bình Nguyên
(huyện Bình Sơn) còn khoảng 24,86 ha
rừng ngập mặn nguyên sinh. Trong khu
rừng này ưu thế là loài dừa nước (Nypa
fruticans) được người dân nơi đây giữ gìn
tốt để khai thác lá. Một số loài cây ngập
mặn khác khá phổ biến như vẹt đen
173
(Bruguiera sexangula), na biển (Annona
glabra)...mọc xen lẫn trong rừng dừa nước.
Ngoài ra, còn thấy các dải cây ngập
mặn nhỏ hẹp phân bố dọc 2 bên bờ rạch đổ
ra cửa biển Sa Kỳ (vùng Tân Đức) với diện
tích 1,65 ha. Các loài cây ngập mặn phổ
biến nơi đây là: mắm trắng (Avicennia
alba), đước (Rhizophora apiculata), giá
(Excoecaria agallocha), tra lâm vồ
(Thespesia populnea), chùm gọng (Clerod-
endron inerme)...
2.4. Rừng ngập mặn ở tỉnh Bình Định:
Các dải rừng ngập mặn nhỏ hẹp phân
bố chủ yếu dọc theo vùng cửa sông Tam
Quan (Hoài Nhơn), ven đầm Đề Gi và đầm
Thị Nại với tổng diện tích khoảng 177 ha.
Trong đó rừng ngập mặn ở đầm Thị Nại có
diện tích lớn nhất với 117 ha, đầm Đề Gi:
57ha, vùng cửa sông Tam Quan: 3ha.
Thành phần loài cây ngập mặn ở tỉnh Bình
Định khá đa dạng với 34 loài được xác
định. Phổ biến nhất là các loài đước
(Rhizophora apiculata), đưng (Rhizophora
mucronata), mắm trắng (Avicennnia alba),
mắm biển (Avicennia marina), giá
(Excoecaria agallocha), tra lâm vồ
(Thespesia populnea), tra nhớt (Hibiscus
tiliaceus)...
- Rừng ngập mặn ở vùng Tam Quan-
Hoài Nhơn
Các dải cây ngập mặn thấy phân bố
rải rác, xen lẫn với ao, đìa nuôi thủy sản
dọc hai bờ sông Giang đổ ra cửa Tam
Quan với tổng diện tích khoảng 3 ha. Cây
đước chiếm ưu thế mọc dọc theo bờ sông,
lạch. Trên bờ đìa cây lức, rau muống biển
và giá mọc phổ biến. Do bị chặt phá nhiều
nên thành phần loài cây ngập mặn khá
nghèo nàn với 10 loài được ghi nhận.
- Rừng ngập mặn ở đầm Đề Gi
Trước năm 1975 có khoảng hơn
100ha rừng ngập mặn phân bố ven đầm Đề
Gi (Nguyễn Xuân Hòa, 2003). Hiện nay,
tổng diện tích rừng ngập mặn nơi đây còn
khoảng 57,28 ha. Các dải rừng ngập mặn
phân bố phân tán dọc theo bờ tây và vùng
đỉnh đầm. Thành phần cây ngập mặn ở đầm
Đề Gi khá đa dạng với 22 loài được xác
định. Các loài cây phổ biến trong đầm Đề
Gi là: đưng (Rhizophora mucronata),
đước đôi (Rhizophora apiculata), đâng
(Rhizophora stylosa), mắm biển (Avicennia
marina), mắm trắng (Avicennia alba), giá
(Excoecaria agallocha), vẹt đen (Bruguiera
sexangula), tra lâm vồ (Thespesia popul-
nea), sú (Aegiceras corniculatum)...
Phong trào trồng rừng ngập mặn
quanh ao đìa nuôi thủy sản đang phát triển
ở đầm Đề Gi. Một số nơi áp dụng theo mô
hình trồng rừng ngập mặn trên các luống
cao xen kẽ trong các ao đìa. Các dải rừng
trồng ở đây chủ yếu là rừng đước, đưng
được trồng lại với nhiều độ tuổi khác nhau.
Trên các bãi triều cát pha bùn thường
ngập nước là quần xã mắm mọc tự nhiên.
Tuy nhiên, mật độ cây thưa thớt, độ che tán
thấp. Ở vùng đất cao ít ngập nước hoặc
trên những bờ đìa thường gặp cây
giá (Excoecaria agallocha), lức (pluchea
indica)mọc phổ biến.
- Rừng ngập mặn ở đầm Thị Nại
Trước năm 1975 có khoảng 1.000 ha
rừng ngập mặn phân bố ven đầm Thị Nại
và trên các cồn nổi trong đầm (Nguyễn
Xuân Hòa, 2003). Hiện nay, do bị chặt phá
lấy đất xây dựng khu dân cư, làng mạc, làm
nông nghiệp, đường xá, và nhất là xây dựng
các ao đìa nuôi trồng thủy sản...khiến diện
tích rừng ngập mặn trong đầm đã giảm
nhanh. Hiện nay chỉ còn thấy các đám rừng
ngập mặn nhỏ hoặc các dải rừng ngập mặn
nhỏ hẹp phân bố rải rác dọc theo bờ sông,
lạch và vùng nuôi thủy sản với tổng diện
tích khoảng 117 ha.
Thành phần loài cây ngập mặn ở đầm
Thị Nại khá phong phú với 29 loài được xác
định. Các loài đước đôi (Rhizophora
apiculata), đưng (Rhizophora mucronata),
mắm trắng (Avicennia alba), giá (Exco-
ecaria agallocha), bần trắng (Sonneratia
alba), tra nhớt (Hibiscus tiliaceus) rất phổ
biến trong đầm.
Các loài cây ngập mặn như mắm
trắng (Avicennia alba), mắm đen (Avic-
ennia officinalis), đước đôi (Rhizophora
apiculata), đưng (Rhizophora mucronata),
đâng (Rhizophora stylosa), bần trắng
(Sonneratia alba), cóc vàng (Lumnitzera
racemosa), sú cong (Aegiceras corn-
174
iculatum) thường phân bố chủ yếu ở vùng
trung triều. Các loài như giá (Excoecaria
agallocha), tra lâm vồ (Thespesia popul-
nea), tra nhớt (Hibiscus tiliaceus), cóc kèn
(Derris trifoliata), ngọc nữ (Clerodendron
inerme), rau muống biển (Ipomoea pes-
caprae) thường phân bố ở vùng triều cao, ít
ngập nước.
Hầu hết các dải cây ngập mặn trong
đầm là cây đước và đưng được trồng lại
trong vùng nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt
cây đước và đưng được trồng nhiều nhất
trong vùng nuôi thủy sản ở bờ tây cầu Nhơn
Hội (phường Nhơn Bình, Đống Đa) và ở
khu phục hồi sinh thái cồn Chim thuộc xã
Phước Sơn. Sự phát triển của các dải rừng
trồng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của nhiều loài cây tham gia rừng ngập
mặn khác như cóc kèn, lức, ngọc nữ...
Ở vùng cửa sông Hà Thanh cũng còn
thấy vài đám rừng ngập mặn tự nhiên với
diện tích khoảng hơn 5 ha phân bố dọc
theo đường bờ, bề ngang đám rừng ngập
mặn có nơi rộng đến 100 m. Thành phần
cây ngập mặn trong các đám rừng này khá
phong phú với 19 loài, trong đó ưu thế nhất
là mắm trắng (Avicennia alba), (mắm biển
(Avicennia marina), vẹt dù (Bruguiera
gymnorhiza),bần trắng (Sonneratia alba)
2.5. Rừng ngập mặn ở tỉnh Phú Yên:
Các dải rừng ngập mặn nhỏ hẹp phân
bố chủ yếu ven bờ tây đầm Cù Mông thuộc
xã Xuân Cảnh với tổng diện tích khoảng
7 ha. Các loài cây ngập mặn tái sinh hoặc
mới trồng phân bố rất thưa thớt thành từng
dải nhỏ hẹp dọc các kênh, lạch dẫn nước
trong vùng nuôi trồng thủy sản. Đã xác
định 22 loài cây ngập mặn phân bố ven
đầm Cù Mông, trong đó các loài phổ biến
là đước (Rhizophora apiculata), mắm trắng
(Avicennia alba), mắm biển (Avicennia
marina), giá (Excoecaria agallocha)...
Rừng ngập mặn ở ven đầm Cù Mông đã bị
phá hủy nghiêm trọng, thay vào đó là hệ
thống ao, đìa nuôi thủy sản.
2.6. Rừng ngập mặn ở tỉnh Khánh Hòa:
Theo Nguyễn Xuân Hòa (2003) trước
năm 1975 toàn tỉnh Khánh Hòa có diện
tích rừng ngập mặn ước khoảng 3.000 ha.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát mới đây đã cho
thấy rừng ngập mặn ở tỉnh Khánh Hòa đã
bị suy giảm nghiêm trọng, chỉ còn các dải
rừng ngập mặn phân bố rất rải rác với tổng
diện tích khoảng 104.08 ha (Bảng 3). Như
vậy, so với trước đây thì nay diện tích rừng
ngập mặn ở tỉnh Khánh Hòa chỉ còn
3,40%.
Thành phần loài cây ngập mặn ở tỉnh
Khánh Hòa khá đa dạng với 34 loài cây
ngập mặn được xác định. Các loài cây
ngập mặn phổ biến là đước (Rhizophora
apiculata), đưng (Rhizophora mucronata),
bần trắng (Sonneratia alba), mắm trắng
(Avicennia alba), mắm biển (Avicennia
marina), giá (Excoecaria agallocha)...Đặc
biệt loài cóc đỏ (Lumnitzera littorea) thấy
phân bố ở vùng Mỹ Ca và Cam Lập. Đây
là loài cây ngập mặn quý hiếm, có tên
trong sách đỏ cần được bảo tồn.
Bảng 3. Diện tích rừng ngập mặn ở tỉnh Khánh Hòa
Table 3. The mangrove's areas in Khanh Hoa province
TT Khu vực khảo sát Diện tích (ha)
1 Ven bờ vịnh Vân Phong 17,70
2 Ven bờ đầm Nha Phu 37,33
3 Vùng cửa sông Vĩnh Trường (Nha Trang) 15,64
4 Ven bờ đầm Thủy Triều 14,30
5 Ven bờ vịnh Cam Ranh 19,11
Tổng diện tích 104,08
175
Hầu hết diện tích các dải cây ngập
mặn ở Khánh Hòa là cây đước, đưng được
trồng lại với nhiều độ tuổi khác nhau bao
bọc các bờ đìa nuôi thủy sản nhằm tránh
tác động của sóng gió. Vùng trồng cây
ngập mặn nhiều nhất là ở thôn Tân Đảo (xã
Ninh Ích), Hà Liên, Tân Tế (Ninh Hòa).
Một vài khu vực rừng ngập mặn có
diện tích tương đối lớn (trên dưới 10 hecta)
đáng chú ý ở tỉnh Khánh Hòa là:
- Rừng ngập mặn ở Tuần Lễ (xã Vạn
Thọ- huyện Vạn Ninh)
Dải rừng ngập mặn phân bố dọc theo
bờ biển thôn Tuần Lễ có diện tích khoảng
8,83 ha. Thành phần loài cây ngập mặn ở
Tuần Lễ khá đa dạng với 19 loài được xác
định. Chiếm ưu thế nhất và tạo cho khu
rừng nét rất đặc trưng là những cây bần
trắng (Sonneratia alba) nên rừng ngập mặn
ở Tuần Lễ được người dân gọi là rừng bần.
Tuy nhiên trong rừng ngập mặn Tuần Lễ
cũng thấy các loài mắm (Avicennia spp.)
và đưng (Rhizophora mucronata) khá phổ
biến. Có thể nói giá trị chủ yếu của khu
rừng ngập mặn ở Tuần Lễ là khu rừng ngập
mặn tự nhiên, cổ xưa duy nhất còn sót lại,
rất hiếm ở vùng ven biển Nam Trung Bộ.
Hiện rừng bần ở Tuần Lễ đang bị suy
thoái dần do ao, đìa nuôi tôm bao quanh,
hạn chế sự lưu thông nước và tình trạng
san đất làm nhà trong diện tích rừng. Chính
quyền địa phương cũng đã cho trồng các
dải rừng đước dọc theo bờ biển, nhưng
diện tích không lớn (khoảng 0,5 ha).
- Rừng ngập mặn ở Tân Đảo (xã Ninh
Ích, huyện Ninh Hòa)
Rừng ngập mặn ở đây chủ yếu là rừng
trồng bao bọc phía ngoài vùng nuôi thủy
sản và trong các ao, đìa với diện tích hơn
15 ha. Cây trồng chủ yếu là đước và đưng
nên chúng chiếm ưu thế trong cấu trúc
rừng. Các dải cây mắm mọc tái sinh tự
nhiên thành từng đám nhỏ trên nền bãi bồi
bao bọc bên ngoài vùng nuôi thủy sản. Xã
Ninh Ích đang quy hoạch từ 40 - 60 hecta
để trồng rừng ngập mặn tập trung ở vùng
này.
- Rừng ngập mặn ở Mỹ Ca
Rừng ngập mặn nơi đây còn tương đối
nguyên vẹn với diện tích khoảng 10 ha. Dải
rừng khá rộng (có nơi gần 100m) phân bố
chạy dọc theo đường bờ ở vùng Mỹ Ca,
trong khu vực quản lý của quân đội. Thành
phần loài cây ngập mặn khá đa dạng với 18
loài được xác định. Những loài cây phổ
biến là: bần trắng (Sonneratia alba), đước
(Rhizophora apiculata), mắm đen (Avice-
nnia officinalis), mắm trắng (Avicennia
alba), mắm biển (Avicennia marina), sú
(Aegiceras corniculatum), vẹt dù (Brug-
uiera gymonorrhiza), cóc vàng (Lumnitzera
racemosa), cóc đỏ (Lumnitzera littorea), giá
(Excoecaria agallocha).
2.7. Rừng ngập mặn ở vùng Ninh
Thuận:
Trước đây rừng ngập mặn được thấy
phân bố phong phú ven đầm Nại, nhưng
hiện nay các khu rừng ngập mặn tự nhiên
đã bị phá hủy hoàn toàn, thay vào đó là hệ
thống ao, đìa nuôi thủy sản. Hiện nay, chỉ
nhìn thấy các dải rừng ngập mặn nhỏ mới
trồng lại ven đầm với tổng diện tích
khoảng 17 ha, bao gồm vùng hòn Thiên
(3 ha), gò Đền (3 ha), Phương Cựu (11
ha). Do bị chặt phá triệt để nên thành phần
loài cây ngập mặn ở đầm Nại rất nghèo
nàn, chỉ gồm 6 loài: đưng (Rhizophora
mucronata), đước (Rhizophora apiculata),
mắm biển (Avicennnia marina), mắm trắng
(Avicennia alba), sam biển (Sesuvium
portulacastrum), lức (Pluchea indiaca).
3. Suy thoái rừng ngập mặn ở vùng ven
bờ Nam Trung Bộ:
Rừng ngập mặn ở vùng ven bờ Nam
Trung Bộ hầu như chưa được quan tâm
nghiên cứu nên không có số liệu đầy đủ về
diện tích rừng trước đây. Dựa trên một vài
số liệu có được và kết quả điều tra trình
bày trong báo cáo này đã cho thấy diện tích
rừng ngập mặn ở các tỉnh Nam Trung Bộ
đã bị suy giảm nghiêm trọng, nhiều nơi bị
mất trắng (Bảng 4).
176
Bảng 4. Vài số liệu về suy giảm diện tích rừng ngập mặn ở một số địa điểm vùng Nam Trung Bộ
Table 4. Data on reduction of mangrove areas at some locations of Southern Central Vietnam
Địa điểm Diện tích RNM trước
năm 1975 (ha)
Diện tích RNM năm
2009 (ha)
Tỷ lệ mất
rừng (%)
Nam Ô (Đà Nẵng) 50 0 100
Hạ lưu sông Trường Giang và
đầm An Hòa (Quảng Nam)
150 33,04 77,97
Đầm Đề Gi (Bình Định) 100 57,28 42,76
Đầm Thị Nại (Bình Định) 1.000 117 88,30
Tỉnh Khánh Hòa 3.000 104,08 96,53
(Nguồn: Nguyễn Xuân Hòa, 2003, 2009a, 2009b).
Điều đáng nói là rừng ngập mặn tự
nhiên chỉ còn lại với diện tích nhỏ hẹp và
đang tiếp tục suy thoái cả về diện tích và
chất lượng. Hầu hết diện tích rừng ngập
mặn hiện nay ở vùng Nam Trung Bộ là
rừng mới trồng lại tập trung hoặc phân tán
ở nhiều độ tuổi khác nhau. Tuy vậy, diện
tích rừng trồng so với diện tích rừng bị mất
đi còn chưa đáng kể.
4. Những nguyên nhân gây suy thoái
rừng ngập mặn ở vùng ven bờ Nam
Trung Bộ:
Các kết quả điều tra, khảo sát cho
thấy những nguyên nhân chính gây suy
thoái hoặc mất rừng ngập mặn ở vùng ven
bờ Nam Trung Bộ là:
- Phá rừng ngập mặn để phát triển
khu dân cư, cơ sở hạ tầng
Áp lực của sự gia tăng dân số và sự
phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng ở
vùng ven bờ Nam Trung Bộ trong những
năm gần đây đã khiến nhiều diện tích rừng
ngập mặn bị phá hủy để lấy đất làm nhà,
vườn tược, khu dân cư, đồng thời với việc
xây dựng cơ sở hạ tầng như cầu cảng,
đường xá... Gần đây nhất là việc đổ đất san
nền xây dựng khu công nghiệp ở đầm Mai
Hương (đầm Thị Nại- tỉnh Bình Định) đã
làm mất đi hàng chục hecta rừng ngập
mặn.
- Phá rừng ngập mặn để xây dựng
ao, đìa nuôi trồng thủy sản
Phong trào nuôi tôm xuất khẩu phát
triển mạnh trong khoảng 2 thập kỷ qua là
nguyên nhân chính gây mất rừng ngập mặn
ở dải ven biển Miền Trung từ Đà Nẵng đến
Ninh Thuận. Do thời gian vài năm đầu sau
khi phá rừng ngập mặn thường nuôi tôm có
lãi khiến người dân ào ạt phá rừng ngập
mặn để xây dựng các ao đìa nuôi tôm. Hậu
quả là rừng ngập mặn bị phá hủy, môi
trường bị suy thoái, bệnh tật tôm nuôi ngày
càng nghiêm trọng, nhiều gia đình lâm vào
cảnh nợ nần, ao, đìa bị bỏ hoang.
- Thiếu sự quản lý
Do thiếu quan tâm quản lý nên rừng
ngập mặn đã bị chặt phá không kiểm soát.
Gần đây nhờ có sự quản lý của khu phục
hồi sinh thái cồn Chim (đầm Thị Nại- Bình
Định) và trồng phục hồi nên diện tích rừng
ngập mặn ở khu vực cồn Chim đã tăng lên
đáng kể. Cũng do thiếu sự quản lý khiến
việc trồng phục hồi rừng ngập mặn ở bãi
bồi ven bờ phường Nhơn Bình (TP. Quy
Nhơn) và một số khu vực ở đầm Nại (Ninh
Thuận) đã bị thất bại do dân cào, xiết bắt
thủy sản trong khu vực trồng rừng làm gãy
hết các cây con mới trồng.
IV. KẾT LUẬN
Thành phần loài cây ngập mặn ở
vùng ven biển Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng
đến Ninh Thuận) tương đối nghèo với 40
loài cây được xác định. Trong đó có 26 loài
cây ngập mặn thực sự (true mangrove) và
14 loài cây tham gia rừng ngập mặn
(mangrove associates). Hai tỉnh Bình Định
và Khánh Hòa có thành phần loài cây ngập
mặn đa dạng nhất với 34 loài.
Rừng ngập mặn ở vùng ven biển
Nam Trung Bộ đã bị suy thoái nghiêm
trọng, tổng diện tích chỉ còn khoảng
447,86 ha, tập trung nhiều ở các tỉnh
177
Quảng Nam (114,27 ha), Bình Định (177
ha), Khánh Hòa (104,08 ha).
Những địa điểm có rừng ngập mặn
còn trong tình trạng tương đối tốt và thành
phần loài khá phong phú cần được ưu tiên
quản lý và phục hồi là: Hội An (81,23 ha),
cửa sông Trường Giang và đầm An Hòa
(33,04 ha), đầm Hương (24,86 ha), đầm
Thị Nại (117 ha), đầm Đề Gi (57 ha), Tuần
Lễ (8,33 ha), Ninh Ích (15 ha), Mỹ Ca (10
ha), Phương Cựu (11 ha).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Barry, J. P., Le Cong Kiet, Vu Van Cuong,
1961. Introduction à L’étude des sables
littoraux du Centre Viet Nam. Ann.
Fac. Sci. Saigon, 129 - 140.
Đặng Ngọc Thanh (chủ biên), 1994.
Chuyên khảo biển Việt Nam tập IV.
Nguồn lợi sinh vật và các hệ sinh thái
biển. Trung tâm Khoa học tự nhiên và
Công nghệ quốc gia. 529 tr.
English, S., C. Wilkinson, V. Baker, 1994.
Survey manual for tropical marine
resources. AIMS, Townsville, Austr-
alia, 235-264.
Nguyễn Xuân Hòa, 2003. Điều tra hiện
trạng phân bố của rừng ngập mặn, thảm
cỏ biển ở tỉnh Bình Định. Báo cáo dự
án SAREC. Viện Hải dương học. 15 tr.
Nguyễn Xuân Hòa, 2009a. Hiện trạng các
hệ sinh thái đặc trưng của đầm Thị Nại.
Báo cáo chuyên đề thuộc Đề tài
"Nghiên cứu cơ sở khoa học nhằm xây
dựng các giải pháp phát triển nuôi
trồng thủy sản bền vững tại đầm Thị
Nại (tỉnh Bình Định)". 42 tr.
Nguyễn Xuân Hòa, 2009b. Điều tra, thống
kê diện tích, thành phần loài, đánh giá
hiện trạng phân bố hệ sinh thái rừng
ngập mặn, thảm cỏ biển và vai trò của
chúng đối với kinh tế - xã hội, môi
trường ở vùng biển ven bờ Khánh Hòa
- Đề xuất giải pháp quản lý và sử dụng
bền vững. Báo cáo Đề án môi trường
tỉnh Khánh Hòa. 121 tr.
Phan Nguyen Hong, Hoang Thi San,
1993. Mangroves of Vietnam. IUCN,
Bangkok, Thailand. 173 p.
Shozo Kitamura, Chairil Anwar, Amayos
Chaniago, Shigeyuki Baba, 1997.
Handbook of mangroves in Indonesia.
MEDIT, Tokyo Japan. 119p.
Viên Ngọc Nam & Nguyễn Sơn Thụy,
1999. Nhận biết cây rừng ngập mặn
qua hình ảnh. Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn TP. Hồ Chí Minh. 102
tr.
Người nhận xét:
- PGS.TS. Nguyễn Ngọc Lâm
- TS. Lê Như Hậu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 18_nguyenxuanhoa_trang_167_177_0674_2070887.pdf