Miệng nối mật‐ruột được thực hiện ở hợp
lưu 2 ống gan (56,25%) và ngay dưới hợp lưu
(43,75%). Đây là một trong những ưu điểm lớn
nhất của cắt nang cấp cứu so với dẫn lưu nang
tạm thời vì cắt nang sau khi đã dẫn lưu nang
tạm thời thường rất khó khăn do dính, đôi khi
không thể cắt bỏ được nang hoàn toàn mà phải
thực hiện phẫu thuật tạm bợ như nối nang‐ruột
(nang‐hỗng tràng hay nang‐tá tràng) hoặc nếu
có thể cắt bỏ được nang thì cũng rất khó khăn để
nối cao mật‐ruột(10). Điều này cho thấy chúng ta
hoàn toàn có thể thực hiện được nối cao mật
ruột ngay trong lần mổ cấp cứu và phương
pháp này nên là lựa chọn đầu tiên cho thủng
nang OMC.
Với thời gian mổ từ 80 − 290 phút (trung vị là
137,5 phút), chúng tôi thấy hoàn toàn có thể
chấp nhận được và không quá dài so với cắt
nang khi không có biến chứng thủng. Mặt
khác,lượng máu mất khi mổ không nhiều, chỉ 4
(12,5%) trường hợp chảy máu lúc mổ hơn 100 ml
và phải truyền máu. Đây cũng có thể được xem
là yếu tố ủng hộ cho cắt nang.
Diễn tiến hậu phẫu cũng tương đối ổn định:
chảy máu cần phải mổ lại trong 1 trường hợp do
rối loạn đông máu, rò mật sau mổ ở 1 trường
hợp nhưng tự lành, tụ dịch cần mổ lại cũng chỉ
trong một trường hợp. Do đó thời gian nằm viện
của bệnh nhi cũng không quá dài so với cắt
nang OMC chưa biến chứng thủng vỡ.
Chúng tôi không theo dõi được bệnh nhi
sau xuất viện để đánh giá các biến chứng
muộn cũng như chất lượng sống của bệnh nhi.
Mặc dù vậy, những báo cáo có thời gian theo
dõi sau mổ dài đều cho thấy bệnh nhi có sức
khỏe tốt, không có biến chứng viêm đường
mật, hẹp miệng nối
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 112 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả cắt nang trong điều trị thủng nang ống mật chủ ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 529
HIỆU QUẢ CẮT NANG TRONG ĐIỀU TRỊ
THỦNG NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM
Chu Văn Lai*, Trương Nguyễn Uy Linh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm của mổ cắt nang trong điều trị thủng nang ống mật chủ ở trẻ em.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu tất cả các hồ sơ bệnh án của bệnh nhi được chẩn đoán
thủng nang ống mật chủ và được điều trị cắt nang tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 01/01/2004 tới 31/12/2012. Các
dữ liệu được tập hợp phân tích bao gồm đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, các biến chứng trong và sớm sau mổ.
Kết quả: Có 32 trường hợp thủng nang ống mật chủ. Tuổi từ 1 − 154 tháng, trung vị là 24 tháng.Trẻ gái
chiếm 75%. Biểu hiện lâm sàng bao gồm sốt 75%, ói 43,75%, đau bụng 78,13%, vàng da 25%, phân bạc màu
6,25%, chướng bụng 75%, đề kháng 46,88%, khối dưới sườn phải 15,63%. Chẩn đoán được trước mổ trong
90,63%. Thời gian mổ 137,5 phút. Không có trường hợp nào tử vong sau mổ.
Kết luận: Mổ cắt nang trong điều trị thủng nang ống mật chủ ở trẻ em là khả thi, an toàn cho kết quả ban
đầu tốt và nên là lựa chọn ưu tiên ở những trung tâm nhi khoa nhiều kinh nghiệm.
Từ khóa: Nang ống mật chủ, thủng nang ống mật chủ, viêm phúc mạc mật, mổ cắt nang.
ABSTRACT
THE EFFECT OF PRIMARY CYST EXCISION FOR PERFORATED CHOLEDOCHAL CYST
IN CHILDREN
Chu Van Lai, Truong Nguyen Uy Linh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 529 ‐ 533
Objective: The aim of this study is to evaluate the early effect of primary cyst excision for perforated
choledochal cyst in children.
Methods: Medical records of all patientswith perforated choledochal cyst undergoing primary cyst excision
at Pediatric Hospital No.1 from 01/2004‐12/2012 were review. The clinical, paraclinical presentations, diagnosis,
operative procedures, complications and early results were analyzed.
Results: There were 32 patients, with median age 24 months (ranged from 1 to 154 months) and female
dominance (75%). The clinical manifestations were fever in 75%, vomitting 43.75%, abdominal pain 78.13%,
jaundice 25%, acholic stool 6.25%, abdominal distention 75%, abdominal tenderness 46.88% and palpable mass
15.63%. The median operative time were 137.5 minutes. There was no death.
Conclusions: The primary cyst excision for perforated choledochal cyst in children is safe, feasible, with
early good results and should be preferred in pediatric experienced centers.
Keywords: Choledocal cyst, perforated choledochal cyst, bile peritonitis, primary cyst excision.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nang ống mật chủ (OMC) là tình trạng dãn
bẩm sinh dạng cầu hay dạng thoi của đường
mật trong và ngoài gan. Tại Bệnh viện Nhi đồng
1 hàng năm có hơn 100 trẻ được chẩn đoán và
phẫu thuật(10). Điều trị chuẩn cho nang OMC
chưa biến chứng là cắt trọn nang, nối cao mật
ruột theo Roux‐en‐Y.Trong các biến chứng của
nang OMC, thủng nang là một tình huống cấp
* Bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai, ** Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Chu Văn Lai ĐT: 01693924936 Email: lovosarcoma@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 530
cứu, gặp với tỉ lệ 4,1 ‐ 18,2%(1,4,9,11). Nguyên nhân
thủng nang chưa được biết rõ nên thường gọi là
thủng nang tự nhiên.Chẩn đoán thủng nang vẫn
là một thách thức đối với các bác sĩ lâm sàng, tỉ
lệ chính xác chỉ đạt được từ 38,46 − 78,9%(1,11).
Ngày nay, cắt nang lúc cấp cứu là phẫu thuật
được đa số các tác giả lựa chọn cho thủng nang
để thay thế dẫn lưu mật tạm thời(2,4,6,8,10,12). Tuy
nhiên, tính khả thi,an toàn của phương pháp
này vẫn chưa được đánh giá đầy đủ do đa số các
báo cáo chỉ dựa trên một số ít trường hợp. Chính
vì vậy, chúng tôi thấy cần có một nghiên cứu với
số lượng lớn hơn để đánh giá kết quả của phẫu
thuật cắt nang trong điều kiện hiện tại.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá kết quả sớm của mổ cắt nang trong
điều trị thủng nang OMC ở trẻ em.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một hồi cứu mô tả loạt ca bệnh.
Chúng tôi hồi cứu tất cả các hồ sơ bệnh án của
bệnh nhi được chẩn đoán thủng nang OMC và
được điều trị tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ
01/01/2004 tới 31/12/2012.
Các dữ liệu được tập hợp phân tích bao gồm
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, các biến
chứng trong và sớm sau mổ.
KẾT QUẢ
Trong 9 năm từ 1/2004 đến 12/2012 tại Bệnh
viện Nhi đồng 1 có 38 trường hợp viêm phúc
mạc mật, gồm 32 (84,21%)do thủng nang OMC,
6 do nguyên nhân khác (4 thủng OMC mà
không có dãn đường mật,1 vỡ nang gan ở phân
thùy IV,1 u ác tính đường mật ngoài gan). Trong
cùng thời gian có 907 trường hợp nang OMC
được điều trị, vì vậy tỉ lệ biến chứng thủng nang
là 3,53%.
Tuổi từ 1 − 154 tháng, trung vị là 24 tháng. Giới
tính: 24 nữ, 8 nam, tỉ lệ nữ/nam là 3/1.
Có 25 (78,13%) do bệnh viện tuyến dưới
chuyển tới, 7 (21,87%) tự đến. Trong 25 trường
hợp được chuyển viện, 13 (52%) đã được xác
định có nang OMC, tuy nhiên không có trường
hợp nào chẩn đoán được thủng nang.
Thời gian từ lúc khởi bệnh đến khi nhập
viện từ 2 − 30 ngày, trung vị là 4 ngày, 2 trường
hợp đã có lịch mổ chương trình.
Triệu chứng lâm sàng được thể hiện qua
Bảng 1.
Bảng 1: Các triệu chứng lâm sang
Triệu chứng Số trường hợp Tỉ lệ %
Sốt 24 75
Ói 14 43,75
Đau bụng 25 78,13
Vàng da 8 25
Phân bạc màu 2 6,25
Chướng bụng 24 75
Đề kháng 15 46,88
Khối dưới sườn phải 5 15,63
Siêu âm (SA) xác định được nang ở 27
(84,38%) trong 32 trường hợp. Trong 27 trường
hợp được chẩn đoán nang OMC, SA xác định
thủng nang trong 2 (7,41%) và nghi ngờ ở 21
(77,78%) trường hợp. Bốn trường hợp còn lại
(14,81%), SA không gợi ý được thủng nang.
Kích thước nang đo được trên SA từ 8 − 92
mm, trung vị là 25 mm. Có 4 trường hợp được
thực hiện SA nhiều lần, ngoài xác định được
nang như lần đầu, SA lần sau còn ghi nhận dịch
tự do ổ bụng.
Phân loại nang dựa vào SA trước mổ: 26
(81,25%) loại I, 6 (18,75%) loại IVa (theo Todani).
Chọc dò dịch ổ bụng dưới đánh dấu của SA
trong 17 (53,13%) trường hợp: hút được dịch
mật ở 16 (94,12%), 1 không hút được do lượng
dịch ít và khu trú.
Dung tích hồng cầu từ 22 − 46%, trung bình
là32,19 ± 5,16%. Chức năng đông máu bị rối loạn
19 (59,38%) trường hợp. Bilirubin trực tiếp trong
máu máu tăng ở tất cả 26 trường hợp được thử
nghiệm (100%), đa số là tăng nhẹ từ 0,26 − 4,72
mg%, trung vị là 1,14 mg%.
Chẩn đoán trước mổ là thủng nang trong 24
(75%), thủng OMC trong 5 (15,63%), viêm ruột
thừa có biến chứng 1 (3,12%), nang OMC chưa
có biến chứng 2 (6,25%). Ở trường hợp được
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 531
chẩn đoán viêm ruột thừa có biến chứng, SA
trước mổ ghi nhận viêm phúc mạc nghi do viêm
ruột thừa kèm nang OMC. Tuy nhiên bệnh nhi
không được thực hiện chọc dò dịch ổ bụng.
Biểu hiện lâm sàng nặng, cần phải hồi sức
trước mổ ở 4 trường hợp: 1 nhiễm trùng huyết, 2
nhiễm trùng huyết kèm rối loạn đông máu và 1
mất máu cấp. Tuy nhiên, cả 4 trường hợp đều
được mổ cắt nang triệt để mà không phải dẫn
lưu đường mật tạm thời.
Lỗ thủng được tìm thấy trong 31 (96,88%)
trường hợp, 3 trường hợp có 2 lỗ thủng. Thủng ở
mặt trước nang trong 25 trường hợp (73,54%),
mặt sau 4 (11,76%), bên phải 2, bên trái 1, đáy
nang 1, đáy túi mật 1.
Kích thước lỗ thủng từ 2 − 5 mm. Bờ lỗ
thủng hoại tử, mủn được ghi nhận trong tất cả
các trường hợp. Có 2 (6,25%) trường hợp hình
thành nang giả ở vùng cửa gan.
Sau khi cắt nang, nối ống gan‐hỗng tràng
theo Roux‐en‐Y trong 31 (96,88%) trường hợp,
trường hợp còn lại được nối ống gan‐tá tràng do
bệnh nhi có nhiễm trùng huyết và rối loạn đông
máu nặng, cần rút ngắn thời gian mổ.
Miệng nối mật‐ruột được thực hiện tại hợp
lưu hai ống gan trong 18 trường hợp (56,25%),
dưới hợp lưu ở 14 (43,75%) trường hợp.
Thời gian mổ từ 80 − 290 phút, trung vị là
137,50 phút.
Máu mất khi mổ từ 20 − 1300 ml. Có 4
(12,5%) cần truyền trong lúc mổ.
Kết quả sau mổ được thể hiện qua Bảng 2.
Bảng 2.Các biến chứng sớm sau mổ
Biến chứng Số trường hợp Tỉ lệ %
Tử vong 0 0
Chảy máu sau mổ 1 3,12
Rò mật 1 3,12
Tụ dịch 6 18,75
Nhiễm trùng vết mổ 1 3,12
Tổng cộng 9 28,13
Có 1 trường hợp chảy máu phải mổ lại,
nguyên nhân do rối loạn đông máu nặng kèm
theo. Mộttrường hợp rò mật (ống dẫn lưu dưới
gan vẫn ra dịch mật sau ngày thứ 7 hậu phẫu)
nhưng tự lành vào ngày thứ 11 hậu phẫu.Tụ
dịch sau mổ ở 6 trường hợp: 5 đáp ứng với điều
trị nội, 1 phải mổ lại để dẫn lưu khối tụ
dịch.Nhiễm trùng vết mổ 1 trường hợp, lành tốt
với chăm sóc vết thương.
Bệnh nhi được xuất viện từ 6 − 22 ngày sau
mổ, trung vị là 11,5 ngày. Một bệnh nhi có thời
gian nằm viện 140 ngày do có bệnh nặng kèm
theo (loạn sản phế quản phổi và có trào ngược
dạ dày thực quản).
BÀN LUẬN
Thủng nang là biến chứng tương đối hiếm
gặp của nang OMC với tỉ lệ được ghi nhận cao ở
các nước phương Tây so với các nước châu
Á(1,3,4,9). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ
thủng nang được ghi nhận là 3,53%. Đến thời
điểm hiện tại, đây là nghiên cứu loạt ca lâm sàng
về biến chứng thủng nang có số lượng lớn nhất
so với các nghiên cứu trước đây ở cả trong nước
và trên thế giới. Do thủng nang là nguyên nhân
của 84,21% trong tổng số 38 trường hợp gây
viêm phúc mạc mật.Từ đó, chúng tôi thấy rằng
nếu chọc dò ổ bụng ra dịch mật ở một trường
hợp viêm phúc mạc thì thủng nang OMC phải
được nghĩ tới đầu tiên.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có
trường hợp nào được chẩn đoán chính xác
thủng nang trong 25 trường hợp được chuyển
viện tới mặc dù có tới 52% trường hợp đã được
xác định nang OMC. Điều này cho thấy thủng
nang OMC còn ít được biết đến ở các bệnh viện
đa khoa, các bệnh viện chuyên nhi của các tỉnh.
Vì vậy, tập huấn về chẩn đoán biến chứng này
đối với tuyến cơ sở là cần thiết.
Do biểu hiện trên lâm sàng là một tình
trạng viêm phúc mạc hóa học vô trùng nên các
triệu chứng về bụng của thủng nang OMC
thường không đặc hiệu(1,4). Trong khi đó, các
triệu chứng gợi ý bất thường của đường mật
như vàng da, phân bạc màu, khối dưới sườn
phải ít xuất hiện nên thủng nang hiếm khi
được lưu tâm để có được chẩn đoán sớm,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 532
chính xác trên lâm sàng và đôi khi chẩn đoán
chỉ được xác định trong khi mổ.
Theo nhiều tác giả, trong đa số trường hợp,
SA chỉ cho các dấu hiệu gợi ý chẩn đoán như
nang OMC kèm tụ dịch quanh nang và/hoặc có
tràn dịch ổ bụng kèm theo, rất ít các trường hợp
SA cho thấy sự mất liên tục thành nang và có sự
thông thương giữa nang với một nang giả
khác(7,12).Trong nghiên cứu của chúng tôi, khả
năng định hướng chẩn đoán của SA là khá cao
với 85,19% số trường hợp, trong đó có 2 (7,14%)
trường hợp SA xác định thủng nang với dấu
hiệu mất liên tục thành nang. Ngoài ra, ở những
bệnh nhiđược SA nhiều lần, nếu SA lần sau
ngoài xác định nang OMC như lần đầu còn có
thêm dịch trong ổ bụng thì chẩn đoán thủng
nang nên được nghĩ tới.
Trong thủng nang OMC, do lượng dịch ổ
bụng thường nhiều và với sự hỗ trợ của SA nên
chọc dò dịch ổ bụng dễ thực hiện thành công và
an toàn. Tuy nhiên, nếu chọc dò không được
thực hiện sẽ thường gây chẩn đoán nhầm thủng
nang với một bệnh khác như viêm ruột thừa có
biến chứng, u nang ổ bụng(1,11)... Một trường hợp
của chúng tôi do không được thực hiện chọc dò,
dẫn đến chẩn đoán trước mổ là viêm ruột thừa
có biến chứng.Trong hoàn cảnh thiếu các
phương tiện chẩn đoán hình ảnh hiện đại như ở
nước ta hiện nay thì sự kết hợp giữa lâm sàng,
SA và chọc dò có thể giúp chẩn đoán xác định
thủng nang trong đa số trường hợp.
Tình trạng lâm sàng trước mổ là yếu tố
quyết định bệnh nhi được cắt nang hay chỉ dẫn
lưu mật tạm thời(1,2). Chúng tôi có 12,5% trường
hợp lâm sàng nặng. Tuy nhiên tất cảđều được
hồi sức ổn định và được cắt nang cấp cứu. Từ đó
cho thấy với trình độ của phẫu thuật viên cùng
sự tiến bộ của gây mê, hồi sức ngoại nhi thì cắt
nang có thể được thực hiện thường quy cho tất
cả các trường hợp một cách an toàn.
Miệng nối mật‐ruột được thực hiện ở hợp
lưu 2 ống gan (56,25%) và ngay dưới hợp lưu
(43,75%). Đây là một trong những ưu điểm lớn
nhất của cắt nang cấp cứu so với dẫn lưu nang
tạm thời vì cắt nang sau khi đã dẫn lưu nang
tạm thời thường rất khó khăn do dính, đôi khi
không thể cắt bỏ được nang hoàn toàn mà phải
thực hiện phẫu thuật tạm bợ như nối nang‐ruột
(nang‐hỗng tràng hay nang‐tá tràng) hoặc nếu
có thể cắt bỏ được nang thì cũng rất khó khăn để
nối cao mật‐ruột(10). Điều này cho thấy chúng ta
hoàn toàn có thể thực hiện được nối cao mật
ruột ngay trong lần mổ cấp cứu và phương
pháp này nên là lựa chọn đầu tiên cho thủng
nang OMC.
Với thời gian mổ từ 80 − 290 phút (trung vị là
137,5 phút), chúng tôi thấy hoàn toàn có thể
chấp nhận được và không quá dài so với cắt
nang khi không có biến chứng thủng. Mặt
khác,lượng máu mất khi mổ không nhiều, chỉ 4
(12,5%) trường hợp chảy máu lúc mổ hơn 100 ml
và phải truyền máu. Đây cũng có thể được xem
là yếu tố ủng hộ cho cắt nang.
Diễn tiến hậu phẫu cũng tương đối ổn định:
chảy máu cần phải mổ lại trong 1 trường hợp do
rối loạn đông máu, rò mật sau mổ ở 1 trường
hợp nhưng tự lành, tụ dịch cần mổ lại cũng chỉ
trong một trường hợp. Do đó thời gian nằm viện
của bệnh nhi cũng không quá dài so với cắt
nang OMC chưa biến chứng thủng vỡ.
Chúng tôi không theo dõi được bệnh nhi
sau xuất viện để đánh giá các biến chứng
muộn cũng như chất lượng sống của bệnh nhi.
Mặc dù vậy, những báo cáo có thời gian theo
dõi sau mổ dài đều cho thấy bệnh nhi có sức
khỏe tốt, không có biến chứng viêm đường
mật, hẹp miệng nối(4,6,8,11,12).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 32 trường hợp thủng nang
OMC được mổ cắt nang chúng tôi nhận thấy
rằng thủng nang là biến chứng tương đối hiếm
gặp trong nang OMC, biểu hiện bằng bệnh cảnh
viêm phúc mạc mật với những triệu chứng
không đặc hiệu gây khó khăn cho chẩn đoán.
Việc kết hợp giữa lâm sàng, chọc dò dịch ổ bụng
và siêu âm giúp chẩn đoán trong đa số các
trường hợp. Mổ cắt nang lúc cấp cứu là khả thi,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 533
an toàn cho kết quả ban đầu tương đối tốt và
nên là lựa chọn ưu tiên ở những trung tâm nhi
khoa nhiều kinh nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ando K, Miyano T, Kohno S (1998). ʺSpontaneous perforation
of choledochal cyst: a study of 13 casesʺ, Eur J Pediatr Surg
8(1), pp. 23‐25.
2. Arda IS,Tuzun M, Aliefendioglu D(2005). ʺ Spontaneous
rupture of extrahepatic choledochal cyst: two pediatric cases
and literature reviewʺ, Eur J Pediatr Surg 15(5), pp. 361‐363.
3. Buyukyavuz I, Ekinci S, Ciftci AO (2003). ʺA retrospective
study of choledochal cyst: clinical presentation, diagnosis and
treatmentʺ, Turk J Pediatr 45(4), pp. 321‐325.
4. Chiang L, Chui CH, Low Y (2011), ʺPerforation: a rare
complication of choledochal cysts in childrenʺ, Pediatr Surg Int
27(8), pp. 823‐827.
5. Evans K, Marsden N, Desai A (2010). ʺSpontaneous
perforation of the bile duct in infancy and childhood: a
systematic reviewʺ, J Pediatr Gastroenterol Nutr 50(6), pp.
677‐681.
6. Franga DL, Howell CG, Mellinger JD (2005). ʺSingle‐stage
reconstruction of perforated choledochal cyst: case report and
review of the literatureʺ, Am Surg 71(5), pp. 398‐401.
7. Fumino S, Iwai N, Deguchi E (2006). ʺSpontaneous rupture of
choledochal cyst with pseudocyst formation‐report on 2 cases
and literature reviewʺ, J Pediatr Surg 41(6), pp. e19‐e21.
8. Moss RL, Musemeche CA (1997). ʺSuccessful management of
ruptured choledochal cyst by primary cyst excision and
biliary reconstructionʺ, J Pediatr Surg 32(10), pp. 1490‐1491.
9. Stringer MD, Dhawan A, Davenport M (1995). ʺCholedochal
cysts: lessons from a 20 years experienceʺ, Arch Dis Child
73(6), pp. 528‐531.
10. Trương Nguyễn Uy Linh, Nguyễn Kinh Bang, Đào Trung
Hiếu (2006), ʺPhẫu thuật cắt nang một thì cho thủng nang ống
mật chủ ở trẻ emʺ, Y học Thành phố Hồ Chí Minh, tập 10(1), tr.
216‐219.
11. Trần Ngọc Sơn, Nguyễn Thanh Liêm (2011), ʺĐiều trị nang
ống mật chủ hoại tử thủng với viêm phúc mạc mật: phẫu
thuật một thì so với hai thìʺ, Y học Thành phố Hồ Chí Minh tập
15(3), tr. 101‐105.
12. Yasufuku M, Hisamatsu C, Nozaki N (2012). ʺA very low‐
birth‐weight infant with spontaneous perforation of a
choledochal cyst and adjacent pseudocyst formationʺ, J Pediatr
Surg 47(7), pp. e17‐e19.
Ngày nhận bài báo: 26/10/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/10/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cat_nang_trong_dieu_tri_thung_nang_ong_mat_chu_o_tr.pdf