5. Sống còn và tử vong:
TÌNH TRẠNG BN
LÚC 6 THÁNG
TACE
( N = 39)
RFA
(N = 37)
Tổng P
không liên lạc được 10% ( 4) 0% ( 0) 5% ( 4) 0,044
còn sống 80% (31) 97% (36) 88% (67)
Tử vong 10% ( 4) 3% ( 1) 7% ( 5)
- Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhóm RFA có tỷ lệ sống còn cao hơn và tỷ lệ tử
vong thấp hơn so với nhóm TACE.- Các nghiên cứu khác cũng ghi nhận tỷ lệ sống với trị liệu bằng RFA cao hơn TACE.
Wei Yang [20] đã nghiên cứu trên 103 bệnh nhân có UTBMTBG kích thước < 8 cm
và số lượng < 5 u ghi nhận tỷ lệ sống còn toàn bộ 1, 3, và 5 năm tương ứng là 73,9%,
51,1%, và 28% ở nhóm RFA; 65,8%, 38,9%, và 19,5% ở nhóm TACE; và 88,5%,
64,6%, và 44,3% ớ nhóm điều trị kết hợp.
Hồ Tấn Phát và cộng sự (Nghiên cứu nguyên nhân và kết quả điều trị ung thư biểu mô
tế bào gan bằng thuyên tắc mạch hóa dầu - Tạp chí Y học thực hành tháng 12/2009)
đã ghi nhận từ tháng 07/1999 đến tháng 07/2000 tại khoa Nội Tiêu Hóa Bệnh viện
Chợ Rẫy, 56 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan quá chỉ định phẫu thuật đã được
điều trị bằng TACE cho thấy tỷ lệ bệnh nhân sống sau 6 tháng là 35,7% và sau 1 năm
là 5,4%.
Võ Hội Trung Trực (Nghiên cứu phương pháp phá hủy bằng sóng radio UTBMTBG
có kích thước không quá 5 cm – Báo cáo Hội nghị khoa học thường niên Bệnh viện
Chợ Rẫy năm 2012) đã báo cáo tỷ lệ sống sau 1 năm theo dõi 30 bệnh nhân
UTBMTBG được điều trị bằng RFA là 93,33%.
6. Chi phí điều trị trung bình:
TACE (N=31) RFA (N = 34) P
CHI PHÍ ĐIỀU TRỊ TRUNG
BÌNH LÚC 6 THÁNG (VNĐ)
28.913.290
± 10.809. 177
5.311.765
±1.880.807
<0,001
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chi phí cho việc làm RFA thấp hơn nhiều
so với TACE, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của đốt nhiệt cao tần (RFA)trên ung thư biểu mô tế bào gan không đáp ứng hoàn toàn với thuyên tắc hóa trị qua động mạch(Tace), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HIỆU QUẢ CỦA ĐỐT NHIỆT CAO TẦN (RFA)TRÊN UNG THƯ BIỂU MÔ
TẾ BÀO GAN KHÔNG ĐÁP ỨNG HOÀN TOÀN
VỚI THUYÊN TẮC HÓA TRỊ QUA ĐỘNG MẠCH(TACE)
BS CKII Trần Nhựt Thị Ánh Phượng, TS BS Lê Thành Lý
(Khoa Nội Tiêu Hóa-Gan Mật, Bệnh viện Chợ Rẫy)
BS CKII Nguyễn Đình Song Huy, Ths BS Võ Hội Trung Trực
(Khoa U Gan, Bệnh viện Chợ Rẫy)
MỤC TIÊU: Đánh giá hiệu quả làm hoại tử u của RFA, so sánh tác dụng phụ và tính
hiệu quả-kinh tế giữa RFA và TACE trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan
(UTBMTBG) không thể phẫu thuật đã được TACE nhưng không đáp ứng hoàn toàn
và thỏa chỉ định của RFA sau 6 tháng theo dõi.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP: Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu được thực hiện
tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 08/2011 đến tháng 01/2013, gồm 76 bệnh nhân
UTBMTBG không đáp ứng hoàn toàn với điều trị được chia làm 2 nhóm: 39 bệnh
nhân được làm TACE nhắc lại (nhóm TACE) và 37 bệnh nhân được điều trị với RFA
(nhóm RFA). Mỗi bệnh nhân được theo dõi trong thời gian 6 tháng.
KẾT QUẢ: Tỷ lệ hoại tử u hoàn toàn ở nhóm RFA cao hơn nhóm TACE (95% so
với 59%, p < 0,001). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tác dụng phụ của
2 phương pháp điều trị (p = 0,335). Tỷ lệ bệnh ổn định với điều trị và tỷ lệ sống vào
thời điểm 6 tháng ở nhóm RFA tương ứng là 79% và 97%, ở nhóm TACE tương ứng
là 39% và 80%. Chi phí điều trị trung bình ở nhóm RFA thấp hơn đáng kể so với
nhóm TACE (5.311.765 ± 1.880.807 VNĐ so với 28.913.290 ± 10.809.177 VNĐ, p <
0,001).
KẾT LUẬN: RFA có hiệu quả điều trị tốt hơn so với TACE trên bệnh nhân
UTBMTBG không thể phẫu thuật. Vì thế, nên chọn lựa RFA để điều trị tiếp theo
trong những trường hợp UTBMTBG không đáp ứng hoàn toàn với TACE nhưng thỏa
chỉ định RFA.
Từ khóa: ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG), đốt nhiệt cao tần (RFA), thuyên
tắc hóa trị qua động mạch (TACE).
RFA EFFICACY ON HEPATOCELLULAR CARCINOMA
WITHOUT COMPLETE RESPONSE TO TACE
Tran Nhut Thi Anh Phuong, MD, Le Thanh Ly, MD, PhD, Department of Hepatology
and Gastroenterology, Nguyen Dinh Song Huy, MD, Vo Hoi Trung Truc, MD, Liver
cancer unit, Cho Ray hospital.
AIM: To access radiofrequency ablation (RFA) efficacy on tumor necrosis and to
compare the adverse effects, the cost-effectiveness between RFA and transarterial
chemoembolization (TACE) procedure in unresectable hepatocellular carcinoma
(HCC) which is not responsive completely to TACE but eligible for RFA after 6-
month follow-up period.
SUBJECTS AND METHODS: From August 2011 to January 2013, a prospective
cohort study was performed at Cho Ray hospital. 76 patients with unresectable HCC
which is not responsive completely to TACE but eligible for RFA were included .
They were divided into 2 groups: 39 patients treated by repeated TACE (TACE
group), and 37 patients received RFA (RFA group) . Each patient was followed-up
until 6 months after treatment.
RESULTS: The tumor necrosis rate was higher in the RFA group than in the TACE
group (95% vs 59%, p < 0,001). There was no significant difference in adverse effects
between the two treatment methods (p = 0,335). The 6-month local progression-free
and survival rates were 79% and 97% respectively in the RFA group; 39% and 80%
respectively in the TACE group. The mean cost of treatment was significantly lower
in the RFA group than the TACE group (5.311.765 ± 1.880.807 VND vs 28.913.290
± 10.809.177 VND, p < 0,001).
CONCLUSION: RFA was more effective in treating unresectable HCC compared to
TACE procedure. RFA can thus be a valuable choice of treatment for unresectable
HCC in case of non-complete response to TACE but eligibility for RFA.
Key words: hepatocellular carcinoma (HCC), radiofrequency ablation (RFA),
transarterial chemoembolization (TACE).
I. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU:
Ung thư biểu mố tế bào gan hiện tại có tần suất mắc bệnh khá cao, và là nguyên nhân
tử vong do ung thư đứng hàng thứ 3 trên thế giới. Tại Việt Nam, các thống kê tại các
bệnh viện và các khu vực cũng cho thấy rõ UTBMTBG là một trong những ung thư
phổ biến nhất cho cả 2 giới, nhất là nam [4].
Ghép gan và phẫu thuật cắt bỏ khối u gan là phương pháp điều trị triệt để tốt nhất.
Tuy nhiên, ghép gan vẫn chưa được thực hiện phổ biến tại Việt Nam. Phẫu thuật cắt
bỏ khối u gan đem lại khả năng sống còn đến 30 – 50%, nhưng phần lớn bệnh nhân
(BN) quá chỉ định phẫu thuật vì khối u đã tiến triển. TACE và RFA là 2 trong số
những phương pháp điều trị giành cho những trường hợp này.
Trong thủ thuật TACE, chất làm nghẽn động mạch tạm thời được đưa vào giúp tạo
nồng độ cao của thuốc kháng ung thư bên trong khối u trong một thời gian dài với độc
tính toàn thân thấp nhất..
RFA dựa trên sự tương tác của dòng điện xoay chiều tần số cao (460-480 KHz) với
mô sống để sinh năng lượng nhiệt qua sự va chạm ion. góp phần vào sự hoại tử đông
của sang thương đích. Thuận lợi chính của RFA là tỷ lệ biến chứng và tử vong thấp,
sự hủy u hiệu quả, và bảo tồn tối đa nhu mô gan bình thường, điều này đặc biệt cần
thiết cho những bệnh nhân có chức năng gan còn lại hạn chế.
TACE kết hợp RFA có thể thuận lợi hơn so với đơn trị liệu. Sự giảm dòng máu nuôi
khối u bởi TACE có thể làm giảm sự mất nhiệt, gia tăng kích thước vùng bị hủy bởi
RFA. Vì thế, điều trị phối hợp TACE và RFA có thể làm giảm tỷ lệ tiến triển tại chỗ,
cải thiện tỷ lệ sống còn ở những bệnh nhân UTBMTBG kích thước trung bình.
Sau khi được TACE, UTBMTBG có thể có đáp ứng hoàn toàn với điều trị hoặc
không. TACE nhắc lại ở các bệnh nhân này có thể có hiệu quả. Bên cạnh nhóm BN
được tiếp tục TACE, chúng tôi đã thực hiện RFA cho những trường hợp có số lượng u
còn lại sau TACE không đáp ứng hoàn toàn với điều trị nhưng thỏa chỉ định RFA
nhằm 3 mục tiêu:
1. Đánh giá hiệu quả làm hoại tử u của RFA so với TACE trên UTBMTBG đã TACE
nhưng không đáp ứng hoàn toàn với điều trị.
2. Đánh giá tác dụng phụ, biến chứng của thủ thuật trên 2 nhóm BN kể trên.
3. Đánh giá hiệu quả điều trị và hiệu quả kinh tế sau 6 tháng theo dõi ở 2 nhóm BN.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP:
1. Đối tượng nghiên cứu:
1.1 Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Đã làm TACE ≥ 1 lần nhưng kết quả là còn ≤ 3 khối u không đáp ứng hoàn toàn với
TACE và kích thước mỗi khối u ≤ 5 cm.
* U đáp ứng hoàn toàn với điều trị là u ngấm lipiodol đồng nhất, không còn
tổn thương tăng quang ở thì động mạch trên phim CT bụng [15]
- Khối u có thể quan sát được trên siêu âm và có thể tiếp cận an toàn từ da đến khối u.
- Không có chỉ định phẫu thuật hay bệnh nhân từ chối phẫu thuật.
- Child Pugh A hay B.
- Có sự đồng ý của bệnh nhân.
1.2 Tiêu chuẩn loại trừ:
- Xâm nhập tĩnh mạch cửa hay các nhánh tĩnh mạch gan.
- Di căn ngoài gan hoặc xâm lấn các cơ quan cạnh gan.
- Child Pugh C.
- Rối loạn đông máu nặng không đáp ứng với điều chỉnh bằng các chế phẩm máu.
- Bệnh não gan.
- Báng bụng kháng trị.
- Tiền căn xuất huyết tiêu hóa do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản.
- < 18 tuổi
- Có thai.
- Có bệnh mãn tính phối hợp nặng.
- Men AST, ALT hơn 5 lần so với giới hạn trên bình thường.
- Bilirubin toàn phần > 3mg%.
1.3 Theo dõi sau thủ thuật:
- TACE:
+ BN được thăm khám lâm sàng (đánh giá tình trạng bụng và đo mạch, huyết
áp, thân nhiệt) mỗi 2 giờ trong suốt 6 giờ đầu. Kiểm tra xét nghiệm máu ở tất cả bệnh
nhân vào buổi sáng hôm sau TACE và lúc xuất viện. Nếu đau bụng nhiều hay sốt dai
dẳng trong thời gian nằm viện, bệnh nhân được làm siêu âm bụng để giúp loại trừ
biến chứng.
+ CT Scan gan được thực hiện 4 – 6 tuần sau TACE để đánh giá đáp ứng của
khối u. Lập lại TACE dựa trên đáp ứng được đánh giá bằng hình ảnh, chức năng gan
còn lại.
- RFA:
+ Siêu âm bụng và xét nghiệm chức năng gan được thực hiện thường quy vào
ngày hôm sau RFA.
+ Đánh giá hiệu quả điều trị của RFA:
* Trị liệu thành công (hoại tử hoàn toàn): không còn vùng tăng quang
ở khối u trong thì động mạch và thêm viền xung quanh ít nhất 0,5 cm.
* Trị liệu không hoàn toàn: còn thấy mô tăng quang ở vị trí u [14].
1.4 Theo dõi sau xuất viện:
BN được hẹn tái khám mỗi 4 – 6 tuần:
- Xét nghiệm chức năng gan, AFP, CT hoặc MRI bụng mỗi lần tái khám.
- Đánh giá sự hoại tử u sau thủ thuật:
+ Hoại tử u hoàn toàn: không có ổ tăng quang được thấy trong u hay ở vùng
ngoại biên của nó trên CT Scan bụng có cản quang [19].
+ Hoại tử u không hoàn toàn: dưới mức hoại tử u hoàn toàn.
- Theo dõi sự tiến triển u: Sự tiến triển u tại chỗ được định nghĩa là sang thương tăng
quang trên CT mới xuất hiện trong hay gần sang thương đã được điều trị [17].
- Chỉ định điều trị nhắc lại nếu khối u gan hoại tử không hoàn toàn, tiến triển trở lại,
xuất hiện u mới.
- Khi AFP tăng nhưng không phát hiện UTBMTBG tái phát trong gan, CT ngực và xạ
hình xương được thực hiện để chẩn đoán để chẩn đoán di căn xa [17].
- Mỗi BN được theo dõi 6 tháng để đánh giá sự tiến triển của u và theo dõi sống còn
của bệnh nhân.
1.5 Tiêu chuẩn ngừng điều trị:
- BN không đồng ý tiếp tục điều trị.
- BN tử vong.
- Xuất hiện các chống chỉ định của TACE, hoặc RFA trong quá trình theo dõi.
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, chọn mẫu thuận tiện, mỗi nhóm ít nhất 30 bệnh nhân,
được thực hiện tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 08/2011 đến tháng 01/2012.
- Mỗi bệnh nhân được theo dõi trong 6 tháng hoặc cho đến khi ngừng điều trị.
3. Phương pháp phân tích số liệu:
- Số liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0
- Các biến định tính được trình bày dưới dạng tỷ lệ phần trăm.
- Các biến định lượng có phân phối chuẩn được trình bày dưới dạng trung bình ± độ
lệch chuẩn. Các biến định lượng không có phân phối chuẩn được trình bày dưới dạng
trung vị (khoảng tứ vị).
- Kiểm định mối tương quan giữa các biến định tính bằng phép kiểm Chi bình phương
(hiệu chỉnh theo Exacts Fisher khi bảng 2x2 có ít nhất 1 ô có vọng trị <5).
- Kiểm định sự khác biệt giữa 2 nhóm là biến định lượng có phân phối chuẩn bằng
phép kiểm t. Kiểm định sự khác biệt giữa 2 nhóm là biến định lượng không có phân
phối chuẩn bằng phép kiểm Mann-Whitney U.
- Sự khác biệt được xem là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05, với khoảng tin cậy 95%.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN:
1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của BN trước nghiên cứu:
Nhóm TACE Nhóm RFA Tổng P
(N=39) (N=37) (N=76)
TUỔI 64,1±12,1 62,2±1,.0 63,2±11,6 0,578
GIỚI TÍNH 0,081
nam 85% (33) 68% (25) 76% (58)
nữ 15% ( 6) 32% (12) 24% (18)
SỐ LẦN TACE LÚC BẮT ĐẦU
NGHIÊNCỨU
0,2
3 (1-3) 2 (1-3)
NGUYÊN NHÂN BỆNH GAN 0,293
Khác 5% ( 2) 8% ( 3) 7% ( 5)
Viêm gan siêu vi (VGSV) B 46% (18) 46% (17) 46% (35)
Viêm gan siêu vi C 31% (12) 30% (11) 30% (23)
Viêm gan siêu vi B+C 8% ( 3) 16% ( 6) 12% ( 9)
Rượu 10% ( 4) 0% ( 0) 5% ( 4)
CHILD-PUGH 0,057
A 92% (36) 76% (28) 84% (64)
B 8% ( 3) 24% ( 9) 16% (12)
C 0% ( 0) 0% ( 0) 0% ( 0)
KÍCH THƯỚC U LỚN NHẤT
TRUNG BÌNH (cm)
4.0±0.9 3.6±0.9 3.8±0.9 0,07
- Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm BN về: tuổi, giới, số lần TACE lúc bắt đầu
nghiên cứu, nguyên nhân của bệnh gan, Child-Pugh, kích thước u lớn nhất trung bình.
- UTBMTBG thường gặp ở tuổi 40 – 55 tại các nước Đông nam Á [5].
Nghiên cứu của Lê văn Don và cộng sự [1]: tuổi trung bình của BN là 50,66 ± 13,04.
Nghiên cứu của Nguyễn Tiến Thịnh và cộng sự [6]: tuổi trung bình là 58,9 ± 11,2.
Nghiên cứu của chúng tôi: tuổi trung bình của BN cao hơn so với các nghiên cứu
khác.
- Theo Ryder S D [16] nguy cơ phát triển UTBMTBG cao hơn nhiều ở nam trong
phần lớn nguyên nhân sinh bệnh. Ở tất cả các thống kê, nam giới đều bị UTBMTBG
nhiều hơn nữ giới, thường từ 2 – 10 lần.
Nghiên cứu của Lê Văn Don và cộng sự [1]: tỷ lệ nam/nữ là 7/1.
Nghiên cứu của Nguyễn Tiến Thịnh và cộng sự [6]: tỷ lệ nam/nữ là 7/1.
Nghiên cứu của chúng tôi: tỷ lệ nam/nữ là 3/1.
- VGSV B đã được công nhận là yếu tố nguy cơ hàng đầu của UTBMTBG.
Nghiên cứu của Trần Văn Huy [2]: tỷ lệ HBsAg(+) là 85%.
Nghiên cứu của Trương Tâm Thư [8] tỷ lệ HBsAg (+) là 84,3%.
Nguyễn Tiến Thịnh và cộng sự [6] thì VGSV B chiếm tỷ lệ 78,5%.
Nghiên cứu của chúng tôi: VGSV B cũng có tỷ lệ cao nhất.
- VGSV C là nguyên nhân của hơn 50% các trường hợp UTBMTBG ở các nước đang
phát triển, nguy cơ UTBMTBG có thể đến 20 lần khi có xơ gan kèm theo.
Nghiên cứu của Trương tâm Thư [8]: tỷ lệ VGSV C là 15%.
Nghiên cứu của Nguyễn Tiến Thịnh và cộng sự [6]: tỷ lệ VGSV C là 3%. .
Nghiên cứu của chúng tôi, VGSV C chiếm tỷ lệ cao thứ 2 sau VGSV B.
2. Hoại tử u với điều trị:
N TACE RFA P
HOẠI TỬ U 76 <0,001
Không đạt hoại tử u hoàn toàn 41% (16) 5% ( 2)
có đạt hoại tử u hoàn toàn 59% (23) 95% (35)
SỐ LẦN THỰC HIỆN THỦ THUẬT
ĐIỀU TRỊ TRONG 6 THÁNG ĐỂ
ĐẠT HOẠI TỬ U HOÀN TOÀN
58 2 (2-3) 1 (1-2) 0,027
SỐ LẦN THỰC HIỆN THỦ THUẬT
ĐIỀU TRỊ TRONG 6 THÁNG
65 2 (2-3) 1 (1-2) 0,001
- Tỷ lệ đạt hoại tử u hoàn toàn với RFA trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn
TACE. Các nghiên cứu khác cũng ghi nhận RFA cho tỷ lệ hoại tử u hoàn toàn cao,
như nghiên cứu của Chen M. H. và CS [11] cho thấy tỷ lệ đạt hoại tử u hoàn toàn với
RFA là 87,6%, Aldrea Veltri và CS [18] ghi nhận tỷ lệ hoại tử u hoàn toàn với RFA
theo sau TACE là 66,7%.
- Theo Lê Lộc [3], với các khối u có kích thước < 3 cm thì tỷ lệ hoại tử u với 1 lần
làm RFA duy nhất đạt rất cao 95 – 98%. Các khối u có kích thước > 5 cm thì RFA
tiêu hủy u hoàn toàn có tỷ lệ thành công từ 80 – 95% với 1 – 2 lần thực hiện. Chen M.
H. và CS [12] thực hiện RFA với tỷ lệ phá hủy thành công là 87,6% trên những
UTBMTBG kích thước từ 3,6 – 7 cm với 1 – 12 lần RFA.Trong nghiên cứu của
chúng tôi, trong 6 tháng nghiên cứu số lần làm TACE nhắc lại ít nhất là 1 lần và nhiều
nhất là 4 lần. Số lần làm RFA ít nhất là 1 lần và nhiều nhất là 2 lần. Số lần làm TACE
nhắc lại để đạt hoại tử u hoàn toàn ít nhất là 1 lần và nhiều nhất là 3 lần. Số lần làm
RFA để đạt hoại tử u hoàn toàn ít nhất là 1 lần và nhiều nhất là 2 lần. Như vậy trong 6
tháng, số lần làm RFA nhắc lại ít hơn số lần làm TACE nhắc lại, số lần làm RFA nhắc
lại để đạt hoại tử u hoàn toàn cũng ít hơn làm TACE nhắc lại, và sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê.
3. Tác dụng phụ của thủ thuật:
SỐ LƯỢT BỆNH NHÂN TACE
(N=72)
RFA
(N=47)
Tổng
(N=119)
P
KHÔNG CÓ TÁC DỤNG PHỤ 11 (15.3%) 11 (23.4%) 22 (18.5%) 0,335
CÓ TÁC DỤNG PHỤ 61 (84.7%) 36 (76.6%) 97 (81.5%)
TÁC DỤNG PHỤ
THƯỜNG GẶP
Đau vùng
sườn phải
12 (16.7%) 30 (63.8%) 42 (35.3%)
Sốt 43 (59.7%) 4 (8.5%) 47 (39.5%)
Nôn hoặc
buồn nôn
6 (8.3%) 2 (4.3%) 8 (6.7%)
- Trong nghiên cứu của chúng tôi, tác dụng phụ thường gặp là đau bụng, sốt, nôn hoặc
buồn nôn. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ có và không có tác dụng
phụ của thủ thuật điều trị trên 2 nhóm BN.
- Các nghiên cứu khác cũng ghi nhận đau bụng, sốt, nôn hoặc buồn nôn là tác dụng
phụ thường gặp, và chỉ xử trí bằng thuốc giảm đau, hạ sốt thông thường là ổn định.
Trần Xuân Trường [9] đã ghi nhận tác dụng phụ trên lâm sàng chủ yếu là hội chứng
sau thuyên tắc (sốt, ói, đau bụng), chiếm tỉ lệ từ 45-68% trường hợp TACE, các triệu
chứng này thường biến mất sau 1 tuần điều trị.
Nguyễn Tiến Thịnh [6] thực hiện 192 lần RFA trên 121 bệnh nhân đã TACE trước đó
báo cáo tác dụng phụ thường xuất hiện trong hoặc sau khi tiến hành RFA 3 giờ đầu,
bao gồm: đau vùng gan 67%, đau lan vai phải 38%, sốt > 380C là 8%, nôn 3%, khó
thở 1%. Giorgio A. và cộng sự [13] thực hiện RFA trên 84 bệnh nhân UTBMTBG và
ghi nhận tác dụng phụ sau RFA bao gồm sốt kéo dài 1 – 3 ngày (26%), đau vùng gan
xảy ra muộn sau RFA 12 – 24 giờ (21%).
4. Sự tiến triển của u:
N TACE
RFA
P
SỰ TIẾN TRIỂN CỦA U LÚC 6 THÁNG 65 <0.001
ổn định 39% (12) 79% (27)
u tiến triển tại chỗ 42% (13) 6% ( 2)
u mới 6% ( 2) 3% ( 1)
Huyết khối tĩnh mạch cửa 0% ( 0) 0% ( 0)
Di căn 13% ( 4) 12% ( 4)
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ 73 < 0,001
Không ổn định với điều trị 16 (43%) 2 (6%)
Có tiến triển trở lại 11 (30%) 25 (69%)
Chưa tiến triển 10 (27%) 9 (25%)
THỜI GIAN TỪ LÚC ỔN ĐỊNH ĐẾN
LÚC TIẾN TRIỂN TRỞ LẠI (tháng)
19 2.7 ± 1.2 2.3 ± 0.5
- Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy điều trị RFA cho những UTBMTBG
không đáp ứng hoàn toàn với TACE cho kết quả ổn định với điều trị cao hơn và tỷ lệ
u tiến triển cũng thấp hơn so với chỉ điều trị TACE nhắc lại
Wei Yang [20] nghiên cứu trên 103 bệnh nhân có UTBMTBG kích thước < 8 cm và
số lượng < 5 u, và ghi nhận tỷ lệ thành công ở nhóm điều trị kết hợp TACE và RFA
cao hơn đáng kể so với nhóm TACE (93,5% so với 68,6%, P = 0,011). Tỷ lệ tái phát
trong gan vào 5 năm ở nhóm điều trị phối hợp thấp hơn đáng kể so với nhóm TACE
(20,7% so với 57,1%, P = 0,002) và nhóm RFA (20,7% so với 43,2%, P = 0,036).
Nghiên cứu của Phạm Minh Thông và cộng sự [7], Võ Hội Trung Trực và cộng sự
[10] cho thấy tỷ lệ tái phát sau 2 năm, 3 năm điều trị bằng TACE từ 32,4% - 47%.
Theo Lê Lộc [3] tỷ lệ tái phát tại chỗ sau RFA thay đổi từ 5 – 50%.
- Có lẽ vì số lượng BN của chúng tôi có u tiến triển trở lại ít (nhóm TACE có 10 bệnh
nhân, nhóm RFA có 9 bệnh nhân) nên không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
thời gian trung bình từ lúc bệnh ổn định với điều trị đến lúc u tiến triển trở lại.
5. Sống còn và tử vong:
TÌNH TRẠNG BN
LÚC 6 THÁNG
TACE
( N = 39)
RFA
(N = 37)
Tổng P
không liên lạc được 10% ( 4) 0% ( 0) 5% ( 4) 0,044
còn sống 80% (31) 97% (36) 88% (67)
Tử vong 10% ( 4) 3% ( 1) 7% ( 5)
- Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhóm RFA có tỷ lệ sống còn cao hơn và tỷ lệ tử
vong thấp hơn so với nhóm TACE.
- Các nghiên cứu khác cũng ghi nhận tỷ lệ sống với trị liệu bằng RFA cao hơn TACE.
Wei Yang [20] đã nghiên cứu trên 103 bệnh nhân có UTBMTBG kích thước < 8 cm
và số lượng < 5 u ghi nhận tỷ lệ sống còn toàn bộ 1, 3, và 5 năm tương ứng là 73,9%,
51,1%, và 28% ở nhóm RFA; 65,8%, 38,9%, và 19,5% ở nhóm TACE; và 88,5%,
64,6%, và 44,3% ớ nhóm điều trị kết hợp.
Hồ Tấn Phát và cộng sự (Nghiên cứu nguyên nhân và kết quả điều trị ung thư biểu mô
tế bào gan bằng thuyên tắc mạch hóa dầu - Tạp chí Y học thực hành tháng 12/2009)
đã ghi nhận từ tháng 07/1999 đến tháng 07/2000 tại khoa Nội Tiêu Hóa Bệnh viện
Chợ Rẫy, 56 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan quá chỉ định phẫu thuật đã được
điều trị bằng TACE cho thấy tỷ lệ bệnh nhân sống sau 6 tháng là 35,7% và sau 1 năm
là 5,4%.
Võ Hội Trung Trực (Nghiên cứu phương pháp phá hủy bằng sóng radio UTBMTBG
có kích thước không quá 5 cm – Báo cáo Hội nghị khoa học thường niên Bệnh viện
Chợ Rẫy năm 2012) đã báo cáo tỷ lệ sống sau 1 năm theo dõi 30 bệnh nhân
UTBMTBG được điều trị bằng RFA là 93,33%.
6. Chi phí điều trị trung bình:
TACE (N=31) RFA (N = 34) P
CHI PHÍ ĐIỀU TRỊ TRUNG
BÌNH LÚC 6 THÁNG (VNĐ)
28.913.290
± 10.809. 177
5.311.765
±1.880.807
<0,001
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chi phí cho việc làm RFA thấp hơn nhiều
so với TACE, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
IV. KẾT LUẬN:
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy so với TACE nhắc lại đối với UTBMTBG không
đáp ứng hoàn toàn sau ít nhất 1 lần làm TACE nhưng thỏa chỉ định của RFA, việc
thực hiện RFA trên những trường hợp này có tính kinh tế và hiệu quả vì nó không làm
tăng tỷ lệ tác dụng phụ và biến chứng của thủ thuật nhưng cho kết quả hoại tử u cao
hơn, tỷ lệ u tiến triển và tử vong thấp hơn, tỷ lệ sống cao hơn nhưng chi phí điều trị lại
thấp hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Don, Vũ văn Khiên, Nguyễn Anh Tuấn và CS. (2000), “Giá trị của AFP
trong chẩn đoán xác định, tiên lượng và theo dõi điều trị một số thể ung thư gan
nguyên phát”, Nội khoa, (2), tr. 8 – 11.
2. Trần Văn Huy (2001), “Virus viêm gan B và ung thư gan nguyên phát”, Y học thực
hành (6), tr. 58 – 60.
3. Lê Lộc (2006), “Điều trị ung thư gan bằng phương pháp đốt nhiệt cao tần”, Ung
thư gan nguyên phát, Nhà xuất bản Y học, tr. 363 – 9. 12. Hà Văn Mạo (2006), “Dịch
tể học và các yếu tố nguy cơ của ung thư gan nguyên phát”, Ung thư gan nguyên phát,
Nhà xuất bản Y học, tr. 13 – 22.
4. Hà Văn Mạo (2006), “Dịch tể học và các yếu tố nguy cơ của ung thư gan nguyên
phát”, Ung thư gan nguyên phát, Nhà xuất bản Y học, tr. 13 – 22.
5. Phạm Hoàng Phiệt (2006), “Virus viêm gan C và ung thư gan nguyên phát”, Ung
thư gan nguyên phát, NXB Y học, tr. 57 – 66.
6. Nguyễn Tiến Thịnh, Mai Hồng Bàng, Phạm Minh Thông và CS. (2011), “Hiệu quả
và an toàn của phương pháp tắc mạch hóa dầu kết hợp đốt nhiệt sóng cao tần trong
điều trị 121 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan kích thước trên 3 cm”, Tạp chí
Gan mật Việt Nam, 18, tr. 39 – 44.
7. Phạm Minh Thông và CS. (2001), “Kết quả ban đầu của nút hóa chất động mạch
trong điều trị ung thư tế bào gan nguyên phát”, Y học Việt Nam, 265(11), tr. 85 – 89.
8. Trương Tâm Thư (2010), “Các yếu tố tiên lượng bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào
gan điều trị bằng phương pháp làm tắc động mạch gan kết hợp dùng hóa chất”, Tạp
chí thông tin y dược, 5, tr. 28-32.
9. Trần Xuân Trường (2010), “Khảo sát tác dụng không mong muốn của phương pháp
thuyên tắc hóa dầu qua catheter trong điều trị ung thư gan”, Y học thành phố Hồ Chí
Minh, 14(2), tr. 444 – 451.
10. Võ Hội Trung Trực và CS. (2002), “Đánh giá sơ bộ kết quả 2 năm điều trị và theo
dõi của phương pháp thuyên tắc hóa dầu qua động mạch trên bệnh nhân ung thư tế
bào gan nguyên phát”, Thông tin Y Dược (số đặc biệt chuyên đề bệnh gan mật), tr.
174 – 80.
11. Chen M. H., Yang W., Yan K. et al. (2004), “Large Liver Tumors: Protocol for
Radiofrequency Ablation and Its Clinical Application in 110 Patients – Mathematic
Model, Overlapping Mode, and Electrode Placement Process”, Radiology, 232, pp.
260 – 71.
12. Chen M. H., Yang W., Yan K. et al. (2008), “Radiofrequency ablation of
problematically located hepatocellular carcinoma: Tailored approach”, Abdom.
Imaging. 33, pp. 428 – 36.
13. Giorgio A., Tarantino L. et al. (2003), “Percutaneous Sonographically Guided
Saline-Enhanced Radiofrequency Ablation of Hepatocellular Carcinoma”, A.J.R. 181,
pp. 479 – 84.
14. Livraghi Tito, Meloni Franca, Stasi Michele Di, et al. (2008), “Sustained complete
response and complications rates after radiofrequency ablation of very early
hepatocellular carcinoma in cirrhosis: Is resection still the treatment of choice?”,
Hepatology, 47, pp.82 – 89.
15. Miraglia Roberto, Pietrosi Giada, Maruzzelli Luigi et al (2007), “Efficacy of
transcatheter embolization/chemoembolization (TAE/TACE) for the treatment of
single hepatocellular carcinoma”, World J Gastroenterol, 13(21), pp. 2952-2955.
16. Ryder S D (2003), “Guidelines for the diagnosis and treatment of hepatocellular
carcinoma (HCC) in adults”, Gut, 52(Suppl III), pp. iii1–iii8.
17. Shibata Toshiya, Isoda Hiroyoshi, Hirokawa Yusuke, et al. (2009), “Small
Hepatocellular Carcinoma: Is Radiofrequency Ablation Combined with Transcatheter
Arterial Chemoembolization More Effective than Radiofrequency Ablation Alone for
Treatment?”, Radiology, 252(3), pp. 905-913.
18. Veltri Andrea, Moretto Paolo, Doriguzzi Andrea, et al. (2006), “Radiofrequency
thermal ablation (RFA) after transarterial chemoembolization (TACE) as a combined
therapy for unresectable non-early hepatocellular carcinoma (HCC)”, Eur Radiol, 16,
pp. 661–669.
19. Wang Yue-hua, Liu Jia-feng, Li Fei, et al. (2009), “Radiofrequency ablation
combined with transarterial chemoembolization for unresectable primary liver
cancer”, Chin Med J, 122(8):889-894.
20. Wei Yang, Min Hua Chen, Mao Qiang Wang, et al. (2009), “Combination therapy
of radiofrequency ablation and transarterial chemoembolization in recurrent
hepatocellular carcinoma after hepatectomy compared with single treatment”,
Hepatology Research, 39, pp. 231-240.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_cua_dot_nhiet_cao_tan_rfatren_ung_thu_bieu_mo_te_ba.pdf