Kinh nghiệm thực thi các cam kết WTO
và các FTA trước đây của Việt Nam cho
thấy, các lợi ích suy đoán từ một hiệp định
sẽ không đương nhiên trở thành hiện thực;
các quyền và nghĩa vụ theo các cam kết
không tự nhiên phát huy tác dụng nếu thiếu
những nỗ lực lớn để thực thi các cam kết,
hiện thực hóa các lợi ích và xử lý thách thức
liên quan.
Trong một FTA thế hệ mới như EVFTA,
bên cạnh các cam kết mang tính truyền
thống về mở cửa/tiếp cận thị trường (mở cửa
thị trường hàng hóa, dịch vụ), số các cam kết
mang tính quy tắc (rules), có ý nghĩa ràng
buộc cách hành xử chính sách của các bên,
là rất lớn, trải rộng trên nhiều lĩnh vực liên
quan tới thương mại, kinh doanh. Việc thực
thi các cam kết có liên quan tới trình tự, thủ
tục hành chính này đòi hỏi việc cùng lúc rà
soát và điều chỉnh về cơ chế, trong một số
trường hợp, còn phải điều chỉnh cả bộ máy
và phương thức thực hiện trong các lĩnh vực
khác nhau. Hơn thế nữa, phần lớn các cam
kết dạng này đều phải thực hiện ngay khi
FTA phát sinh hiệu lực hoặc trong một thời
hạn rất ngắn sau đó. Điều này đặt ra thách
thức lớn không chỉ về năng lực mà cả về
nguồn lực thực thi đối với Việt Nam.
Trên thực tế, việc hiện thực hóa các
quyền trong cam kết FTA không chỉ đòi hỏi
những thay đổi về nhận thức hay năng lực,
mà còn đặt ra những thách thức đáng kể về
mặt thiết chế/cơ chế, trong đó có cơ chế
minh bạch hóa thông tin để có thể sử dụng
các công cụ phòng vệ thương mại; thiết chế
liên quan tới các hàng rào kỹ thuật, vệ sinh
dịch tễ (SPS); tư vấn, hướng dẫn, giải quyết
vướng mắc trong quá trình thực thi các cam
kết, áp dụng cam kết, gắn trực tiếp với
quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân
liên quan. Hiện ở Việt Nam chưa có bất kỳ
một đầu mối hay thiết chế nào chính thức
thực hiện việc tư vấn, hướng dẫn, giải quyết
vướng mắc cho các tổ chức, cá nhân (phần
lớn là doanh nghiệp) trong những trường
hợp như vậy.
Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả thực thi
EVFTA và EVIPA, chúng ta cần chú ý rà
soát các yêu cầu, thiết lập danh mục các vấn
đề cần được xử lý; thiết lập và vận hành các
thiết chế cần thiết cho việc đảm bảo thực thi
các nghĩa vụ và tận dụng hiệu quả các quyền
theo cam kết; hỗ trợ nâng cao năng lực, đóng
góp kỹ thuật, thiết kế cơ chế và nguồn lực
xây dựng, vận hành bộ máy cho các thiết chế
tương ứng phù hợp với tính chất, chức năng
và đảm bảo tính khả thi trong triển khai
Với tính chất là một FTA thế hệ mới, với
sự mở cửa toàn diện, sâu rộng và có tác động
mạnh nhất tới nền kinh tế Việt Nam và có
vai trò quan trọng trong phát triển quan hệ
kinh tế giữa Việt Nam và 27 nước thành viên
EU, EVFTA và EVIPA đặt ra những thách
thức lớn cho Việt Nam không chỉ trong đàm
phán, mà cả trong quá trình thực thi, đặc biệt
là từ góc độ thiết chế. Việc chuẩn bị các yếu
tố cần thiết, cũng như xây dựng các tiêu chí,
dự liệu các giải pháp để vượt qua các thách
thức này là điều kiện tiên quyết để Việt Nam
có thể đạt được những động lực và lợi ích kỳ
vọng từ các hiệp định mới quan trọng này
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 368 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU và hiệp định bảo trợ đầu tư Việt Nam - EU: Những động lực và kỳ vọng mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
hiệp định ThƯƠng mẠi Tự do việT nam - Eu
và hiệp định bảo TrỢ đẦu TƯ việT nam - Eu:
NHỮNG ĐỘNG LỰC VÀ KỲ VỌNG MỚI
TS. Nguyễn Minh Phong*
Ths. Nguyễn Trần Minh Trí**
* Phó Vụ trưởng-Phó Ban tuyên truyền lý luận-Báo Nhân Dân.
** Viện Kinh tế & Chính trị thế giới-Viện HLKHXHVN.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Cơ hội, thách thức; Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam - EU; Hiệp
định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 27/02/2020
Biên tập : 25/02/2020
Duyệt bài : 04/03/2020
Article Infomation:
Keywords: Opportunity; challenge;
Vietnam - EU Free Trade Agreement;
Vietnam - EU Investment Protection
Agreement
Article History:
Received : 27 Feb. 2020
Edited : 25 Feb. 2020
Approved : 04 Mar. 2020
Tóm tắt:
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp
định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA) được ký ngày
30/6/2019 và đã được Nghị viện châu Âu (EP) thông qua ngày
12/2/2020. EVFTA sẽ có hiệu lực khi được Quốc hội Việt Nam
và EP phê chuẩn, trong khi hiệp định EVIPA cần được Quốc hội
Việt Nam, EP và Nghị viện các nước thành viên EU phê chuẩn.
Quyết định của EP đã “bật đèn xanh” cho việc thực thi hiệp định
EVFTA và tạo tiền đề để các Nghị viện quốc gia thành viên EU
xem xét, phê chuẩn EVIPA thời gian tới. Bài viết này bàn về
những cơ hội, thách thức và nhiệm vụ mới từ việc thực hiện hai
Hiệp định này đối với Việt Nam.
Abstract:
Vietnam - EU Free Trade Agreement (EVFTA) and Vietnam - EU
Investment Protection Agreement (EVIPA) were signed on June
30, 2019 and approved by the European Parliament (EP) on
Febuary 2, 2020. The EVFTA will come into force when it is
ratified by the National Assembly of Vietnam and the EP, while
the EVIPA needs to be ratified by the National Assembly of
Vietnam, by EP and the Parliaments of the EU Members. The
EP’s decision has given a “green light” to the enforcement of the
EVFTA and paves the ground for the Parliaments of the EU
Members to consider and ratify the EVIPA in coming time. This
article provides discussions on new opportunities, challenges for
and tasks of Vietnam once these two agreements are come into
enforcement.
Số 6(406) - T3/202038 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
1. Những cơ hội và thách thức
Là cột mốc mới quan trọng trong 30
năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1990 -
2020), việc thông qua EVFTA và EVIPA với
tỷ lệ ủng hộ cao tại Nghị viện châu Âu1, nơi
tâp hợp 700 nghị sĩ từ 27 nước, đại diện cho
nhiều đảng phái, khuynh hướng chính trị và
lợi ích kinh tế đa dạng khác nhau, cho thấy
các nghị sĩ và các quốc gia thành viên EU
thực sự coi trọng, đánh giá cao vai trò, vị thế
của Việt Nam và quan hệ đối tác hợp tác toàn
diện Việt Nam - EU.
EVFTA và EVIPA có phạm vi rộng và
mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ
trước tới nay, chứa đựng nhiều cơ hội và kỳ
vọng mở ra một triển vọng mới cho quan hệ
hợp tác hai bên Việt Nam và EU phát triển
ngày càng sâu rộng, toàn diện, bình đẳng,
cùng có lợi và hiệu quả hơn; đồng thời, đóng
góp vào thúc đẩy xu thế chung về liên kết
kinh tế quốc tế và phát triển bền vững; khẳng
định vị thế Việt Nam và chính sách của EU
tiếp tục tăng cường gắn kết với châu Á-Thái
Bình Dương nói chung và ASEAN nói riêng.
EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ
ba và là một trong hai thị trường xuất khẩu
lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch thương
mại hai chiều đã tăng hơn 12 lần, từ mức 4,1
tỷ USD năm 2000 lên hơn 50,4 tỷ USD năm
2017; trong đó xuất khẩu của Việt Nam vào
EU tăng 13,6 lần (từ 2,8 tỷ USD lên hơn
38,3 tỷ USD) và nhập khẩu vào Việt Nam từ
EU tăng hơn 9 lần (1,3 tỷ USD lên 12,1 tỷ
USD)2. Các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam sang EU là giày dép, dệt may,
cà phê, đồ gỗ, hải sản.
EU cũng là nhà đầu tư lớn vào Việt
Nam. Tính đến năm 2017, đã có 24 trong số
28 nước EU đầu tư vào Việt Nam với
khoảng 2000 dự án còn hiệu lực, tổng vốn
đầu tư đăng ký đạt hơn 21,5 tỷ USD. Các
nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các
ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam, tập
trung nhiều nhất vào công nghiệp, xây dựng
và một số ngành dịch vụ3.
EVFTA và EVIPA sẽ tạo cơ hội cho các
doanh nghiệp EU tiếp cận thị trường gần 100
triệu dân của Việt Nam, qua đó tiếp cận sâu
hơn thị trường ASEAN và khu vực; GDP
của EU dự kiến sẽ tăng thêm 30 tỷ USD và
xuất khẩu của EU vào Việt Nam sẽ tăng
khoảng 15,28% vào năm 2020, tăng 33,06%
vào năm 2025, tăng 36,7% vào năm 2030,
tăng 29% vào năm 20354
EVFTA và EVIPA mở ra cơ hội lớn cho
doanh nghiệp (DN) Việt Nam thâm nhập thị
trường EU đầy tiềm năng với 508 triệu dân
và quy mô khoảng 18 nghìn tỷ USD, hiện là
thị trường xuất khẩu và xuất siêu lớn thứ hai
của Việt Nam. Ngay khi EVFTA có hiệu lực,
EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với gần
86% số dòng thuế từ Việt Nam và nâng lên
99% dòng thuế sau 7 năm; trong khi Việt
Nam xóa bỏ ngay 48,5% số dòng thuế cho
hàng hóa EU trong năm đầu tiên và nâng lên
91,8% số dòng thuế sau 7 năm5.
Do cơ cấu kinh tế của Việt Nam và EU
mang tính bổ sung, tương hỗ lẫn nhau nên ít
1 EVFTA với 401 phiếu ủng hộ, 192 phiếu chống, 40 phiếu trắng, và EVIPA với 407 phiếu ủng hộ, 188
phiếu chống, 53 phiếu trắng. Xem
la-thanh-cong-doi-ngoai-quan-trong-trong-nam-2020.
2
3
qua/387394.vgp.
4
qua/387394.vgp.
5
trong-trong-nam-2020.
39Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
có cạnh tranh trực tiếp. Việc thực hiện
EVFTA và EVIPA dự kiến tạo áp lực cạnh
tranh gay gắt chỉ ở một số lĩnh vực như
logistics, hóa chất, phương tiện vận tải, sắt
thép, dược phẩm, chăn nuôi và nông sản chế
biến... trong khi tạo nhiều cơ hội và động lực
mới cho Việt Nam. Theo đó, cùng với những
lợi ích gián tiếp khác, việc thực hiện EVFTA
và EVIPA dự kiến sẽ giúp Việt Nam tăng 20%
xuất khẩu sang EU vào năm 2020, tăng gần
43% vào năm 2025 (trong đó, xuất khẩu gạo
tăng 65%, dệt tăng 67%, may mặc tăng 81%
và da giày tăng tới 99%; còn đường tăng 8%
và lâm sản, thịt gia súc, gia cầm và đồ uống,
thuốc lá cũng tăng từ 3-4%...) và tăng gần
45% vào năm 2030; đồng thời, tăng 4-6%
GDP vào năm 2025 và tiếp theo. Việc 85,6%
số dòng thuế sẽ được EU ngay lập tức dỡ bỏ
sau khi EVFTA có hiệu lực giúp tăng năng
lực cạnh tranh cho 70,3% kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam vào thị trường này; Việt
Nam xóa bỏ 48,5%, tương đương với 64,5%
kim ngạch nhập khẩu vào Việt Nam, cũng sẽ
giúp giảm chi phí đầu vào cho các ngành sản
xuất, giảm giá hàng hóa, dịch vụ6
Theo dự báo của EuroCham, EU sẽ đầu
tư vào nông nghiệp công nghệ cao, là lĩnh
vực tiềm năng được nhiều doanh nghiệp EU
chờ đón; trong đó, ngoài việc tập trung
nguồn vốn còn đẩy mạnh chuyển giao giải
pháp công nghệ cao trong nông nghiệp, sản
xuất chế biến nông sản, thực phẩm. Với quy
mô và tiềm năng về vốn, công nghệ của EU,
Việt Nam đang đứng trước cơ hội trở thành
địa bàn trung chuyển, cửa ngõ kết nối cho
hoạt động thương mại và đầu tư của EU
trong khu vực châu Á. Lĩnh vực đầu tư mà
EVFTA hướng tới không chỉ nhằm vào sản
xuất, xuất nhập khẩu mà còn cả những lĩnh
vực dịch vụ như viễn thông & công nghệ
thông tin, kiến trúc & tư vấn kỹ thuật, dịch
vụ môi trường. Khi phát triển các dịch vụ
này đạt trình độ quốc tế, Việt Nam không
những sẽ giảm nhập khẩu, mà còn có thể
xuất khẩu nhiều dịch vụ chất lượng cao.
Cam kết đầu tư trong EVFTA sẽ mở ra
nhiều cơ hội cho doanh nghiệp tham gia đầu
tư vào thị trường các bên. Theo đó, hai bên
sẽ đối xử bình đẳng, bảo hộ an toàn và đầy
đủ các khoản đầu tư và nhà đầu tư của nhau,
như: (1) Đối xử với các nhà đầu tư của nước
thành viên bình đẳng như nhà đầu tư trong
nước hoặc ngoài khối về lĩnh vực đầu tư và
tiếp cận thị trường; (2) Không áp dụng các
chính sách hạn chế như yêu cầu hàm lượng
nội địa, sản xuất nội địa, bắt buộc chuyển
giao công nghệ, hạn chế nhập khẩu và định
mức xuất khẩu; (3) Đảm bảo hoàn trả và bồi
thường cho nhà đầu tư nếu xảy ra thiệt hại
trong trường hợp xung đột vũ trang, bất ổn
xã hội, trường hợp khẩn cấp hoặc thiệt hại
do chính sách nhà nước (trưng dụng gián
tiếp); (4) Không trưng dụng, quốc hữu hóa
các khoản đầu tư, trừ trường hợp dùng vào
mục đích công, có bồi thường đúng pháp
luật; (5) Công nhận và tạo điều kiện thuận
lợi cho các hình thức chuyển nhượng tài sản
như góp vốn, trả lãi, giao dịch mua bán và
bồi thường; (6) Nếu Hiệp định EVFTA bị
hủy bỏ, nước thành viên phải tiếp tục áp
dụng các điều khoản về đầu tư thêm 15 năm;
(7) Các bên thống nhất cơ chế giải quyết
tranh chấp chặt chẽ nhưng thân thiện để các
khúc mắc, nếu có, sẽ được xem xét, khách
quan, thấu đáo và phán quyết cuối cùng
được tuân thủ7.
Trên thực tế, Dệt may, một trong những
ngành công nghiệp lớn nhất Việt Nam với
6 https://www.nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/42571902-nganh-da-giay-viet-nam-don-dau-co-hoi-cptpp-
va-evfta.html.
7
Số 6(406) - T3/202040 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
hơn 2 triệu nhân công sẽ hưởng lợi lớn nhờ
sau khi ký kết FTA, mức thuế 12% EU áp
dung đối với hàng dệt may xuất khẩu của
Việt Nam sẽ giảm xuống còn 0%. Điều này
sẽ có lợi đối với 5 sản phẩm dẫn đầu xuất
khẩu của Việt Nam (bộ vest nữ - 285 triệu,
bộ vest nam - 233 triệu, áo khoác nam - 211
triệu, áo khoác nữ - 207 triệu và áo len - 166
triệu USD)8.
Việt Nam là một trong 10 nhà xuất khẩu
da giầy dép hàng đầu thế giới, với trên 500
doanh nghiệp, 1 triệu nhân công và chiếm
10% kim ngạch xuất khẩu hàng năm9. Xuất
khẩu của Việt Nam chủ yếu tập trung vào
giầy da chất lượng cao và giầy thể thao cho
các thương hiệu giầy của Mỹ và EU. Mức
thuế quân bình quân EU áp dụng đối với
giầy dép nhập khẩu từ Việt Nam là 12,4%,
vì vậy, việc ký kết FTA trở nên đặt biệt quan
trọng đối với xuất khẩu giầy dép Việt Nam10.
EVFTA còn đề cập tới những khía cạnh
khác như: cam kết về đối xử quốc gia trong
lĩnh vực đầu tư; giải quyết tranh chấp giữa
nhà đầu tư và Nhà nước; cạnh tranh, phát
triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng
lực, pháp lý, thể chế; tạo ra một môi trường
đầu tư cởi mở, thuận lợi và bình đẳng cho
hoạt động của các DN hai bên... nhằm tăng
cường hợp tác, thúc đẩy sự phát triển của
thương mại và đầu tư giữa hai bên.
EVFTA còn bao hàm những vấn đề mà
Việt Nam chưa từng cam kết như: Đầu tư (cả
trong sản xuất và dịch vụ), chính sách đối
với DN nhà nước (DNNN), mua sắm công,
lao động, môi trường
Việc thực thi EVFTA trong dỡ bỏ thuế
quan, xúc tiến đầu tư, thúc đẩy công nhận
lẫn nhau về tiêu chuẩn, cải thiện quy tắc xuất
xứ và chứng nhận xuất xứ; cải thiện môi
trường tạo thuận lợi thương mại - hỗ trợ kỹ
thuật tăng cường nhận thức và áp dụng
những tiêu chuẩn của thị trường EU sẽ
mang lại nhiều cơ hội để Việt Nam mở rộng
xuất khẩu, thu hút đầu tư và tham gia sâu
rộng hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu
Cùng với Hiệp định tự do đã ký với Liên
minh thuế quan Nga, Belaruts và Kazacxtan,
EVFTA và EVIPA sẽ giúp Việt Nam đẩy
mạnh đa dạng hóa thị trường và đối tác, tạo
chỗ đứng vững chắc hơn tại thị trường EU
nói riêng và toàn bộ châu Âu nói chung, góp
phần thúc đẩy tiếp nhận hàng hóa chất lượng
cao và thiết lập chuỗi sản xuất gắn với dòng
vốn đầu tư công nghệ cao từ EU, cả trong
công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp, dịch vụ và
kinh tế số.
Sự hợp tác giữa hai bên trong thực thi
các cam kết của EVFTA và EVIPA còn góp
phần thúc đẩy Việt Nam tiếp tục cải cách
hoàn thiện thể chế, nâng cao tiêu chuẩn lao
động và đời sống của nhân dân, đẩy mạnh
tái cơ cấu kinh tế theo chiều sâu và tăng
trưởng bền vững
2. Những nhiệm vụ mới
Trong khi chờ đợi các thủ tục cần thiết
để Quốc hội Việt Nam phê chuẩn hai hiệp
định, các Bộ, ban, ngành, các địa phương và
doanh nghiệp cần khẩn trương xây dựng kế
hoạch và các kịch bản, nhiệm vụ, giải pháp
triển khai hiệp định để có thể tận dụng tốt
các cơ hội, đồng thời ứng phó với những
thách thức có thể phát sinh khi thực thi các
hiệp định.
Để khai thác những động lực tích cực từ
hai hiệp định, chúng ta cần tuân thủ và vượt
qua các đòi hỏi rất cao liên quan đến bảo vệ
8
9 https://www.nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/42571902-nganh-da-giay-viet-nam-don-dau-co-hoi-cptpp-
va-evfta.html.
10
sở hữu trí tuệ, minh bạch môi trường kinh
doanh, xuất xứ và chứng nhận xuất xứ hàng
hóa, các hàng rào kỹ thuật và tiêu chuẩn an
toàn vệ sinh thực phẩm, minh bạch thông tin,
bảo vệ môi trường. Việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ hàng
hóa, cũng như chất lượng nguồn nhân lực
của Việt Nam là yêu cầu quan trọng hàng
đầu trong thời gian tới. Các doanh nghiệp
Việt Nam cần nắm chắc nội dung và lộ trình
cam kết trong hai hiệp định; chủ động rà soát
và tái cơ cấu đầu tư, lao động; áp dụng công
nghệ cao và cơ chế quản trị tiên tiến; cập
nhật các hàng rào kỹ thuật từ các thành viên
EU để đáp ứng tốt và tận dụng được các cơ
hội phát triển mới.
Kinh nghiệm thực thi các cam kết WTO
và các FTA trước đây của Việt Nam cho
thấy, các lợi ích suy đoán từ một hiệp định
sẽ không đương nhiên trở thành hiện thực;
các quyền và nghĩa vụ theo các cam kết
không tự nhiên phát huy tác dụng nếu thiếu
những nỗ lực lớn để thực thi các cam kết,
hiện thực hóa các lợi ích và xử lý thách thức
liên quan.
Trong một FTA thế hệ mới như EVFTA,
bên cạnh các cam kết mang tính truyền
thống về mở cửa/tiếp cận thị trường (mở cửa
thị trường hàng hóa, dịch vụ), số các cam kết
mang tính quy tắc (rules), có ý nghĩa ràng
buộc cách hành xử chính sách của các bên,
là rất lớn, trải rộng trên nhiều lĩnh vực liên
quan tới thương mại, kinh doanh. Việc thực
thi các cam kết có liên quan tới trình tự, thủ
tục hành chính này đòi hỏi việc cùng lúc rà
soát và điều chỉnh về cơ chế, trong một số
trường hợp, còn phải điều chỉnh cả bộ máy
và phương thức thực hiện trong các lĩnh vực
khác nhau. Hơn thế nữa, phần lớn các cam
kết dạng này đều phải thực hiện ngay khi
FTA phát sinh hiệu lực hoặc trong một thời
hạn rất ngắn sau đó. Điều này đặt ra thách
thức lớn không chỉ về năng lực mà cả về
nguồn lực thực thi đối với Việt Nam.
Trên thực tế, việc hiện thực hóa các
quyền trong cam kết FTA không chỉ đòi hỏi
những thay đổi về nhận thức hay năng lực,
mà còn đặt ra những thách thức đáng kể về
mặt thiết chế/cơ chế, trong đó có cơ chế
minh bạch hóa thông tin để có thể sử dụng
các công cụ phòng vệ thương mại; thiết chế
liên quan tới các hàng rào kỹ thuật, vệ sinh
dịch tễ (SPS); tư vấn, hướng dẫn, giải quyết
vướng mắc trong quá trình thực thi các cam
kết, áp dụng cam kết, gắn trực tiếp với
quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân
liên quan. Hiện ở Việt Nam chưa có bất kỳ
một đầu mối hay thiết chế nào chính thức
thực hiện việc tư vấn, hướng dẫn, giải quyết
vướng mắc cho các tổ chức, cá nhân (phần
lớn là doanh nghiệp) trong những trường
hợp như vậy.
Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả thực thi
EVFTA và EVIPA, chúng ta cần chú ý rà
soát các yêu cầu, thiết lập danh mục các vấn
đề cần được xử lý; thiết lập và vận hành các
thiết chế cần thiết cho việc đảm bảo thực thi
các nghĩa vụ và tận dụng hiệu quả các quyền
theo cam kết; hỗ trợ nâng cao năng lực, đóng
góp kỹ thuật, thiết kế cơ chế và nguồn lực
xây dựng, vận hành bộ máy cho các thiết chế
tương ứng phù hợp với tính chất, chức năng
và đảm bảo tính khả thi trong triển khai
Với tính chất là một FTA thế hệ mới, với
sự mở cửa toàn diện, sâu rộng và có tác động
mạnh nhất tới nền kinh tế Việt Nam và có
vai trò quan trọng trong phát triển quan hệ
kinh tế giữa Việt Nam và 27 nước thành viên
EU, EVFTA và EVIPA đặt ra những thách
thức lớn cho Việt Nam không chỉ trong đàm
phán, mà cả trong quá trình thực thi, đặc biệt
là từ góc độ thiết chế. Việc chuẩn bị các yếu
tố cần thiết, cũng như xây dựng các tiêu chí,
dự liệu các giải pháp để vượt qua các thách
thức này là điều kiện tiên quyết để Việt Nam
có thể đạt được những động lực và lợi ích kỳ
vọng từ các hiệp định mới quan trọng này n
41Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hiep_dinh_thuong_mai_tu_do_viet_nam_eu_va_hiep_dinh_bao_tro.pdf