Năng suất sinh sản và tăng trọng heo con
thí nghiệm
Có sự khác biệt thống kê giữa lô đối
chứng (control) so với lô thí nghiệm (bổ sung
ASCOGEN®) ở trọng lượng sơ sinh 1,54 kg±0,23
so với 1,38 kg±0,26, tương ứng (P<0,05) và
gần có khác biệt ở trọng lượng heo cai sữa 6,2
kg±0,99 so với 5,98±1,09, tương ứng (P=0,060).
Số heo con còn sống đến cai sữa trung bình ở
lô thí nghiệm (bổ sung ASCOGEN®) là 11,16
kg và lô đối chứng (control) là 11,00 kg, nhưng
không có sự khác biệt (P>0,05).
Nucleotides (ASCOGEN®) đã được báo cáo
qua các nghiên cứu về cải thiện khả năng hấp thu
chất dinh dưỡng, tham gia vào quá trình phân
chia của tế bào, nhất là những tế bào của cơ thể
có tính biệt hóa cao và thay thế liên tục như niêm
mạc tiêu hóa, sinh sản và miễn dịch (Whitehead
và ctv., 2006); nucleotides cải thiện sự phát triển
của nhung mao ruột, tăng chiều dài nhung mao
ruột để làm cho diện tích bề mặt trong của ruột
lớn hơn và sự hấp thu chất dinh dưỡng tốt hơn
(Cheng và ctv., 2011, Peng và ctv., 2013). Năng
suất nái thể hiện sự khác biệt (P<0,05) qua chỉ
số trọng lượng heo sơ sinh và dường như cũng
có sự khác biệt ở trọng lượng heo cai sữa, mặc
dù giá trị so sánh thống kê P>0,05 (P=0,060).
Các chỉ số năng suất cần dung lượng đơn vị thí
nghiệm nhiều hơn để có thể thấy được sự khác
biệt qua thống kê, nhưng ở thử nghiệm này kết
quả đã cải thiện 0,22kg (6,20-5,98) trọng lượng
bình quân trên một heo cai sữa và tăng thêm
0,16 (11,6-11,0) heo cai sữa/lứa có được từ thí
nghiệm này cũng không phải là con số nhỏ, tuy
nhiên hiệu quả kinh tế so sánh cần được tính
toán chi tiết dựa trên chỉ số đầu tư và thu hồi mà
thí nghiệm này chưa thể hiện.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả bổ sung Ascogen® lên năng suất và đáp ứng miễn dịch sau tiêm phòng trên heo nái mang thai và heo con theo me, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
HIEÄU QUAÛ BOÅ SUNG ASCOGEN® LEÂN NAÊNG SUAÁT
VAØ ÑAÙP ÖÙNG MIEÃN DÒCH SAU TIEÂM PHOØNG
TREÂN HEO NAÙI MANG THAI VAØ HEO CON THEO MEÏ
Đoàn Trần Vĩnh Khánh1, Nguyễn Phạm Huỳnh1,
Trần Trúc Anh2, Klaus Hoffmann3, Đỗ Tiến Duy1
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của ASCOGEN® bổ sung vào thức ăn đến đáp ứng
miễn dịch của heo nái mang thai sau tiêm phòng vacxin PRRS và CSF và heo con theo mẹ. Kết quả nghiên cứu
cho thấy hàm lượng kháng thể blocking dịch tả heo trên nhóm heo nái được ăn thức ăn có bổ sung ASCOGEN®
(81,43±9,22) cao hơn so với nhóm heo nái đối chứng (80,77±9,05) vào thời điểm sau tiêm phòng 28 ngày. Ở
thời điểm trước tiêm phòng, có sự khác biệt (P<0,05) kháng thể thụ động dịch tả heo giữa heo con có hoặc
không sử dụng ASCOGEN® từ heo nái sử dụng ASCOGEN® so với heo con không sử dụng ASCOGEN®
từ heo nái đối chứng; và kháng thể thụ động dịch tả heo của heo con có sử dụng ASCOGEN® từ heo nái đối
chứng cũng cao hơn có ý nghĩa (P<0,05) so với heo con không sử dụng ASCOGEN® từ heo nái đối chứng.
Hàm lượng kháng thể kháng PRRS (S/P) sau tiêm phòng ở heo con có sử dụng ASCOGEN® từ heo nái sử dụng
ASCOGEN® cao hơn heo con không sử dụng ASCOGEN® từ heo nái sử dụng ASCOGEN® (P<0,01) và heo
con không sử dụng ASCOGEN® từ heo nái đối chứng (P<0,01). Sự khác biệt này cũng thể hiện trên heo con có
sử dụng ASCOGEN® từ heo nái đối chứng so với heo con không sử dụng ASCOGEN® từ heo nái đối chứng
(P<0,05). Có sự khác biệt thống kê giữa lô đối chứng so với lô thí nghiệm (bổ sung ASCOGEN®) ở khối lượng
heo sơ sinh: 1,54 kg±0,23 so với 1,38 kg±0,26 (P<0,05) và không có sự khác biệt ở khối lượng heo cai sữa 6,2
kg±0,99 so với 5,98 kg±1,09 (P=0,060). Kết quả thí nghiệm cho thấy bổ sung ASCOGEN® vào khẩu phần của
heo có hiệu quả cải thiện đáp ứng miễn dịch sau tiêm phòng và cải thiện năng suất heo.
Từ khóa: ASCOGEN®, đáp ứng miễn dịch, heo.
Affect of ASCOGEN® supplementing in feed to immune response of
gestational sows after PRRS and CSF vaccination and sucking piglets
Doan Tran Vinh Khanh, Nguyen Pham Huynh, Tran Truc Anh,
Klaus Hoffmann, Do Tien Duy
SUMMARY
The objective of this study was to evaluate the affect of ASCOGEN® supplementing in feed to the
immune response of the gestational sows after PRRS and CSF vaccination and the sucking piglets. The
studied results showed that the antibody content against hog cholera in the sows eating supplemented
ASCOGEN® was (81.43 ± 9.22), higher than that of the control sows (80.77 ± 9.05) after 28 days
of vaccination. In the time of before vaccination, there was a difference (P <0.05) of maternal derived
1. Khoa Chăn nuôi Thú y, Đại học Nông Lâm Tp. HCM
2. Công ty TNHH thương mại tiếp thị CMS, Việt Nam
3. Chemoforma Ltd., Rheinstrasse 28-32, CH-4302 Augst, Switzerland
6KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
antibody (MDA) in the sucking piglets feeding or un-feeding ASCOGEN® came from the sows feeding
ASCOGEN® in comparison with the sucking piglets un-feeding ASCOGEN® came from the control sows;
and MDA of the sucking piglets feeding ASCOGEN® from the control sows was significantly higher (P
<0.05) than that of the sucking piglets un-feeding ASCOGEN®. After vaccination, the antibody content
against PRRS in the sucking piglets feeding ASCOGEN® was higher than that of the sucking piglets
unfeeding ASCOGEN® came from the same sows feeding ASCOGEN® (P<0.01) and the sucking piglets
un-feeding ASCOGEN® came from the control sows (P<0.01). This difference was also expressed in the
piglets feeding ASCOGEN® in comparison with those of un-feeding ASCOGEN® came from the control
sows (P <0.05). There was a significant difference on the weight of the new-born piglets came from
the sows feeding ASCOGEN® and the control sows (1.54 kg±0.23 versus 1.38 kg±0.26), respectively
(P <0,05). Similarly the weight of the weaning piglets came from the experimental and control sow
groups was 6.2 kg±0.99 versus 5.98 kg±1.09, respectively (P=0.060). The studied results showed that
ASCOGEN® supplementing in feed was effective in improving the immune response of the gestational
sows after vaccination and the sucking piglets as well as improving the piglet growth performance.
Keywords: ASCOGEN®, immune response, pig.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiều giải pháp thay thế kháng sinh trong
phòng trị bệnh được lựa chọn trong thời gian qua
trên heo, gồm có vacxin phòng bệnh, probiotics,
prebiotics, dầu chiết xuất từ thực vật, peptide
kháng khuẩn, kháng thể thụ động, men tiêu hóa,
acid hữu cơ, hay thực khuẩn thể,với các cơ
chế tác động trực tiếp hay gián tiếp khác nhau
(Thacker, 2013). Hơn nữa, chiết xuất nấm men cả
thành tế bào nấm men (beta-glucans) hay nhân
tế bào nấm men (nucleotides) cũng được đề cập
đến với tính năng tăng cường khả năng miễn dịch
của thú nuôi và cũng là nguồn bổ sung giá trị
dinh dưỡng. Nucleotides là hợp chất sinh học
tham gia vào quá trình phân chia của tế bào
nên nó tham dự vào sự tăng trưởng và đáp ứng
miễn dịch của động vật (Carver và Walker, 1995;
Whitehead và ctv., 2006; Rutz, 2007). Cho dù là
giải pháp lựa chọn nào để thay thế kháng sinh thì
con đường thúc đẩy tăng sức kháng bệnh bằng
miễn dịch trực tiếp hay gián tiếp cũng là một lựa
chọn tối ưu và hứa hẹn bổ trợ hiệu quả cho các
giải pháp phòng bệnh khác.
Nucleotides là thành phần cấu tạo của acid
nucleic, RNA và DNA. Nucleotides và các dẫn
chất của chúng có vai trò quan trọng trong quá
trình chuyển hóa sinh học của cơ thể (Whitehead
và ctv., 2006). Nucleotides có khả năng cải thiện
khả năng hấp thu chất dinh dưỡng, tham gia
vào quá trình phân chia của tế bào nên tăng
cường hoạt động của hệ thống miễn dịch, từ đó
giúp thú đề kháng với các tác nhân gây bệnh
tốt hơn (Tibbetts, 2007; Rutz và ctv., 2007; Hess
và ctv., 2012). Những tế bào thay thế mới liên
tục trong cơ thể đều phải sử dụng nucleotides để
hình thành nhân tế bào qua quá trình sinh tổng
hợp DNA và RNA. Nucleotides rất cần thiết
cho các hoạt động của hệ thống miễn dịch để
sửa chữa tế bào sau khi bị tổn thương do bệnh
tật và giúp ngăn ngừa bệnh. Tác dụng cải thiện
tăng trưởng và đáp ứng miễn dịch sau tiêm phòng
cũng được báo cáo bởi một số tác giả (Ramadan
và Atef, 1991; Ramadan và ctv., 1994). Ngoài
ra, nucleotides cải thiện sự phát triển của nhung
mao ruột, tăng chiều dài nhung mao ruột làm
cho diện tích bề mặt của ruột lớn hơn và sự hấp
thu chất dinh dưỡng tốt hơn (Bustamante và ctv,
1994; Cheng và ctv., 2011; Peng và ctv., 2013).
ASCOGEN® là một chế phẩm thương mại
(CHEMOFORMA, Thụy Sỹ), là tổ hợp thành
phần chứa RNA tinh chế được trích từ nấm men,
nucleotides tinh chế, tiền chất của nucleotides, các
acid hữu cơ và nấm men vô hoạt. Các thành phần
chính của chế phẩm sẽ giúp gia tăng năng suất chăn
nuôi thông qua việc gia tăng đáp ứng miễn dịch,
hiệu lực của vacxin, cải thiện và gia tăng khả năng
hấp thu, tiêu hóa dưỡng chất. Tác dụng của chế
phẩm này đã được thử nghiệm chứng minh hiệu
quả trên gia cầm và cá ở nhiều nước (Thongwittaya
và ctv, 1992; Pelicia và ctv., 2009; Yu và ctv, 2002),
nhưng thông tin kết quả thử nghiệm trên heo còn
hạn chế, nhất là ở vai trò kích thích đáp ứng miễn
7KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
dịch sau tiêm phòng. Ở các trại chăn nuôi heo, việc
tiêm phòng bệnh dịch tả heo và hội chứng rối loạn
sinh sản và hô hấp (PRRS) được chú trọng thực hiện
thường quy do tính chất quan trọng về dịch tễ của
chúng. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này nhằm
đánh giá ảnh hưởng của ASCOGEN® đến việc nâng
cao đáp ứng miễn dịch của vacxin (dịch tả heo và
PRRS) sau tiêm phòng trên heo nái mang thai và
heo con theo mẹ tại một trại chăn nuôi heo thương
phẩm.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được thực hiện tại Trại heo nái
chăn nuôi thương phẩm (300 nái). Tổng số 60
heo nái mang thai, đồng đều về giống (YL) và
lứa đẻ (2-6), có sức khỏe tốt, được phân chia
ngẫu nhiên thành 2 nhóm thí nghiệm: nhóm A
(đối chứng, không bổ sung chế phẩm trong thức
ăn), nhóm B (thí nghiệm, bổ sung chế phẩm
ASCOGEN® trong thức ăn theo liều khuyến
cáo của nhà sản xuất). Heo nái ở 2 nhóm thí
nghiệm được bố trí tương đối đồng đều về tình
trạng sức khỏe, giống, lứa đẻ, thời điểm sinh và
được chăm sóc nuôi dưỡng theo cùng quy trình
của trại như kiểu chuồng nhốt, thức ăn, cách cho
ăn, nước uống, không trộn kháng sinh, không sử
dụng các hormone. Heo nái ở 2 nhóm thí nghiệm
được tiêm phòng theo đúng quy trình của trại về
thời điểm và kỹ thuật tiêm; trong đó vacxin dịch
tả heo (CSF) được cố định thời điểm tiêm (tuần
mang thai thứ 10; Suigen HC, Virbac) và kỹ thuật
tiêm đồng đều giữa hai nhóm thí nghiệm. Heo
nái cũng được tiêm phòng PRRS (Ingelvac MLV
PRRS; công ty Boehringer Ingelheim Vetmedica,
Inc) đồng loạt mỗi 4 tháng (3 lần/năm). Ở lô heo
thí nghiệm, ASCOGEN® được bổ sung liên tục
vào thức ăn (phun trên bề mặt cám hỗn hợp dạng
viên) bắt đầu trước thời điểm tiêm phòng CSF hai
tuần; trong khi đó heo nái ở lô đối chứng không
bổ sung chế phẩm này (bảng 1A).
Bảng 1A. Bố trí bổ sung ASCOGEN® trong thí nghiệm trên heo nái
Nhóm Ký hiệu Số heo Thức ăn cơ bản ASCOGEN®
Đối chứng A 30 x o
Thí nghiệm B 30 x x
Heo con của 15 heo nái ở mỗi nhóm thí
nghiệm (A, B) sẽ được chọn ngẫu nhiên để phân
làm 4 nhóm thí nghiệm (bảng 1B) nhằm so sánh
khả năng tăng trưởng và đáp ứng miễn dịch của
heo con từ nái không được bổ sung và nái có bổ
sung chế phẩm; thời gian bổ sung chế phẩm từ
khi tập ăn đến cai sữa (28 ngày tuổi), với liều
khuyến cáo 1kg/ tấn thức ăn. Heo con được tiêm
phòng PRRS (Ingelvac MLV PRRS; công ty
Boehringer Ingelheim Vetmedica, Inc) và CSF
(Suigen HC, Virbac) lúc 28 và 35 ngày tuổi,
tương ứng. Quy trình chăm sóc, cho ăn uống,
chuồng nuôi và phòng các bệnh khác đều giống
nhau ở hai nhóm heo.
Bảng 1B. Bố trí bổ sung ASCOGEN® trong thí nghiệm trên heo con
Nhóm Lô TN Số nái Số heo con Thức ăn cơ bản ASCOGEN®
Đối chứng A1A2
15 150 x x
15 150 x o
Thí nghiệm B1B2
15 150 x x
15 150 x o
Ghi chú: A1 và A2 từ heo mẹ không bổ sung ASCOGEN®; B1 và B2 từ heo mẹ có bổ sung ASCOGEN®
8KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
2.2. Thu mẫu và phân tích phòng thí nghiệm
Huyết thanh của tất cả các heo nái được thu
thập 2 tuần trước tiêm phòng (ngay thời điểm bổ
sung chế phẩm) và 28 ngày sau tiêm phòng CSF
để xác định hàm lượng kháng thể kháng CSF
(Blocking titer). Thời điểm tiêm phòng PRRS
trên nái theo quy trình đồng loạt mỗi 4 tháng/lần
nên thí nghiệm chỉ theo dõi được đáp ứng miễn
dịch CSF trước và sau khi bổ sung chế phẩm.
Huyết thanh của 15 heo con (mỗi con/nái) ở mỗi
nhóm A1, A2 (nái đối chứng) và B1, B2 (nái thí
nghiệm có bổ sung) được thu thập ngẫu nhiên
để kiểm tra hàm lượng kháng thể kháng PRRS
và CSF trước và sau tiêm phòng 28 ngày (CSF)
và 35 ngày (PRRS), thời điểm tiêm phòng cho
heo con thí nghiệm vacxin PRRS lúc 28 ngày
tuổi và vacxin CSF lúc 35 ngày tuổi. Hàm lượng
kháng thể (blocking titer) kháng virus CSF được
kiểm tra theo hướng dẫn của bộ kít thương mại
CSFV Ab Test (IDEXX, Mỹ). Hàm lượng kháng
thể kháng PRRSV (S/P IgG) được xác định theo
hướng dẫn của bộ kít thương mại PRRS X3 Ab
test (IDEXX, Mỹ).
2.3. Xử lý thống kê
Hàm lượng kháng thể ở các thời điểm giữa 2
lô thí nghiệm được so sánh thống kê bằng trắc
nghiệm pairwise t-test và sự khác biệt giữa các
chỉ tiêu năng suất được xử lý thống kê theo trắc
nghiệm Tukey. Sự khác biệt được xem là có ý
nghĩa khi P < 0,05.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đáp ứng miễn dịch trên heo thí nghiệm
3.1.1. Trên heo nái
Hàm lượng kháng thể (% Blocking IgG/
ELISA) dịch tả heo trên heo trước khi tiêm
phòng ở nhóm nái bổ sung ASCOGEN®
(78,21±9,38) thấp hơn so với nhóm nái đối
chứng (79,81±9,00); nhưng hàm lượng này lại
cao hơn trên nhóm nái bổ sung ASCOGEN®
(81,43±9,22) so với nhóm nái đối chứng
(80,77±9,05) vào thời điểm sau tiêm phòng 28
ngày. Tuy nhiên, không có sự khác biệt giữa
hai nhóm heo thí nghiệm khi xử lý thống kê
(P>0,05).
Biểu đồ 1. Kháng thể (% Blocking IgG/ELISA) dịch tả heo trên heo nái
ở thời điểm I (P>0,05) và ở thời điểm II (P>0,05)
Thời điểm I trước tiêm phòng 14 ngày; Thời điểm II sau tiêm phòng 28 ngày
Hàm lượng kháng thể kháng dịch tả heo so
sánh trên heo nái giữa lô đối chứng và lô thí
nghiệm bổ sung ASCOGEN® không có sự khác
biệt ở thời điểm trước và sau tiêm phòng. Tuy
nhiên, có sự đáp ứng miễn dịch tốt hơn ở thời
điểm sau tiêm phòng (81,43±9,22%) so với
trước tiêm phòng (78,21±9,38%) ở nhóm nái thí
nghiệm có bổ sung; mặc dù ở thời điểm trước
9KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
tiêm phòng, hàm lượng kháng thể của nhóm
heo nái này có phần thấp hơn lô đối chứng
(79,81±9,00%). Chỉ số kháng thể blocking titer
= 50 là cut-off cho thấy kháng thể dương tính
và là ngưỡng bảo hộ chống nhiễm virus CSF.
Chỉ số blocking titer = 50 có sự tương quan cao
với ngưỡng hàm lượng kháng thể trung hòa (NA
hoặc NPLA; IDEXX, Mỹ). Ở trại thí nghiệm,
quy trình tiêm phòng CSF trên heo nái mang thai
(tuần 8, 9 hoặc 10) được duy trì ổn định ít nhất
đã 3 năm trước thời gian nghiên cứu, và ở thời
điểm thí nghiệm (trước khi tiêm phòng), 60/60
heo nái ở hai lô thí nghiệm đều có blocking titer
>50. Tiêm phòng vacxin CSF nhược độc có sự
ổn định miễn dịch bảo hộ cao trên heo nái ở
cả quy trình tiêm khi nái mang thai, tiêm theo
lứa sau khi sinh và tiêm đồng loạt 2 lần/năm
(Suradhat và ctv., 2007).
3.1.2. Trên heo con
Hàm lượng kháng thể % Blocking IgG/
ELISA dịch tả heo ở heo con sử dụng
ASCOGEN®
(cả từ heo mẹ đối chứng và sử
dụng ASCOGEN®) cao hơn heo con không sử
dụng chế phẩm; tuy nhiên sự khác biệt chưa có
ý nghĩa thống kê. Ở thời điểm trước tiêm phòng
1 tuần (28 ngày tuổi), có sự khác biệt (P<0,05)
kháng thể thụ động dịch tả heo (MDA) giữa
heo con có hoặc không sử dụng ASCOGEN®
từ nái sử dụng ASCOGEN® (lô B1 và B2) so
với heo con không sử dụng ASCOGEN® từ heo
nái đối chứng (lô A2); và kháng thể thụ động
dịch tả heo (MDA) của heo con có sử dụng
ASCOGEN® từ nái đối chứng (lô A1) cũng cao
hơn có ý nghĩa (P<0,05) so với heo con không
sử dụng ASCOGEN® từ nái đối chứng (lô A2)
trong thí nghiệm.
Biểu đồ 2A. Hàm lượng kháng thể (% Blocking IgG/ELISA) dịch tả heo trên heo con
Sự khác biệt thống kê ở lần xét nghiệm I giữa nhóm B1, B2 vs. A2 (P<0,05); và giữa nhóm A1 vs.
A2 (P<0,05). Thời điểm I trước tiêm phòng 7 ngày; thời điểm II sau tiêm phòng 28 ngày
Hàm lượng kháng thể CSF heo mẹ cao sẽ
truyền qua sữa đầu cho con của chúng và kéo
dài nhiều tuần sau khi sinh tùy theo lượng kháng
thể thực sự nhận được từ sữa đầu (Suradhat và
Damrongwatanapokin, 2003; Suradhat và ctv.,
2007). Hàm lượng kháng thể thụ động này rất
quan trọng để bảo hộ heo con trong những tuần
đầu tiên và quyết định thời điểm tiêm phòng
trên heo con để có hiệu quả đáp ứng miễn dịch
sau tiêm phòng vì kháng thể này có thể trung
hòa virus vacxin sống nhược độc khi tiêm cho
heo con còn hàm lượng kháng thể này cao trong
cơ thể. Heo con từ nái bổ sung ASCOGEN®
có hàm lượng kháng thể thụ động (MDA)
CSF cao hơn so với heo con của heo nái đối
chứng, kết quả này cho thấy có sự liên hệ giữa
10
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
kháng thể huyết thanh mẹ và huyết thanh heo
con của chúng thông qua sữa đầu (Suradhat và
Damrongwatanapokin, 2003).
Hàm lượng kháng thể kháng PRRS (S/P IgG)
sau tiêm phòng ở heo con có sử dụng ASCOGEN®
từ nái sử dụng ASCOGEN® (lô B1) cao hơn heo
con không sử dụng ASCOGEN® từ nái sử dụng
ASCOGEN® (lô B2) (P<0,01) và heo con không
sử dụng ASCOGEN® từ nái đối chứng (lô A2)
(P<0,01). Sự khác biệt cũng thể hiện trên heo con
có sử dụng ASCOGEN® từ nái đối chứng (lô A1)
so với heo con không sử dụng ASCOGEN® từ
nái đối chứng (lô A2) (P<0,05).
Trong thí nghiệm này, kháng thể kháng
PRRS trên heo mẹ không được so sánh giữa lô
đối chứng và thí nghiệm vì chương trình tiêm
phòng theo kiểu đồng loạt 3 lần/năm (4 tháng/
lượt), và quy trình đã ổn định trong 2 năm gần
đây nên không thể bố trí đồng thời để theo
dõi trước và đáp ứng sau tiêm phòng cùng với
tiêm phòng dịch tả heo. Có lẽ do tiêm phòng
đồng loạt nên hàm lượng kháng thể nhận được
trên heo con của các nái thí nghiệm khá đồng
đều (P>0,05) ở mức ngưỡng dương tính (S/
P>=0,4) tại thời điểm tiêm phòng (28 ngày tuổi;
cai sữa) của các lô B1 (S/P=0,4±0,27), B2 (S/
P=0,37±0,49), A1 (S/P=0,38±0,45) và A2 (S/
P=0,41±0,28) (biểu đồ 2B); và ở ngưỡng kháng
thể này là phù hợp cho mũi tiêm phòng đầu tiên
cho heo con. Sau 35 ngày tiêm phòng, tất cả heo
con thí nghiệm đều dương tính, và có khuynh
hướng cao hơn trên nhóm heo con có bổ sung
ASCOGEN® trong thức ăn. Hàm lượng kháng
thể sau tiêm phòng PRRS (MLV vacxin) thường
đạt dương tính (S/P>=0,4) sau 10-14 ngày và
đạt cao lúc 21-28 ngày (Duy và ctv., 2015) và
đạt đỉnh lúc 56 – 84 ngày rồi sau đó giảm dần,
kéo dài đến 6 tháng (Johnson và ctv. , 2004; Nan
và ctv. , 2017).
Không có nhiều thí nghiệm đánh giá hiệu
quả của việc bổ sung ASCOGEN® trong thức
ăn lên đáp ứng miễn dịch sau tiêm phòng ở heo,
nhưng nhiều nghiên cứu khác trên gia cầm,
cá,đã được chứng minh và báo cáo (Ramadan
và Atef, 1991; Thongwittaya và ctv, 1992;
Ramadan và ctv., 1994; Pelicia và ctv., 2009; và
Biểu đồ 2B. Kháng thể (S/P IgG/ELISA) PRRS trên heo con
Sự khác biệt thống kê ở lần xét nghiệm II giữa nhóm A1 vs. A2 (P<0,05) và giữa nhóm B1 vs. B2 (P<0,01)
và giữa nhóm B1 vs. A2 (P<0,01). Thời điểm I trước tiêm phòng; thời điểm II sau tiêm phòng 35 ngày
11
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
các báo cáo nội bộ của CHEMOFORMA, Thụy
Sỹ. Ở thí nghiệm này, bổ sung ASCOGEN® vào
khẩu phần của heo nái mang thai có hiệu quả
cải thiện đáp ứng miễn dịch sau tiêm phòng
dịch tả heo, nhất là kéo dài miễn dịch thụ động
(MDA) và ở heo con được sử dụng ASCOGEN®
vào thức ăn tập ăn cũng giúp tăng hiệu quả đáp
ứng miễn dịch sau tiêm phòng PRRS và dịch tả
heo. Nghiên cứu là bước đầu cho thấy tác dụng
của ASCOGEN®, mà trong thành phần chính là
nucleotides có thể phát huy tác dụng theo đặc
tính sinh học của nó (Whitehead và ctv., 2006;
Tibbetts, 2007; Rutz và ctv., 2007; Hess và ctv.,
2012); do đó, các nghiên cứu tiếp theo với các
chỉ tiêu khảo sát sâu hơn và cụ thể hơn như chỉ
số đáp ứng miễn dịch tế bào (IFNs) và kháng thể
trung hòa,...cần được thực hiện để chứng minh
tin cậy hơn về giá trị.
3.2. Năng suất sinh sản và tăng trọng heo con
thí nghiệm
Có sự khác biệt thống kê giữa lô đối
chứng (control) so với lô thí nghiệm (bổ sung
ASCOGEN®) ở trọng lượng sơ sinh 1,54 kg±0,23
so với 1,38 kg±0,26, tương ứng (P<0,05) và
gần có khác biệt ở trọng lượng heo cai sữa 6,2
kg±0,99 so với 5,98±1,09, tương ứng (P=0,060).
Số heo con còn sống đến cai sữa trung bình ở
lô thí nghiệm (bổ sung ASCOGEN®) là 11,16
kg và lô đối chứng (control) là 11,00 kg, nhưng
không có sự khác biệt (P>0,05).
Nucleotides (ASCOGEN® ) đã được báo cáo
qua các nghiên cứu về cải thiện khả năng hấp thu
chất dinh dưỡng, tham gia vào quá trình phân
chia của tế bào, nhất là những tế bào của cơ thể
có tính biệt hóa cao và thay thế liên tục như niêm
mạc tiêu hóa, sinh sản và miễn dịch (Whitehead
và ctv., 2006); nucleotides cải thiện sự phát triển
của nhung mao ruột, tăng chiều dài nhung mao
ruột để làm cho diện tích bề mặt trong của ruột
lớn hơn và sự hấp thu chất dinh dưỡng tốt hơn
(Cheng và ctv., 2011, Peng và ctv., 2013). Năng
suất nái thể hiện sự khác biệt (P<0,05) qua chỉ
số trọng lượng heo sơ sinh và dường như cũng
có sự khác biệt ở trọng lượng heo cai sữa, mặc
dù giá trị so sánh thống kê P>0,05 (P=0,060).
Các chỉ số năng suất cần dung lượng đơn vị thí
nghiệm nhiều hơn để có thể thấy được sự khác
biệt qua thống kê, nhưng ở thử nghiệm này kết
quả đã cải thiện 0,22kg (6,20-5,98) trọng lượng
bình quân trên một heo cai sữa và tăng thêm
0,16 (11,6-11,0) heo cai sữa/lứa có được từ thí
nghiệm này cũng không phải là con số nhỏ, tuy
nhiên hiệu quả kinh tế so sánh cần được tính
toán chi tiết dựa trên chỉ số đầu tư và thu hồi mà
thí nghiệm này chưa thể hiện.
IV. KẾT LUẬN
Bổ sung ASCOGEN® vào khẩu phần của heo
nái mang thai ở một trại heo thương phẩm cho
thấy có hiệu quả cải thiện đáp ứng miễn dịch
của vacxin dịch tả heo sau tiêm phòng, nhất là
kéo dài miễn dịch thụ động (MDA) và kích thích
miễn dịch tốt hơn trên heo con tiêm phòng. Heo
con được sử dụng ASCOGEN® vào thức ăn tập
ăn cũng giúp tăng đáp ứng miễn dịch của vacxin
sau tiêm phòng PRRS và dịch tả heo. Ngoài ra,
heo nái có sử dụng ASCOGEN® cũng cho kết
quả cao hơn về trọng lượng heo con sơ sinh và
cai sữa của chúng so với heo nái không sử dụng
chế phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Carver, JD., Walker, WA., 1995. The role of
nucleotides in human nutrition. The Journal
of Nutritional Biochemistry. 6(2): 58-72.
2. Cheng, Z., Buentello, A., Gatlin, DM., 2011.
3rd Dietary nucleotides influence immune
responses and intestinal morphology of red
drum Sciaenops ocellatus. Fish Shellfish
Immunol. 30: 143–147.
3. Duy, DT., Changhoon, P., Choi, K., Jiwoon,
J., Toan, NT., Khang, DN., Dai, VT., Chae,
C., 2015. Comparison of two genetically
distant type 2 porcine reproductive and
respiratory syndrome virus (PRRSV)
modified live vaccines against Vietnamese
highly pathogenic PRRSV. Veterinary
Microbiology. (2015): 1-9.
4. Hess, JR., and Norman, AG., 2012 .
12
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 6 - 2019
“The Role of Nucleotides in the Immune
and Gastrointestinal Systems: Potential
Clinical Applications. Nutrition in
Clinical Practice: Official Publication of
the American Society for Parenteral and
Enteral Nutrition. 27: 281–94. https://doi.
org/10.1177/0884533611434933.
5. Johnson,W., Roof, M., Vaughn, E.,
Christopher-Hennings, J., Johnson, CR.,
Murtaugh, MP., 2004. Pathogenic and
humoral immune responses to porcine
reproductive and respiratory syndrome virus
(PRRSV) are related to viral load in acute
infection. Vet. Immunol. Immunopathol.
102: 233–247.
6. Nan, Y., Wu, C., Gu, G., Sun, W., Zhang, Y-J
and Zhou, E-M., 2017. Improved Vaccine
against PRRSV: Current Progress and Future
Perspective. Front Microbiol. 8: 1635.
7. Peng, M., Xu, W., Ai, Q., Mai, K., Liufu,
Z., Zhang, K., 2013. Effects of nucleotide
supplementation on growth, immune
responses and intestinal morphology in
juvenile turbot fed diets with graded levels
of soybean meal (Scophthalmus maximus L.)
Aquaculture. 392-395: 51–58.
8. Pelicia, VC., Sartori, JR., Zavarize, KC.,
Pezzato, AC., Stradiotti, AC., Araujo, PC.,
Mituo MAO., Madeira, LA., 2009. Effect
of nucleotides on broiler performance and
carcass yield. Brazilian Journal of Poultry
Science. 12(1): 31-34.
9. Ramadan, A., Atef, M., 1991. Effect of the
biogenic performance enhancer (Ascogen
”S”) on growth rate of tilapia fish. Acta Vet
Scand. 87: S304–S306.
10. Ramadan, A., Afifi, NA., Moustafa, M.,
Samy, AM., 1994. The effect of ascogen
on the immune response of tilapia fish
to Aeromonas hydrophila vaccine. Fish
Shellfish Immunol. 5: 159–165.
11. Rutz, F., Xavier, EG., Anciuti, MA., Roll,
VFB., Rossi, P., 2007. The role of nucleotides
in improving broiler prestarter diets:
The Brazilian experience. Universidade
Federal de Pelotas, Pelotas, RS, Brazil.
poultry-
industry/articles/the-role-nucleotides-
improving-t557/p0.htm.
12. Suradhat, S., Damrongwatanapokin, S.,
Thanawongnuwech, R., 2007. Factors
critical for successful vaccination against
classical swine fever in endemic areas.
Veterinary Microbiology. 119(1): 1-9.
13. Suradhat, S., Damrongwatanapokin, S.,
2003. The influence of maternal immunity
on the efficacy of a classical swine fever
vaccine against classical swine fever
virus, genogroup 2.2, infection. Veterinary
Microbiology. 92(1-2): 187-94.
14. Thacker, PA., 2013, Alternatives to
antibiotics as growth promoters for use
in swine production: a review. Journal of
Animal Science and Biotechnology. 4(35):
1-22.
15. Thongwittaya, N., Pipoppinyo, S.,
Puranapong, P., 1992. Effects of ascogen
in broiler, layer and african catfist
rations.
uploads/1242741185816.pdf.
16. Tibbetts, GW., 2007. Nucleotides from
yeast extract: potential to replace animal
protein sources in food animal diets.
industry/
nutrition/articles/nucleotides-yeast-extract-
potential_340.htm.
17. Whitehead, J., Wadsworth, S., Carr, I., 2006.
The power of purified nucleotides. Aquact
Health Int. 4:14–16.
Ngày nhận 17-11-2018
Ngày phản biện 20-1-2019
Ngày đăng 1-9-2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_bo_sung_ascogen_len_nang_suat_va_dap_ung_mien_dich.pdf