Trong nghiên cứu của chúng tôi, 36 trường hợp
kẹp clip cầm máu qua nội soi có 2 trường hợp nội soi
cầm máu lần hai thất bại phải phẫu thuật chiếm tỷ
lệ 5,6% và 1 trường hợp tử vong 2,8%. Theo Chung
I.K, tỷ lệ phẫu thuật và tử vong của kẹp clip cầm máu
ở các bệnh nhân lần lượt là 4,9% và 2,4% [8]. Kẹp
clip cầm máu ở bệnh nhân xuất huyết do loét dạ dày
tá tràng trong nghiên cứu của tác giả Chou Y.C có tỷ
lệ phẫu thuật và tỷ lệ tử vong là 5,1% và 2,6% [7].
Qua tham khảo các nghiên cứu và kết quả nghiên
cứu của chúng tôi, kẹp clip cầm máu qua nội soi ở
các bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá
tràng có nguy cơ xuất huyết cao là một trong những
thủ thuật an toàn, mang lại hiệu quả cầm máu cao
từ đó làm giảm được tỷ lệ xuất huyết tái phát, giảm
tỷ lệ phẫu thuật và giảm tỷ lệ tử vong.
Trung bình số ngày nằm viện trong nghiên cứu của
chúng tôi là 9,44 ± 3,44 ngày. Kết quả này gần tương
đồng với các nghiên cứu của các tác giả khác. Nghiên
cứu của tác giả Lo C.C có trung bình ngày nằm viện
của kẹp clip phối hợp với tiêm adrenaline là 7,2 ngày
[15]. Theo Świdnicka-Siergiejko A, trung bình ngày
nằm viện của phương pháp tiêm adrenaline phối
hợp với kẹp clip là 9 ngày [18]. Trung bình ngày nằm
viện của phương pháp kẹp clip trong nghiên cứu của
tác giả Chou Y.C là 8 ngày [7]. Bệnh nhân xuất huyết
tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng có nguy cơ tái phát
cao cần được nội soi sớm trong vòng 24 giờ nhập
viện, phải điều trị cầm máu qua nội soi và phải dùng
thuốc ức chế bơm proton liều cao truyền tĩnh mạch
8mg/giờ trong 72 giờ, vì vậy bệnh nhân phải nằm
viện ít nhất là 4 ngày. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể
có bệnh phối hợp kèm theo, một số bệnh nhân xuất
huyết tái phát cần nội soi lại nên trung bình số ngày
nằm viện có thể dài hơn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 103 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả cầm máu ban đầu và cầm máu lâu dài của phương pháp kẹp cầm máu qua nội soi phối hợp thuốc ức chế bơm proton liều cao ở bệnh nhân xuất huyết do loét dạ dày tá tràng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
HIỆU QUẢ CẦM MÁU BAN ĐẦU VÀ CẦM MÁU LÂU DÀI
CỦA PHƯƠNG PHÁP KẸP CẦM MÁU QUA NỘI SOI
PHỐI HỢP THUỐC ỨC CHẾ BƠM PROTON LIỀU CAO
Ở BỆNH NHÂN XUẤT HUYẾT DO LOÉT DẠ DÀY TÁ TRÀNG
Huỳnh Hiếu Tâm1, Hồ Đăng Quý Dũng2
(1) Nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Khoa Nội soi, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng là một trong những bệnh cấp cứu thường gặp.
Hiệu quả cầm máu của các phương pháp điều trị qua nội soi đã được báo cáo trong nhiều nghiên cứu là trên
90%. Bốn nhóm được sử dụng trong điều trị cầm máu là các phương pháp đốt đông cầm máu bằng đầu dò
nhiệt, tiêm chất gây xơ cầm máu, các phương pháp phun chất cầm máu tại chỗ và các phương pháp cầm
máu cơ học. Phương pháp kẹp clip cầm máu qua nội soi là một phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả
cho những trường hợp xuất huyết do loét dạ dày tá tràng. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ cầm máu thành công của
phương pháp kẹp clip cầm máu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng trên
36 bệnh nhân xuất huyết do loét dạ dày tá tràng tại Bệnh viện Đa Khoa Trung ương Cần Thơ từ tháng 05/2012
đến tháng 11/2014. Tất cả bệnh nhân vào viện được nội soi cấp cứu cầm máu bằng phương pháp kẹp cầm
máu và sử dụng thuốc ức chế bơm proton liều cao. Kết quả: Tỷ lệ cầm máu ban đầu thành công là 97,2% và
cầm máu lâu dài là 91,7%. Tỷ lệ xuất huyết tái phát, tỷ lệ phẫu thuật và tỷ lệ tử vong lần lượt là 11,1%, 5,6%
và 2,8%. Kết luận: Điều trị kẹp clip cầm máu qua nội soi là phương pháp điều trị hiệu quả và an toàn cho bệnh
xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng.
Từ khóa: Loét dạ dày tá tràng, kẹp cầm máu, liệu pháp cầm máu qua nội soi.
Abstract
EFFICACY OF INITIAL AND PERMANENT HEMOSTASIS OF THE ENDOSCOPIC
HEMOCLIP METHOD COMBINED WITH HIGH-DOSE INFUSION
OF PROTON PUMP INHIBITOR IN PATIENTS WITH PEPTIC ULER BLEEDING
Huynh Hieu Tam1, Ho Dang Quy Dung2
(1) PhD Student of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Dept. of Endoscopy, Cho Ray Hospital
Background: Peptic ulcer bleeding is one of the common medical emergencies. The hemostatic efficacy
of endoscopic therapeutic modalities has been reported in many studies and frequently has been found
to exceed 90%. Four groups of modalities are used in the endoscopic management of bleeding peptic
ulcers: thermal probe methods, injection sclerotherapy, local spray methods, and mechanical hemostatic
therapy. The endoscopic hemoclip method is a safe and effective hemostatic therapy for managing bleeding
peptic ulcers. Objective: To determine the success rate of hemoclip in endoscopic hemostasis. Patients and
methods: Clinical intervention study on 36 patients with peptic ulcer bleeding admitted in Can Tho Central
General Hospital from May 2012 to November 2014. All the patients underwent emergency endoscopy for
hemostasis by hemoclip and high-dose PPI use. Results: The success rate of initial hemostasis was 97.2%,
and permanent hemostasis was 91.7%. The rates of rebleeding, surgery, mortality were 11.1%, 5.6%, 2.8%,
respectively. Conclusion: Endoscopic hemostasis therapy by clipping combined with high- dose PPI is an
effective, relatively safe treatment for peptic ulcer bleeding.
Key words: Peptic ulcer bleeding, hemoclip, endoscopic hemostasis therapy.
Địa chỉ liên hệ: Huỳnh Hiếu Tâm, email: huynhhieutam@gmail.com
Ngày nhận bài: 3/2/2018, Ngày đồng ý đăng: 2/4/2018; Ngày xuất bản: 27/4/2018
14
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Sơ đồ 1. Đặc điểm tiền sử bệnh
Tiền sử bệnh đáng ghi nhận là bệnh phối hợp, viêm loét dạ dày tá tràng và tiền sử xuất
huyết tiêu hóa. Tuy nhiên có 19,4% không ghi nhận có tiền sử bệnh.
Bảng 3.1. Đặc điểm lâm sàng
Các đặc điểm lâm sàng Kẹp cầm máu (n=36)
Vị trí loét gây xuất huyết
Loét dạ dày
Loét tá tràng
Loét dạ dày tá tràng
Kích thước trung bình ổ loét
Bệnh sử
Nôn máu
Đại tiện máu
Nôn và đại tiện máu
Đau thượng vị
Tình trạng choáng
Truyền máu
Trung bình lượng máu truyền
13 (36,1%)
16 (44,5%)
07 (19,4%)
9,71mm ± 5,03
04 (11,2%)
16 (44,4%)
16 (44,4%)
29/36 (80,6%)
8/36 (10,8%)
27/36 (75%)
4,73±4,49 đơn vị khối hồng cầu 250mL
Các đặc điểm lâm sàng như tình trạng đại tiện máu và vừa nôn và đại tiện máu, đau
thượng vị, số bệnh nhân có chỉ định truyền máu chiếm tỷ lệ cao.
Bảng 3.2. Đặc điểm cận lâm sàng
Các đặc điểm cận lâm sàng Kẹp cầm máu (n=36)
Trung bình Hemoglobin
Trung bình urê máu
Trung bình điểm Blatchford
Phân loại Forrest
FIA
FIB
FIIA
Trung bình kẹp sử dụng
8,71 ± 3,5 g/dL
13,05 ± 8,81 mmol/L
9,69 ± 3,71 điểm
03 (8,3%)
14 (38,9%)
19 (52,8%)
1,42 ± 0,77 kẹp
Đặc điểm cận lâm sàng như trung bình hemoglobin trong nhóm nghiên cứu tương đối
thấp và nội soi có tỷ lệ cao tổn thương FIIA.
Bảng 3.3. Hiệu quả cầm máu
Hiệu quả cầm máu Kẹp cầm máu (n=36)
0
27,8%
22,2%
30,6%
19,4%
Viêm loét dạ dày tá tràng
Xuất huyết tiêu hóa
Bệnh phối hợp
Không bệnh
Xác định tỷ lệ xuất huyết tái phát, tỷ lệ phẫu
thuật và tỷ lệ tử vong của phương pháp kẹp clip cầm
máu qua nội soi.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân xuất
huyết tiêu hóa trên do loét dạ dày tá tràng đang điều
trị nội trú tại Bệnh viện đa Khoa Trung ương Cần Thơ
từ tháng 05/2012 đến tháng 11/2014.
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp
lâm sàng, chọn mẫu ngẫu nhiên với cỡ mẫu là 36 bệnh
nhân xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng có
nguy cơ xuất huyết cao theo phân loại Forrest (FIA,
FIB, FIIA). Tất cả các bệnh nhân sau nội soi kẹp clip
cầm máu đều được sử dụng thuốc ức chế bơm
proton liều cao 8mg/giờ trong 72 giờ. Clip được sử
dụng trong nghiên cứu là loại clip ngắn HX-610-135,
hai cánh, xoay được của công ty Olympus. Các bệnh
nhân được theo dõi đến khi ra viện. Cầm máu lâu dài
thành công là sau nội soi điều trị và dùng thuốc ức chế
bơm proton bệnh nhân ổn định và được ra viện. Cầm
máu lâu dài thất bại là sau khi cầm máu lần đầu bị xuất
huyết tái phát và nội soi cầm máu lần hai thất bại.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 05/2012 đến tháng 11/2014, có 36
bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn chọn mẫu được đưa
vào nghiên cứu. Tuổi trung bình 56,8 ± 18,5, trung vị
58,5, tuổi nhỏ nhất 17, tuổi lớn nhất 87. Tỷ lệ về giới
tính giữa nam và nữ của nhóm nghiên cứu là 26/10
nam giới mắc bệnh gấp 2,6 lần nữ giới.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng là
một trong những bệnh cấp cứu thường gặp ở các
chuyên khoa tiêu hóa. Hiệu quả cầm máu của các
phương pháp điều trị qua nội soi đã được báo cáo
trong nhiều nghiên cứu là trên 90% [10]. Bốn nhóm
thường được sử dụng trong điều trị cầm máu là các
phương pháp đốt đông cầm máu bằng đầu dò nhiệt,
tiêm chất gây xơ cầm máu, các phương pháp phun
chất cầm máu tại chỗ và các phương pháp cầm máu
cơ học [13], [11]. Phương pháp kẹp clip cầm máu
đã được ứng dụng từ lâu trên thế giới và đã mang
lại hiệu quả cầm máu cao, xuất huyết tái phát thấp,
giảm được tỷ lệ phẫu thuật và giảm tỷ lệ tử vong.
Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu trong nước đề cập đến
vấn đề này.
Phương pháp kẹp clip cầm máu qua nội soi tuy
không mới nhưng rất cần thiết trong điều trị xuất
huyết tiêu hóa trên do loét dạ dày tá tràng vì tính
hiệu quả, an toàn và ít biến chứng. Trong khi đó, hầu
hết các bệnh viện ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
chưa có đề tài nghiên cứu nào ứng dụng về vấn đề
này. Chính vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Hiệu quả cầm máu ban đầu và cầm máu
lâu dài của phương pháp kẹp cầm máu qua nội soi
phối hợp thuốc ức chế bơm proton liều cao ở bệnh
nhân xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng”,
với các mục tiêu sau:
Xác định tỷ lệ cầm máu ban đầu và cầm máu lâu
dài của phương pháp kẹp clip cầm máu qua nội soi.
Sơ đồ 1. Đặc điểm tiền sử bệnh
Tiền sử bệnh đáng ghi nhận là bệnh phối hợp, viêm loét dạ dày tá tràng và tiền sử xuất huyết tiêu hóa.
Tuy nhiên có 19,4% không ghi nhận có tiền sử bệnh.
15
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 3.1. Đặc điểm lâm sàng
Các đặc điểm lâm sàng Kẹp cầm máu (n=36)
Vị trí loét gây xuất huyết
Loét dạ dày
Loét tá tràng
Loét dạ dày tá tràng
Kích thước trung bình ổ loét
Bệnh sử
Nôn máu
Đại tiện máu
Nôn và đại tiện máu
Đau thượng vị
Tình trạng choáng
Truyền máu
Trung bình lượng máu truyền
13 (36,1%)
16 (44,5%)
07 (19,4%)
9,71mm ± 5,03
04 (11,2%)
16 (44,4%)
16 (44,4%)
29/36 (80,6%)
8/36 (10,8%)
27/36 (75%)
4,73 ± 4,49 đơn
vị khối hồng cầu
250mL
Các đặc điểm lâm sàng như tình trạng đại tiện
máu và vừa nôn và đại tiện máu, đau thượng vị, số
bệnh nhân có chỉ định truyền máu chiếm tỷ lệ cao.
Bảng 3.2. Đặc điểm cận lâm sàng
Các đặc điểm cận lâm sàng Kẹp cầm máu (n=36)
Trung bình Hemoglobin
Trung bình urê máu
Trung bình điểm
Blatchford
Phân loại Forrest
FIA
FIB
FIIA
Trung bình kẹp sử dụng
8,71 ± 3,5 g/dL
13,05 ± 8,81 mmol/L
9,69 ± 3,71 điểm
03 (8,3%)
14 (38,9%)
19 (52,8%)
1,42 ± 0,77 kẹp
Đặc điểm cận lâm sàng như trung bình hemoglobin
trong nhóm nghiên cứu tương đối thấp và nội soi có
tỷ lệ cao tổn thương FIIA.
Bảng 3.3. Hiệu quả cầm máu
Hiệu quả cầm máu
Kẹp cầm máu
(n=36)
Cầm máu ban đầu
Thành công
Thất bại
Xuất huyết tái phát
Thời gian tái phát
Tái phát sớm trước 72 giờ
Tái phát muộn sau 72 giờ
Cầm máu lâu dài
Thành công
Thất bại
Phẫu thuật
Tử vong
Trung bình ngày nằm viện
35 (97,2%)
01 (2,8%)
4/36 (11,1%)
3/4 (75%)
1/4 (25%)
33 (91,7%)
03 (8,3%)
2/36 (5,6%)
1/36 (2,8%)
9,44 ± 3,44 ngày
Hiệu quả cầm máu ban đầu và cầm máu lâu dài
thành công của nhóm nghiên cứu đều cao trên 90%,
bệnh nhân xuất huyết tái phát sớm trước 72 giờ
chiếm tỷ lệ cao.
4. BÀN LUẬN
Tuổi trung bình chung của mẫu nghiên cứu là
56,8 ± 18,5. Tuổi trung bình của các nghiên cứu
trong nước và ngoài nước lần lượt là 59,82; 62; 62,3
[5], [14], [17]. Hầu hết các nghiên cứu có tuổi trung
bình chung của xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá
tràng xấp xỉ 60 tuổi, vì người cao tuổi có nhiều yếu
tố nguy cơ gây xuất huyết.
Về giới tính, trong nghiên cứu của chúng tôi nam
giới mắc bệnh gấp 2,6 lần nữ giới. Kết quả này tương
tự với các nghiên cứu trong và ngoài nước, có thể
nam giới có nhiều yếu tố nguy cơ mắc bệnh hơn như
tình trạng sử dụng rượu, bia, thuốc lá.
Đặc điểm về tiền sử bệnh, trong nghiên cứu của
chúng tôi ghi nhận có tỷ lệ cao 30,6% bệnh lý phối
hợp như đau nhức khớp phải dùng thuốc giảm đau,
bệnh lý tim mạch, hô hấp và suy thận. Các bệnh lý
phối hợp này góp phần làm gia tăng tỷ lệ xuất huyết
tái phát và tỷ lệ tử vong. Mặt khác, hai nhóm tiền sử
cũng có tỷ lệ cao là tiền sử viêm loét dạ dày tá tràng
và tiền sử xuất huyết tiêu hóa trước đó 27,8% và
22,2%. Tuy nhiên, 19,4% trường hợp không ghi nhận
có tiền sử bệnh trước đó, điều này cũng phù hợp với
một số báo cáo có khoảng 15-20% trường hợp xuất
huyết tiêu hóa không ghi nhận tiền sử bệnh trước
đó [3], [19].
Vị trí gây xuất huyết, loét tá tràng có tỷ lệ cao hơn
loét dạ dày nhưng biến chứng xuất huyết loét dạ dày và
tá tràng có tỷ lệ tương đương nhau [19]. Trong nghiên
cứu của chúng tôi xuất huyết do loét tá tràng hơi cao
hơn do loét dạ dày 44,5% so với 36,1%.
Kích thước trung bình ổ loét trong nghiên cứu
của chúng tôi là 9,71mm ± 5,03. Kích thước trung
bình ổ loét trong nghiên cứu của tác giả Lê Nhật Huy
là 12,5mm ± 4,4, của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn là
8,05mm ± 2,1 và của tác giả Chou Y.C là 12,6mm ±
3,98 [2], [5], [7]. Nhìn chung, kết quả của các nghiên
cứu đều có kích thước trung bình ổ loét ở mức độ
vừa, trong khi đó kích thước ổ loét nhất là các ổ loét
to 20mm là yếu tố nguy cơ cho kết quả lâm sàng xấu
ở các bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày
tá tràng.
Đặc điểm về bệnh sử, triệu chứng đại tiện máu
và vừa nôn và đại tiện máu trong nghiên cứu của
chúng tôi chiếm tỷ lệ cao 44,4% và 44,4%, đây là các
biểu hiện chính của bệnh lý xuất huyết do loét dạ
dày tá tràng. Đau bụng vùng thượng vị cũng là triệu
chứng thường gặp trong nghiên cứu của chúng tôi
16
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
80,6%. Nghiên cứu của tác giả Lê Thị Thu Hiền có
biểu hiện đau thượng vị là 70,6% [1]. Vì vậy, đau
bụng vùng thương vị là triệu chứng thường gặp và
quan trọng trong bệnh lý loét dạ dày tá tràng có biến
chứng xuất huyết.
Tình trạng choáng trong nghiên cứu của chúng
tôi chiếm tỷ lệ 10,8%, đây là những bệnh nhân có
nguy cơ xuất huyết tái phát cao. Theo Nguyễn Ngọc
Tuấn, có tới 18,5% bệnh nhân kẹp clip cầm máu ở
bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá
tràng có huyết áp tâm thu < 100mmHg [5]. Theo tác
giả Ahn D.W, bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa trên
được nội soi sớm và nội soi cấp cứu có 24,7% bệnh
nhân trong tình trạng choáng [6].
Vấn đề truyền máu, nghiên cứu của chúng tôi có
75% bệnh nhân có chỉ định truyền máu, với lượng
máu truyền trung bình khoảng 04 đơn vị khối hồng
cầu 250mL. Nghiên cứu của tác giả Đào Văn Long
có 13% bệnh nhân có nhu cầu truyền máu và lượng
máu truyền 0,5 đơn vị, thấp hơn nghiên cứu của
chúng tôi có thể do trung bình Hb trong nghiên
cứu của tác giả cao hơn nghiên cứu của chúng tôi
11,12g/dL so với 8,71g/dL [4]. Mặt khác, trung bình
điểm Blatchford trong nghiên cứu của chúng tôi là 9,69
3,71 điểm nên có khả năng truyền máu cao. Theo
Świdnicka-Siergiejko A có 79,4% bệnh nhân trong
nhóm nghiên cứu có nhu cầu truyền máu, gần tương
đồng với nghiên cứu của chúng tôi có thể do trung
bình Hb trong nghiên cứu của tác giả từ 8,4g/dL đến
8,6g/dL so với nghiên cứu của chúng tôi 8,71g/dL.
Tuy nhiên, lượng máu truyền trong nghiên cứu của
tác giả có phần thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi
2,7 đơn vị, điều này tùy thuộc vào chỉ định truyền
máu như truyền máu hạn chế hay truyền máu tự do,
ngưỡng Hb cần đạt được cho mỗi bệnh nhân trong
truyền máu hạn chế là từ 7-9g/dL hoặc truyền máu
tự do là Hb > 9g/dL [18], [20].
Nghiên cứu của chúng tôi có trung bình kẹp sử
dụng là 1,42 ± 0,77 kẹp. Theo Nguyễn Ngọc Tuấn,
trung bình clip được sử dụng là 2,13 kẹp. Nghiên
cứu của tác giả Lai Y.C có trung bình clip được dùng
là 3 clip. Hầu hết các nghiên cứu có trung bình clip
sử dụng cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi có
thể do mẫu nghiên cứu của các tác giả đa số là các
tổn thương đang chảy máu (FIA, FIB), ít tổn thương
FIIA nên sử dụng nhiều clip hơn, như nghiên cứu
của Nguyễn Ngọc Tuấn chỉ có 7,8% tổn thương FIIA,
nghiên cứu của tác giả Lai Y.C là những bệnh nhân
xuất huyết có tổn thương FIA, FIB. Trong khi đó,
nghiên cứu của chúng tôi có tổn thương FIIA là 52,8%.
Hiệu quả cầm máu, hầu hết các phương pháp
cầm máu qua nội soi như tiêm cầm máu, kẹp clip
cầm máu có tỷ lệ cầm máu ban đầu thành công rất
cao trên 90% trường hợp, không có sự khác biệt có
ý nghĩa về cầm máu ban đầu thành công giữa các
phương pháp cầm máu qua nội soi, tỷ lệ xuất huyết
tái phát thấp 2-10% ngoại trừ tiêm cầm máu bằng
adrenaline [10]. Tỷ lệ cầm máu ban đầu thành công
trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi là 97,2% và
cầm máu ban đầu thất bại thấp chiếm tỷ lệ 2,8%.
Trường hợp kẹp clip cầm máu thất bại là bệnh nhân
lớn tuổi 85 tuổi, có tiền sử bệnh phối hợp là lao phổi
cũ, vào viện có tình trạng rối loạn huyết động với
huyết áp tâm thu 80mmHg, sau khi hồi sức nội khoa
bệnh nhân được nội soi có ổ loét to 20mm vùng
thân vị phân loại Forrest FIB, nội soi kẹp clip cầm
máu thất bại do nền ổ loét viêm và hoại tử, tổng
trạng bệnh nhân nặng lên nên phải hoãn nội soi để
điều trị hồi sức, sau đó thân nhân xin về, bệnh được
xem là cầm máu thất bại và tử vong. Theo Nguyễn
Ngọc Tuấn, nghiên cứu kết quả của kẹp clip cầm
máu trên 38 bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa do loét
dạ dày tá tràng với kết quả cầm máu thành công là
94,7% và cầm máu thất bại là 5,3%, theo tác giả hai
trường hợp thất bại là do ổ loét to, chảy máu nhiều
và nội soi cầm máu hai lần đều bị tái phát [5].
Hình 3.1. Kẹp clip cầm máu do loét hành tá tràng FIB (bệnh nhân Trần Thị Kim T.)
17
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Xuất huyết tái phát của phương pháp kẹp clip có
tỷ lệ thấp là do phương pháp cầm máu cơ học có
tính bền vững và lâu dài, chỉ kém hiệu quả đối với
các ổ loét xơ chai và ổ loét ở các vị trí khó thực hiện
như vùng thân vị, mặt sau hành tá tràng. Tham khảo
một số nghiên cứu cho thấy các kết quả có tỷ lệ xuất
huyết tái phát khác nhau. Nghiên cứu của chúng tôi
có tỷ lệ xuất huyết tái phát là 11,1%. Theo Chung
I.K, xuất huyết tái phát của phương pháp kẹp cầm
máu thấp với tỷ lệ 2,4% [8]. Xuất huyết tái phát của
phương pháp kẹp clip trong nghiên cứu của tác giả
Chou Y.C gần tương đồng với nghiên cứu của chúng
tôi 10,3% [7]. Nghiên cứu của tác giả Saltzman J.R có
tỷ lệ xuất huyết tái phát của kẹp clip cao hơn nghiên
cứu của chúng tôi 15,4% [17]. Nhận xét 4/36 trường
hợp xuất huyết tái phát của kẹp clip trong nghiên
cứu của chúng tôi, sau khi nội soi lại chúng tôi nhận
thấy hai nguyên nhân chủ yếu là kẹp clip chưa đúng
vị trí tổn thương và tuột clip có thể do ổ loét xơ chai,
điều này còn phụ thuộc vào kỹ năng của bác sĩ nội
soi vì đây là phương pháp mới được triển khai ứng
dụng điều trị tại bệnh viện của chúng tôi.
Hình 3.2. Kẹp clip không đúng vị trí
(bệnh nhân Trần Văn H.)
Thời gian xuất huyết tái phát sau cầm máu qua
nội soi thường xảy ra sớm trong 24 giờ đầu đến 72
giờ. Theo Chung I.K có 20% trường hợp xuất huyết
tái phát trong 24 giờ đầu đến 72 giờ [9]. Báo cáo
của tác giả Ouali S.E, xuất huyết tái phát sau nội soi
cầm máu chiếm tỷ lệ cao trong 72 giờ 55,6%, tái
phát trong 7 ngày là 20%, 14 ngày là 17,8% và tái
phát trong vòng 28 đến 30 ngày là 6,7% [16]. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, thời gian xuất huyết tái
phát trong giai đoạn nằm viện của nhóm nghiên cứu
tính từ lúc nội soi cầm máu lần đầu, xuất huyết tái
phát sớm trong 72 giờ là 3/4 (75%) và xuất huyết
tái phát sau 72 giờ có 1/4 (25%) trường hợp nhưng
cũng trong vòng 7 ngày, do đó nghiên cứu của chúng
tôi đa số xuất huyết tái phát trong 72 giờ sau nội soi
cầm máu và hầu hết các trường hợp xuất huyết tái
phát thường xảy ra trong vòng 7 ngày phù hợp với
các báo cáo của các tác giả đã nêu trên. Vì vậy, đối
với các bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa do loét dạ
dày tá tràng có nguy cơ tái phát cao cần phải theo
dõi sát tình trạng xuất huyết trong 72 giờ đầu sau
nội soi điều trị.
Hiệu quả cầm máu lâu dài, sau khi nội soi điều
trị cầm máu, nội soi cầm máu lần hai trong những
trường hợp xuất huyết tái phát, nghiên cứu của
chúng tôi có tỷ lệ cầm máu lâu dài thành công là
91,7% và tỷ lệ cầm máu thất bại thấp 8,3% so với
cầm máu ban đầu thành công là 97,2% và cầm máu
thất bại là 2,8%. Theo Lai Y.C, kết quả kẹp clip cầm
máu lâu dài là 93% so với cầm máu ban đầu thành
công là 95% [14]. Nghiên cứu kẹp clip cầm máu
của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn có tỷ lệ cầm máu
thành công là 94,7% và cầm máu thất bại là 5,3%
[5]. Kết quả cầm máu thành công sau cùng của kẹp
clip trong nghiên cứu của tác giả Grgov S là 91,1%
[12]. Theo Chung I.K, kết quả cầm máu sau cùng
của nhóm kẹp clip là 95,1% [8]. Tổng hợp các kết
quả nghiên cứu của các tác giả trong nước, ngoài
nước và nghiên cứu của chúng tôi, hiệu quả cầm
máu sau cùng (cầm máu lâu dài) qua nội soi của
hầu hết các nghiên cứu đều đạt kết quả cao trên
90% và tỷ lệ cầm máu thất bại thấp dưới 10%. Qua
phân tích những trường trường hợp kẹp clip bị xuất
huyết tái phát do hai nguyên nhân chính là kẹp clip
không đúng vị trí tổn thương và tuột clip có thể do
ổ loét xơ chai. Vì vậy cần huấn luyện thêm kỹ năng
kẹp clip cho bác sĩ nội soi và điều dưỡng phục vụ
nội soi có thể nâng cao hiệu quả điều trị thành công
của phương pháp kẹp clip cầm máu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 36 trường hợp
18
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
kẹp clip cầm máu qua nội soi có 2 trường hợp nội soi
cầm máu lần hai thất bại phải phẫu thuật chiếm tỷ
lệ 5,6% và 1 trường hợp tử vong 2,8%. Theo Chung
I.K, tỷ lệ phẫu thuật và tử vong của kẹp clip cầm máu
ở các bệnh nhân lần lượt là 4,9% và 2,4% [8]. Kẹp
clip cầm máu ở bệnh nhân xuất huyết do loét dạ dày
tá tràng trong nghiên cứu của tác giả Chou Y.C có tỷ
lệ phẫu thuật và tỷ lệ tử vong là 5,1% và 2,6% [7].
Qua tham khảo các nghiên cứu và kết quả nghiên
cứu của chúng tôi, kẹp clip cầm máu qua nội soi ở
các bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá
tràng có nguy cơ xuất huyết cao là một trong những
thủ thuật an toàn, mang lại hiệu quả cầm máu cao
từ đó làm giảm được tỷ lệ xuất huyết tái phát, giảm
tỷ lệ phẫu thuật và giảm tỷ lệ tử vong.
Trung bình số ngày nằm viện trong nghiên cứu của
chúng tôi là 9,44 ± 3,44 ngày. Kết quả này gần tương
đồng với các nghiên cứu của các tác giả khác. Nghiên
cứu của tác giả Lo C.C có trung bình ngày nằm viện
của kẹp clip phối hợp với tiêm adrenaline là 7,2 ngày
[15]. Theo Świdnicka-Siergiejko A, trung bình ngày
nằm viện của phương pháp tiêm adrenaline phối
hợp với kẹp clip là 9 ngày [18]. Trung bình ngày nằm
viện của phương pháp kẹp clip trong nghiên cứu của
tác giả Chou Y.C là 8 ngày [7]. Bệnh nhân xuất huyết
tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng có nguy cơ tái phát
cao cần được nội soi sớm trong vòng 24 giờ nhập
viện, phải điều trị cầm máu qua nội soi và phải dùng
thuốc ức chế bơm proton liều cao truyền tĩnh mạch
8mg/giờ trong 72 giờ, vì vậy bệnh nhân phải nằm
viện ít nhất là 4 ngày. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể
có bệnh phối hợp kèm theo, một số bệnh nhân xuất
huyết tái phát cần nội soi lại nên trung bình số ngày
nằm viện có thể dài hơn.
5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu kẹp cầm máu 36 bệnh nhân xuất
huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng có nguy cơ tái
phát cao, chúng tôi đưa ra một số kết luận:
Hiệu quả cầm máu ban đầu cao 97,2% và cầm
máu thất bại thấp 2,8%.
Hiệu quả cầm máu lâu dài 91,7% và cầm máu
thất bại là 8,3%.
Điều trị kẹp clip cầm máu qua nội soi là phương
pháp điều trị hiệu quả và an toàn cho bệnh nhân
xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng.
6. KIẾN NGHỊ
Kẹp clip cầm máu là một trong những phương
pháp điều trị đạt hiệu quả cao nhưng chưa được
sử dụng rộng rãi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long,
cần phổ biến để sử dụng rộng rãi nhằm đạt hiệu quả
điều trị tốt hơn. Kẹp cầm máu là dụng cụ không thể
thiếu ở các đơn vị nội soi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Thu Hiền (2014), “Triệu chứng lâm sàng, nội soi
bệnh nhân loét dạ dày tá tràng có biến chứng chảy máu”, Tạp
chí Y học thực hành, 906(2), tr. 78- 80.
2. Lê Nhật Huy, Nguyễn Văn Hương (2014), “Đánh
giá kết quả điều trị nội soi can thiệp cấp cứu xuất huyết
tiêu hóa do loét dạ dày- hành tá tràng”, Tạp chí Y học thực
hành, 902(1), tr. 33- 36.
3. Đào Văn Long (2016), ''Xuất huyết tiêu hóa do loét
dạ dày tá tràng'', Bệnh học nội khoa, Nhà xuất bản Y học,
tr. 38- 45.
4. Đào Văn Long, Vũ Trường Khanh, Trần Thị Thanh Thảo,
Trần Ngọc Ánh (2012), "Đánh giá kết quả tiêm cầm máu
với Adrenaline 1/10.000 qua nội soi kết hợp rabeprazole
(Rabeloc) tĩnh mạch liều cao ở bệnh nhân xuất huyết do loét
dạ dày tá tràng”, Tạp chí khoa học tiêu hóa Việt Nam, VII(28),
tr. 1827- 1834.
5. Nguyễn Ngọc Tuấn, Tạ Văn Ngọc Đức, Châu Quốc Sử
(2012), “Kết quả kẹp clip cầm máu trong xuất huyết tiêu
hóa do loét dạ dày tá tràng”, Y học TP. Hồ Chí Minh, 16(11),
tr. 137- 146.
6. Ahn D.W, Park Y.S, Lee S.H et al. (2016), “Clinical
outcome of acute nonvariceal upper gastrointestinal
bleeding after hours: the role of urgent endoscopy”,
The Korean journal of internal medicine, 31(3), pp.
470- 478.
7. Chou Y.C, Hsu P.I, Lai K.H et al. (2003), “A prospective,
randomized trial of endoscopic hemoclip placement and
distilled water injection for treatment of high-risk bleeding
ulcers”, Gastrointestinal endoscopy, 57(3), pp. 324-328.
8. Chung I.K, Ham J.S, Kim H.S et al. (1999), “Comparison
of the hemostatic efficacy of the endoscopic hemoclip
method with hypertonic saline–epinephrine injection and
a combination of the two for the management of bleeding
peptic ulcers”, Gastrointestinal endoscopy, 49(1), pp. 13-18.
9. Chung I.K (2014), “Predictive factors for endoscopic
hemostasis in patients with upper gastrointestinal
bleeding”, Clinical endoscopy, 47(2), pp. 121- 123.
10. Fujishiro M, Iguchi M, Kakushima N et al. (2016),
“Guidelines for endoscopic management of non-variceal
upper gastrointestinal bleeding”, Digestive Endoscopy,
28(4), pp. 363-378.
11. Gralnek I.M, Dumonceau Jean.M, Kuipers E.J et
al. (2015), “Diagnosis and management of nonvariceal
upper gastrointestinal hemorrhage: European Society of
Gastrointestinal Endoscopy (ESGE) Guideline”, Endoscopy,
47(10), pp. a1-a46.
12. Grgov S, Radovanović-Dinić B, Tasić T (2013),
“Could application of epinephrine improve hemostatic
efficacy of hemoclips for bleeding peptic ulcers?: A
prospective randomized study”, Vojnosanitetski pregled,
70(9), pp. 824-829.
19
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
13. Hwang J.H, Fisher D.A, Ben-Menachem T et al.
(2012), “The role of endoscopy in the management of
acute non-variceal upper GI bleeding”, Gastrointestinal
endoscopy. 75(6), pp. 1132-1138.
14. Lai Y.C, Yang S.S, Wu C.H et al. (2000), “Endoscopic
hemoclip treatment for bleeding peptic ulcer”, World journal of
gastroenterology, 6(1), pp. 53-56.
15. Lo C.C, Hsu P.I, Lo G.H et al. (2006), “Comparison
of hemostatic efficacy for epinephrine injection alone
and injection combined with hemoclip therapy in
treating high-risk bleeding ulcers”, Gastrointestinal
endoscopy, 63(6), pp. 767-773.
16. Ouali S.E, Barkun A.N, Martel M et al. (2014),
“Timing of rebleeding in high-risk peptic ulcer bleeding
after successful hemostasis: a systematic review”,
Canadian Journal of Gastroenterology and Hepatology,
28(10), pp. 543-548.
17. Saltzman J.R, Strate L.L, Di Sena V et al. (2005),
“Prospective trial of endoscopic clips versus combination
therapy in upper GI bleeding (PROTECCT—UGI bleeding)”,
The American journal of gastroenterology, 100(7), pp.
1503-1508.
18. Świdnicka-Siergiejko A, Rosołowski M, Wróblewski
E et al. (2014), “Comparison of the efficacy of two
combined therapies for peptic ulcer bleeding: adrenaline
injection plus haemoclipping versus adrenaline injection
followed by bipolar electrocoagulation”, Przeglad
gastroenterologiczny, 9(6), pp. 354-360.
19. Valle J.D (2015), “Peptic ulcer disease and related
disorders”, Harrison’s principles of internal medicine, Mc
Graww Hill Education, pp. 1911- 1921.
20. Villanueva C, Colomo A, Bosch A et al. (2013),
“Transfusion strategies for acute upper gastrointestinal
bleeding”, New England Journal of Medicine, 368(1),
pp. 11-21.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cam_mau_ban_dau_va_cam_mau_lau_dai_cua_phuong_phap.pdf