Tổng khối lượng quả thể/1,5 m mô.
Tổng khối lượng quả thể nấm của các cách
xếp mô gối, cuộn, khuôn ngửa và khuôn úp
kết hợp đốt áo mô dao động từ 1,98 - 2,82
kg/1,5 m mô, trong khi các nghiệm thức
không đốt áo mô (1,80 - 2,50 kg/1,5 m mô).
Tuy nhiên, chỉ phương pháp xếp mô cuộn
đốt cao khác biệt ý nghĩa thống kê 1%
phương pháp xếp mô cuộn không đốt (Hình
3). Điều này khẳng định vai trò của việc đốt
áo mô đã bổ sung thêm nguồn dinh dưỡng
cần thiết cho nấm từ rơm để lại sau khi đốt,
giúp tơ nấm phát triển nhanh, hình thành
quả thể sớm và kéo dài thời gian thu hoạch
nấm (Bảng 4).
Tổng khối lượng quả thể nấm cao
nhất ở nghiệm thức cuộn - đốt với 2,82
kg/1,5 m mô (Hình 3), thấp nhất là nghiệm
thức Khuôn úp - Không đốt với 1,80 kg/1,5
m mô. Các NT còn lại có tổng khối lượng
quả thể nấm dao động từ 1,87 - 2,50 kg/1,5
m mô (Hình 4). Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Biswas và Layak (2014),
kiểu chất dòng nấm rơm ảnh hưởng nhiều
đến năng suất nấm. So với phương pháp
chất mô hình vuông hay chất thành dòng,
chất mô theo kiểu cuộn tròn sẽ cho năng
suất cao hơn, với hiệu suất sinh học 23,8%
(Thiribhuvanamala và cs., 2012).
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của phương pháp xếp mô và đốt áo mô đến sinh trưởng và năng suất nấm rơm (volvariella volvacea) trồng ngoài trời, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2120-2128
2120 Lê Vĩnh Thúc và cs.
HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP XẾP MÔ VÀ ĐỐT ÁO MÔ ĐẾN SINH
TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT NẤM RƠM (Volvariella volvacea)
TRỒNG NGOÀI TRỜI
Lê Vĩnh Thúc*, Nguyễn Hồng Huế, Nguyễn Quốc Khương
Trường Đại học Cần Thơ.
*Tác giả liên hệ: lvthuc@ctu.edu.vn
Nhận bài: 23/04/2020 Hoàn thành phản biện: 27/08/2020 Chấp nhận bài: 16/09/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định phương pháp xếp mô và đốt áo mô đối với trồng nấm rơm
ngoài trời. Thí nghiệm được bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 05 lần lặp lại, mỗi lặp lại là 01 dòng
dài 1,5 m. Các nghiệm thức (NT) gồm: NT1: Gối - Đốt áo mô, NT2: Cuộn - Đốt áo mô, NT3: Khuôn
ngửa - Đốt áo mô, NT4: Khuôn úp - Đốt áo mô, NT5: Gối - Không đốt áo mô, NT6: Cuộn - Không đốt
áo mô, NT7: Khuôn ngửa - Không đốt áo mô, NT8: Khuôn úp - Không đốt áo mô. Kết quả cho thấy
nhiệt độ mô nấm ở giai đoạn ủ tơ và hình thành quả thể đều phù hợp với sinh trưởng và phát triển của
nấm rơm. Chiều dài, chiều rộng của 30 quả thể xuất hiện đầu tiên và khối lượng trung bình/quả thể
không bị ảnh hưởng bởi phương pháp xếp mô kết hợp đốt áo mô, hoặc không đốt áo mô. Xếp mô theo
phương pháp cuộn và khuôn ngửa kết hợp đốt áo mô có thời gian xuất hiện quả thể sớm hơn so với các
nghiệm thức tương ứng nhưng không đốt áo mô trong khi các phương pháp xếp mô kết hợp đốt rơm có
thời gian kết thúc thu hoạch chậm hơn, ngoại trừ phương pháp xếp mô theo khuôn ngửa kết hợp đốt áo
mô. Tổng khối lượng quả thể và số lượng quả thể/1,5 m mô của phương pháp xếp mô cuộn kết hợp đốt
áo mô (2,82 kg và 339,8 quả thể) cao hơn tương ứng so với chỉ xếp mô cuộn (2,50 kg và 307,0 quả thể).
Từ khóa: Phương pháp xếp mô, Đốt áo mô, Nấm rơm ngoài trời, Volvariella volvacea, Quả thể nấm và
năng suất nấm
EFFECTIVENESS OF MOLDING RICE STRAW BED TYPES AND
BURNING OF DRY RICE STRAW COVER ON THE GROWTH AND YIELD
OF RICE STRAW MUSHROOM (Volvariella volvacea) IN OUTDOOR
CONDITION
Le Vinh Thuc*, Nguyen Hong Hue, Nguyen Quoc Khuong
Can Tho University.
ABSTRACT
The objective of this study was to determine the proper bed design (BD) and burning of dry rice
straw cover (BDRSC) to improve of rice straw mushroom (RSM) yield. A completely randomized block
(CRB) experiment was carried out based on incubated rice straw bed under outdoor condition with 8
treatments and 5 replications, each replication as a row length of 1.5 m. The treatments included (1)
Packing of rice straw (RS) - BDRSC, (2) Rolling of RS - BDRSC (3) Upward wood frame (UWF)
containing RS - BDRSC, (4) Downward wood frame (DWF) containing RS- BDRSC, (5) Packing of
RS– without BDRSC, (6) Rolling of RS - without BDRSC, (7) UWF - without BDRSC and (8) DWF -
without BDRSC. The results showed that the temperature of bed met the demand of the growth and
development of RSM. The length and width of the first 30 mushroom fruiting bodies (MFB) and mean
weight per a MFB have not affected by bed types either BDRSC or without BDRSC. The BD as rolling
of RS and UWF with BDRSC early produced MFB as compared to each corresponding treatment while
BD with BDRSC expanded the harvest period, the exception for BD with UWF in combination with
BDRSC. Total number of MFB and mean weight per 1.5 meter of rolling of RS incorporation of BDRSC
(2.82 kg and 339.8 MFB) were higher than only rolling of RS (2.50 kg and 307.0 MFB), respectively.
Keywords: Bed types, Burning of covered-rice straw on bed, Mushroom fruiting body, Rice straw
mushroom, Volvariella volvacea, Yield of mushroom
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2120-2128
2121
1. MỞ ĐẦU
Hiện nay, có khoảng 200 loài nấm
được sử dụng làm nguồn thực phẩm (Kalac,
2013) nhưng chỉ có khoảng 35 loài được
trồng để sản xuất thương mại (Aida và cs.,
2009; Xu và cs., 2011). Trong đó, nấm rơm
(Volvariella volvacea) là một trong những
loại nấm ăn phổ biến được trồng quan trọng
thứ ba trên thế giới (Bao và cs., 2013) với
hương vị thơm ngon; giá trị dinh dưỡng cao;
dược tính tốt và chu kỳ canh tác ngắn. Nấm
rơm rất tốt cho gan (Kalava và Menon,
2012), tăng cường miễn dịch thông qua chất
chống oxy hóa từ nấm rơm, giảm mức
cholesterol và ngăn ngừa xơ vữa động mạch
(Ramkumar và cs., 2012). Quan trọng hơn,
nấm rơm giữ vai trò trong việc làm giảm các
chất thải nông nghiệp như rơm rạ, vỏ bông
vải, xác mía, lá chuối khô và một số vật liệu
khác (Wang, 2014). Theo Nguyễn Lân
Dũng (2002), khí hậu Việt Nam rất thuận
lợi cho việc sản xuất nấm rơm, đặc biệt ở
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) do nơi
đây có nguồn rơm rạ dồi dào và khí hậu phù
hợp cho nấm phát triển. Hiện nay, sản xuất
nấm rơm ngoài trời dựa theo kỹ thuật truyền
thống là chính, ở những vùng khác nhau
luôn có những phương pháp trồng nấm khác
nhau. Trong đó, kỹ thuật được sử dụng
nhiều nhất là xếp mô (chất dòng) và đóng
khuôn hoặc kết hợp phương pháp đốt lớp
rơm bên ngoài gọi là đốt áo mô; tro rơm
được quét đều vào hai bên mô nấm để bổ
sung thêm dinh dưỡng nuôi tơ nấm vì trong
tro rơm có chứa một lượng lớn cellulose,
cần thiết cho nấm tăng trưởng (Barisic và
Zabetta, 2008). Theo Nguyễn Thị Xuân Thu
và cs. (2010), trồng nấm rơm theo phương
pháp đóng khuôn, sau 10 ngày năng suất
nấm đạt 2,06 kg/10 kg nguyên liệu khô. Tuy
nhiên, thực tế hiện nay chưa có nghiên cứu
về phương pháp xếp mô và đốt áo mô phù
hợp với sản xuất nấm rơm ở ĐBSCL. Chính
vì thế, nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm
ra phương pháp xếp mô và đốt áo mô hiệu
quả cho phát triển nghề trồng nấm rơm
ngoài trời ở ĐBSCL.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Địa điểm
Thí nghiệm được thực hiện từ năm
2018 đến năm 2019 tại trại Nghiên cứu và
thực nghiệm Nông nghiệp, Khoa Nông
nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ.
2.1.2. Vật liệu
Rơm cuộn (18 kg/cuộn) của giống lúa
OM 5451 thu từ huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh
Long. Meo giống được sử dụng là loại meo
5 Sài Gòn. Dinh dưỡng bổ sung là phân hữu
cơ HVP 301B và men cơm rượu, có nguồn
gốc từ doanh nghiệp tư nhân Hai Thiêm tại
huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Bể ngâm
bằng cao su giữ nước có kích thước dài *
rộng * cao là 4 * 3 * 1 m. Khuôn gỗ có kích
thước dài * rộng * cao là 1,5 * 0,3 * 0,3 m.
Vật dụng khác như nhiệt ẩm kế điện tử
Thermo Hygrometer, máy đo pH (Consort
C352).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm được
thực hiện ngoài trời, bố trí theo thể thức
khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 08 nghiệm
thức (NT) và 05 lần lặp lại. Mỗi lần lặp lại
được xếp thành dòng dài 1,5 m với khối
lượng đồng đều 75 kg rơm ủ. Meo giống
được trộn đều với men cơm rượu và phân
HVP 301B với tỷ lệ men : meo : hữu cơ
HVP 301B tương ứng là 0,5 : 10 : 1 g.
Lượng meo đã phối trộn sử dụng là 250
g/1,5 m mô. Phương pháp xếp mô nấm theo
thứ tự NT1 đến NT4 là gối, cuộn, khuôn
ngửa và khuôn úp kết hợp đốt áo mô (Hình
1A) và theo cùng thứ tự từ NT5 đến NT8
không đốt áo mô (Hình 1B) (Bảng 1). Hai
ngày sau khi xếp mô, rải đều 1 kg rơm
khô/1,5 m mô và đốt, tro rơm được quét đều
vào hai mép mô.
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2120-2128
2122 Lê Vĩnh Thúc và cs.
Bảng 1. Các nghiệm thức trong thí nghiệm
Nghiệm thức Phương pháp xếp mô Đốt áo mô Ký hiệu nghiệm thức
1 Gối Đốt Gối - Đốt
2 Cuộn Đốt Cuộn - Đốt
3 Khuôn ngửa Đốt Khuôn ngửa - Đốt
4 Khuôn úp Đốt Khuôn úp - Đốt
5 Gối Không đốt Gối - Không đốt
6 Cuộn Không đốt Cuộn - Không đốt
7 Khuôn ngửa Không đốt Khuôn ngửa - Không đốt
8 Khuôn úp Không đốt Khuôn úp - Không đốt
Cách thực hiện
Nguyên liệu rơm được ngâm với
nước vôi CaCO3 pha loãng (tỷ lệ 1 kg/1.000
lít nước sạch) trong thời gian 10 phút, sau
đó vớt rơm đặt lên vỉ tre trong 05 phút để
rơm ráo nước rồi tiến hành ủ đống. Kệ đống
ủ đặt nơi khô ráo cách mặt đất 20 cm, đặt
cột thông khí bằng ống nhựa PVE vào giữa
đống ủ. Cho từng lớp rơm (10 cuộn rơm) đã
làm ướt lên kệ và nén thật chặt. Đống ủ có
hình vuông cân đối, có chiều dày lớp rơm *
chiều dài * chiều rộng lần lượt là 2 * 2 * 1,5
m. Cuối cùng, phủ nilon kín xung quanh
đống ủ để hở phần chân và phần mặt xung
quanh cột thông khí. Tiến hành đảo đống ủ
03 lần vào ngày thứ 6, thứ 9 và thứ 12 sau
khi ủ đống theo nguyên tắc lớp từ trên
xuống dưới, dưới lên trên, trong ra ngoài và
ngoài vào trong. Sau 15 ngày ủ, tiến hành
xếp mô nấm theo thiết kế của từng NT thí
nghiệm, khoảng cách giữa các dòng nấm là
0,3 m. Chất mô theo 04 phương pháp: (1)
Gối: khối lượng 03 kg rơm ủ/gối: dùng tay
xoắn chặt rơm tại vị trí giữa bó và gấp khúc
lại thành gối, xếp các gối rơm nén chặt, gối
sau chèn sát gối trước; (2) Cuộn: khối lượng
03 kg rơm ủ/cuộn: chia đều 03 kg rơm ủ ở
hai bên tay, trải đều xuống mặt nền, sau đó
cuộn tròn lại, xếp sát chặt vào nhau cuộn
phía sau ép sát cuộn phía trước; (3) Khuôn
ngửa: đặt khuôn vào vị trí xếp mô, lần lượt
cho 03 lớp rơm vào trong khuôn (25 kg rơm
ủ/lớp), lớp thứ nhất cách mặt đất 10 cm, mỗi
lớp rơm rải 1/3 lượng meo; (4) Khuôn úp:
cách thức giống khuôn ngửa, nhưng sau khi
xếp mô xong tiến hành lật úp khuôn lại. Sau
đó rải đều 01 lớp meo viền xung quanh cách
mép gối, cuộn và khuôn 4 cm, cuối cùng
phủ 01 lớp rơm mỏng 2 cm đều ở các NT
không đốt áo mô và tạo lớp áo mô giả bằng
Hình 1. Phương pháp đốt (A) và không đốt áo mô (B)
A B
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2120-2128
2123
lưới cước trắng đậy lên mô nấm ở các NT
có đốt áo mô để duy trì nhiệt độ và độ ẩm.
Sau 10 ngày tơ nấm bắt đầu phát triển hình
thành đinh ghim tiến hành tưới đón nấm 02
lần/ngày bằng nước sạch. Thu hoạch khi
nấm có dạng hình trứng (15 ngày sau khi
chất mô) vào hai buổi sáng (07 giờ) và chiều
(17 giờ).
Chỉ tiêu theo dõi
- Nhiệt độ và pH đống ủ được theo
dõi liên tục trong 15 ngày của quá trình ủ
đống, đo ngẫu nhiên 03 điểm bất kỳ trên
đống ủ vào buổi sáng (09 giờ) và chiều (15
giờ) trong ngày. Nhiệt độ mô nấm ở các NT
cũng được thu thập liên tục trong thời gian
23 ngày, được chia thành 02 giai đoạn: Giai
đoạn ủ tơ (10 ngày đầu sau khi chất mô) và
giai đoạn hình thành quả thể (13 ngày sau
khi chất mô đến khi kết thúc thu hoạch
nấm). Nhiệt độ mô nấm đo ngẫu nhiên 03
điểm bất kỳ trên mô nấm vào 3 buổi sáng
(07 giờ), trưa (11 giờ) và chiều (17 giờ)
trong ngày, sau đó tính trung bình.
- Thời gian xuất hiện quả thể nấm đầu
tiên được ghi nhận là khoảng thời gian từ
lúc bắt đầu xếp mô đến khi xuất hiện quả
thể hình trứng đầu tiên ở từng NT.
- Thời gian thu hoạch nấm được xác
định là khoảng thời gian thu hoạch kéo dài
của các NT.
- Chiều dài và chiều rộng của 30 quả
thể nấm hình trứng xuất hiện đầu tiên (chiều
dài và chiều rộng quả thể đầu tiên) được
thực hiện thông qua chọn ngẫu nhiên 30 quả
thể nấm hình trứng xuất hiện đầu tiên trên
từng nghiệm thức, dùng thước kẹp đo trực
tiếp và lấy giá trị trung bình. Tỷ lệ dài/rộng
quả thể đầu được xác định bằng phương
pháp lấy chiều dài chia cho chiều rộng quả
thể.
- Tổng khối lượng quả thể/1,5 m
dòng (năng suất) được thu thập bằng
phương pháp cân tất cả quả thể sau mỗi lần
thu hái. Tổng số lượng quả thể/1,5 m dòng
đếm tất cả các quả thể sau mỗi lần thu. Khối
lượng trung bình quả thể là thương số giữa
tổng khối lượng quả thể và tổng số lượng
quả thể.
2.3. Xử lý số liệu
Dữ liệu được phân tích phương sai
(ANOVA), so sánh các giá trị trung bình
bằng phép kiểm định Duncan bằng phần
mềm SPSS phiên bản 22.0.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Nhiệt độ và giá trị pH đống ủ
Hình 2 cho thấy nhiệt độ đống ủ vào
buổi sáng biến động tăng giảm liên tục trong
thời gian 15 ngày ủ đống. Nhiệt độ buổi
sáng dao động từ 35 - 79 ºC và buổi chiều
dao động từ 37 - 77 ºC, thấp nhất là ngày bắt
đầu ủ và cao nhất vào thời điểm 5 ngày sau
khi ủ. Nhiệt độ trung bình trong ngày tại 03
thời điểm đảo ủ lần lượt là 74, 69 và 61 ºC.
Nhiệt độ đều có xu hướng giảm vào những
ngày sau khi đảo ủ và có xu hướng tăng lên
vào những ngày ủ tiếp theo. Kết thúc quá
trình ủ, nhiệt độ trung bình đống ủ đạt 55
ºC. Kết quả thí nghiệm này phù hợp với
nghiên cứu của Atikpo và cs. (2008) cho
rằng nhiệt độ của đống rơm ủ đạt từ 52 - 82
ºC là tốt cho quá trình ủ. Giá trị pH của đống
ủ biến động tăng giảm liên tục trong thời
gian 15 ngày ủ, dao động từ pH = 6,5 - 12.
Giá trị pH cao nhất vào ngày bắt đầu ủ,
nguyên nhân do quá trình ủ nguyên liệu rơm
được ngâm với nước vôi 1%. Tại 03 thời
điểm đảo ủ, giá trị pH = 7. Sau 15 ngày ủ
đống, giá trị pH của đống ủ là pH = 6,5, là
thời điểm lý tưởng cho việc chất mô, phù
hợp tơ nấm phát triển (Akinyele và cs.,
2005).
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2120-2128
2124 Lê Vĩnh Thúc và cs.
Nhiệt độ mô nấm
Nhiệt độ mô nấm ở giai đoạn nuôi ủ
tơ của các phương pháp xếp mô gối, cuộn,
khuôn ngửa và khuôn úp có đốt áo mô cao
khác biệt ý nghĩa thống kê 1% so với mỗi
nghiệm thức tương ứng nhưng không đốt áo
mô. Cụ thể là, các nghiệm thức có đốt áo mô
đạt nhiệt độ mô nấm 31,6 - 32,4 ºC trong khi
các nghiệm thức không đốt áo mô có nhiệt
độ mô thấp hơn, chỉ dao động trong khoảng
từ 30,8 - 31,2 ºC. Giai đoạn hình thành quả
thể, giữa các nghiệm thức có khác biệt ý
nghĩa thống kê 1%.
Tuy nhiên, chỉ có nghiệm thức khuôn
ngửa và khuôn úp có đốt áo mô có nhiệt độ
cao hơn mỗi nghiệm thức tương ứng nhưng
không đốt áo mô, với 35,8 - 35,9 ºC so với
34,7 - 34,8 ºC, theo cùng thứ tự. Đối với
nhiệt độ mô nấm của nghiệm thức Gối - Đốt
chưa cao khác biệt ý nghĩa thống kê so với
Gối - Không đốt. Điều này tương tự đối với
cặp nghiệm thức Cuộn - Đốt và Cuộn -
Không đốt (Bảng 2). Kết quả này phù hợp
với nghiên cứu của Chang và Miles (2004)
nấm rơm phát triển tốt trong điều kiện nhiệt
độ 28 - 35 ºC, cho năng suất cao ở khoảng
nhiệt độ từ 34 - 36 ºC (Thiribhuvanamala và
cs., 2012). Yêu cầu nhiệt độ cho sợi nấm
phát triển tốt từ 26 - 30 ºC và cho sự hình
thành quả thể là 34 - 37 ºC (Biswas và
Layak, 2014).
Bảng 2. Nhiệt độ mô nấm của các NT ở giai đoạn nuôi tơ và hình thành quả thể nấm
Nghiệm thức
Giai đoạn phát triển
Nuôi ủ tơ (ºC) Hình thành quả thể (ºC)
Gối - Đốt 31,6bc 35,6ab
Cuộn - Đốt 31,6bc 35,6ab
Khuôn ngửa - Đốt 32,1ab 35,8ab
Khuôn úp - Đốt 32,4a 35,9a
Gối - Không đốt 30,8d 35,3bc
Cuộn - Không đốt 30,8d 35,4ab
Khuôn ngửa - Không đốt 30,9d 34,7c
Khuôn úp - Không đốt 31,2cd 34,8c
Mức ý nghĩa ** **
Độ biến động (%) 1,2 2,8
a, b, c, d: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột biểu thị sự khác biệt ý nghĩa thống kê ở
mức ý nghĩa 1% (**)
Nhiệt độ mô nấm ở giai đoạn ủ tơ và
hình thành quả thể phù hợp cho sự sinh
trưởng của nấm rơm ở các phương pháp xếp
mô kết hợp đốt hoặc không đốt áo mô.
Ảnh hưởng của phương pháp xếp, đốt
áo mô đến thành phần năng suất và năng
suất nấm rơm
Chiều dài, chiều rộng, tỷ lệ dài/rộng
của 30 quả thể xuất hiện đầu tiên trên dòng
nấm.
Xếp mô khác nhau theo phương pháp
gối, cuộn, khuôn ngửa và khuôn úp kết hợp
đốt hoặc không đốt áo mô đều chưa ảnh
hưởng đến kích thước của 30 quả thể xuất
hiện đầu tiên trên dòng nấm. Bảng 3 cho
thấy chiều dài, chiều rộng và tỷ lệ dài/rộng
của 30 quả thể nấm xuất hiện đầu tiên của
các NT đều khác biệt không có ý nghĩa
thống kê, với giá trị tương ứng 2,89 - 3,36,
2,27 - 2,60 và 1,14 - 1,30.
Hình 2. Diễn biến nhiệt độ và pH đống ủ trong
15 ngày ủ đống
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2120-2128
2125
Bảng 3. Chiều dài, chiều rộng và tỷ lệ dài/rộng của 30 quả thể nấm xuất hiện đầu tiên trên dòng nấm
Nghiệm thức Chiều dài (cm) Chiều rộng (cm) Tỷ lệ dài/rộng
Gối - Đốt 2,89 2,45 1,19
Cuộn - Đốt 2,91 2,27 1,28
Khuôn ngửa - Đốt 3,11 2,49 1,26
Khuôn úp - Đốt 2,93 2,60 1,14
Gối - Không đốt 3,36 2,58 1,30
Cuộn - Không đốt 2,91 2,32 1,26
Khuôn ngửa - Không đốt 3,07 2,50 1,22
Khuôn úp - Không đốt 2,89 2,52 1,16
Mức ý nghĩa NS NS NS
Độ biến động (%) 9,26 8,97 8,16
Trong cùng một cột, những số không có chữ theo sau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(NS)
Thời gian xuất hiện quả thể nấm đầu
tiên và kết thúc thu hoạch nấm.
Chỉ có phương pháp xếp mô cuộn và
khuôn ngửa kết hợp đốt áo mô có thời gian
xuất hiện quả thể sớm hơn so với nghiệm
thức tương ứng nhưng không đốt áo mô.
Tuy nhiên, các phương pháp xếp mô kết
hợp đốt áo mô có thời gian kết thúc thu
hoạch muộn hơn, ngoại trừ phương pháp
xếp mô theo khuôn ngửa kết hợp đốt áo mô.
Thời gian xuất hiện quả thể nấm đầu tiên
dao động trung bình ở các NT có đốt áo mô
18,8 - 19,4 ngày, không đốt áo mô 19,6 -
21,0 ngày. Nghĩa là các nghiệm thức không
đốt áo mô có thời gian xuất hiện quả thể đầu
tiên chậm hơn 0,8 - 1,6 ngày. Tương tự, thời
gian kết thúc thu hoạch ở các NT có đốt và
không đốt tương ứng 7,4 - 8,0 và 6,0 - 6,8
ngày (Bảng 4). Đặc biệt, ở nghiệm thức
Cuộn - Đốt có thời gian xuất hiện quả thể
sớm nhất và thời gian kết thúc thu hoạch
muộn nhất. Hai ngày sau khi xếp mô và cấy
meo giống, các mô nấm của các NT đốt áo
mô được thực hiện. Điều này dẫn đến nhiệt
độ ở giai đoạn ủ tơ và hình thành quả thể có
đốt áo mô cao hơn so với không đốt áo mô
(Bảng 2). Như vậy, ngoài việc đốt áo mô
giúp sưởi ấm, kích thích tơ meo phát triển
nhanh hơn so với nhiệt độ tự nhiên, đồng
thời dinh dưỡng bổ sung, chủ yếu là
cellulose từ tro rơm tạo điều kiện phát triển
tơ và hình thành quả thể sớm, kéo dài thời
gian thu hoạch để góp phần tăng năng suất
nấm rơm.
Bảng 4. Thời gian xuất hiện quả thể nấm đầu tiên và thời gian kết thúc thu hoạch nấm
Nghiệm thức
Thời gian xuất hiện quả thể
(ngày)
Thời gian kết thúc thu hoạch
(ngày)
Gối - Đốt 18,8c 7,8ab
Cuộn - Đốt 19,4bc 8,0a
Khuôn ngửa - Đốt 19,2bc 7,6abc
Khuôn úp - Đốt 19,2bc 7,4abc
Gối - Không đốt 19,6abc 6,2d
Cuộn - Không đốt 21,0a 6,6bcd
Khuôn ngửa - Không đốt 21,0a 6,8bcd
Khuôn úp - Không đốt 20,6ab 6,0d
Mức ý nghĩa * **
Độ biến động (%) 5,58 10,67
a, b, c, d: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột biểu thị sự khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức
ý nghĩa 1% (**) hoặc 5% (*)
Tổng số lượng quả thể nấm/1,5 m mô
và khối lượng trung bình/quả thể. Bảng 5
cho thấy tổng số lượng quả thể nấm/1,5 m
mô của các phương pháp xếp mô gối, cuộn,
khuôn ngửa và khuôn úp kết hợp đốt áo mô
đạt từ 234,2 đến 339,8 quả thể, nhiều hơn
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2120-2128
2126 Lê Vĩnh Thúc và cs.
13,6 - 32,8 quả thể so với các NT không đốt
áo mô (229,6 - 307,0 quả thể). Điều này cho
thấy, ở các phương pháp xếp mô khác nhau
có kết hợp đốt áo mô có thời gian thu hoạch
muộn (Bảng 4) và tổng trọng lượng quả thể
cao hơn (Hình 4) nên tổng số lượng quả thể
sẽ cho ra nhiều hơn so với các phương pháp
xếp mô không kết hợp đốt áo mô. Cụ thể là,
nghiệm thức cuộn - đốt có tổng số lượng
quả thể nấm/1,5 m mô nhiều nhất với 339,8
quả thể trong khi nghiệm thức Gối - Không
đốt có tổng số lượng quả thể nấm/1,5 m mô
ít nhất chỉ 229,6 quả thể, các NT còn lại có
tổng số lượng quả thể nấm/1,5 m mô dao
động từ 234,2 đến 307,0 quả thể.
Khối lượng trung bình/quả thể ở các
phương pháp xếp mô gối, cuộn, khuôn ngửa
và khuôn úp kết hợp đốt áo mô khác biệt
không có ý nghĩa thống kê so với các
nghiệm thức tương ứng không đốt áo mô,
dao động trong khoảng từ 7,21 đến 8,47 g
(Bảng 5).
Bảng 5. Tổng số quả thể nấm/1,5 m mô nấm và khối lượng trung bình/quả thể
Nghiệm thức
Tổng số lượng quả thể
(quả thể)
Khối lượng trung bình/quả thể
(g)
Gối - Đốt 234,2ef 8,47
Cuộn - Đốt 339,8a 8,28
Khuôn ngửa - Đốt 291,6c 7,57
Khuôn úp - Đốt 241,6e 8,28
Gối - Không đốt 229,6f 7,21
Cuộn - Không đốt 307,0b 8,15
Khuôn ngửa - Không đốt 283,6c 8,26
Khuôn úp - Không đốt 258,8d 7,96
Mức ý nghĩa ** NS
Độ biến động (%) 2,70 11,1
a, b, c, d, e, f: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột biểu thị sự khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức
ý nghĩa 1% (**); NS khác biệt không có ý nghĩa thống kê
Tổng khối lượng quả thể/1,5 m mô.
Tổng khối lượng quả thể nấm của các cách
xếp mô gối, cuộn, khuôn ngửa và khuôn úp
kết hợp đốt áo mô dao động từ 1,98 - 2,82
kg/1,5 m mô, trong khi các nghiệm thức
không đốt áo mô (1,80 - 2,50 kg/1,5 m mô).
Tuy nhiên, chỉ phương pháp xếp mô cuộn
đốt cao khác biệt ý nghĩa thống kê 1%
phương pháp xếp mô cuộn không đốt (Hình
3). Điều này khẳng định vai trò của việc đốt
áo mô đã bổ sung thêm nguồn dinh dưỡng
cần thiết cho nấm từ rơm để lại sau khi đốt,
giúp tơ nấm phát triển nhanh, hình thành
quả thể sớm và kéo dài thời gian thu hoạch
nấm (Bảng 4).
Tổng khối lượng quả thể nấm cao
nhất ở nghiệm thức cuộn - đốt với 2,82
kg/1,5 m mô (Hình 3), thấp nhất là nghiệm
thức Khuôn úp - Không đốt với 1,80 kg/1,5
m mô. Các NT còn lại có tổng khối lượng
quả thể nấm dao động từ 1,87 - 2,50 kg/1,5
m mô (Hình 4). Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Biswas và Layak (2014),
kiểu chất dòng nấm rơm ảnh hưởng nhiều
đến năng suất nấm. So với phương pháp
chất mô hình vuông hay chất thành dòng,
chất mô theo kiểu cuộn tròn sẽ cho năng
suất cao hơn, với hiệu suất sinh học 23,8%
(Thiribhuvanamala và cs., 2012).
Hình 3. Quả thể nấm rơm ở NT Cuộn - Đốt
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2120-2128
2127
a, b, c, d, e: Các chữ cái khác nhau biểu thị sự khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1% (**)
4. KẾT LUẬN
Nhiệt độ mô nấm ở giai đoạn ủ tơ và
hình thành quả thể đều phù hợp với sự sinh
trưởng và phát triển của nấm rơm.
Chiều dài, chiều rộng của 30 quả thể
xuất hiện đầu tiên và khối lượng trung bình
một quả thể không bị ảnh hưởng bởi các
phương pháp xếp mô có đốt hoặc không đốt
áo mô.
Chỉ có phương pháp xếp mô cuộn và
khuôn ngửa kết hợp đốt rơm có thời gian
xuất hiện quả thể sớm hơn so với nghiệm
thức tương ứng nhưng không đốt áo mô.
Tuy nhiên, các phương pháp xếp mô kết
hợp đốt rơm có thời gian kết thúc thu hoạch
chậm hơn, ngoại trừ phương pháp xếp mô
theo khuôn ngửa kết hợp đốt áo mô.
Xếp mô cuộn kết hợp đốt áo mô đạt
tổng khối lượng quả thể và tổng số lượng
quả thể/1,5 m mô lần lượt là 2,82 kg/ 1,5 m
mô và 339,8 quả thể, cao hơn so với chỉ xếp
mô cuộn, tương ứng 2,50 kg và 307,0 quả
thể.
LỜI CẢM ƠN
Đề tài này sử dụng nguồn kinh phí
Chương trình Tây Nam Bộ thông qua Đề tài
cải thiện chuỗi giá trị nấm rơm ở ĐBSCL,
mã số 03/2017/HĐKHCN-TNB-ĐT/14-
19C09, ở hợp phần khảo nghiệm và chuyển
giao kỹ thuật mô hình trồng nấm rơm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Lân Dũng. (2002). Công nghệ nuôi
trồng nấm, Tập 1 và 2. Hà Nội: Nhà xuất bản
Nông Nghiệp, 201 trang.
Nguyễn Thị Xuân Thu, Nguyễn Thành Hối và
Lê Minh Châu. (2010). Ảnh hưởng tỷ lệ rơm
và lục bình lên năng suất nấm rơm. Tạp chí
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 15b,
161 - 166.
2. Tài liệu tiếng nước ngoài
Aida, F. M. N. A., Shuhaimi, M., Yazid, M., &
Maaruf, A. G. (2009). Mushroom as a
potential source of prebiotics: a review.
Trends in Food Science & Technology, 20,
567 - 575
Akinyele, B. J., & Adetuyi, F. C. (2005). Effect
of agrowastes, pH and temperature variation
on the growth of Volvariella volvacea.
African Journal of Biotechnology, 4(12),
1390 - 1395.
Hình 4. Tổng khối lượng quả thể/1,5 m mô nấm
1,98cde
2,82a
2,21c
2,00cde 1,87de
2,50b
2,14cd
1,80e
0,0
1,0
2,0
3,0
4,0
Gối-
Đốt
Cuộn-
Đốt
Khuôn
ngửa-
Đốt
Khuôn úp-
Đốt
Gối-
Không đốt
Cuộn-
Không đốt
Khuôn
ngửa-
Không đốt
Khuôn úp-
Không đốt
T
ổ
n
g
k
h
ối
l
ư
ợ
n
g
q
u
ả
th
ể/
1.
5
m
m
ô
(
k
g)
Nghiệm thức thí nghiệm
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2120-2128
2128 Lê Vĩnh Thúc và cs.
Atikpo, M., Onokpise, O., Abazinge, M.,
Louime, C., Dzomeku, M., Boateng, L., &
Awumbilla, B. (2008). Sustainable
mushroom production in Africa: A case
study in Ghana. African Journal of
Biotechnology, 7(3), 249 - 253.
Bao, D., Gong, M., Zheng, H., Chen, M., Zhang,
L., Wang, H., Jiang, J., Wu, L., Zhu, Y., Zhu,
G., & Zhou, Y. (2013). Sequencing and
comparative analysis of the straw mushroom
(Volvariella volvacea) genome. PloS one,
8(3), e58294.
Barisic, V., & Zabetta, E. C. (2008).
Combustion of defferent types of biomass in
CFB Boilers. Foster Wheeler-R & D
Department, Varkaus, Finland, 6.
Biswas, M. K., & Layak, M. (2014). Techniques
for increasing the biological efficiency of
paddy straw mushroom (Volvariella
volvacea) in eastern India. Food Science and
Technology, 2(4), 52 - 57.
Chang, S. T., & Miles, P. G. (2004).
Mushrooms: Cultivation, Nutritional Value,
Medicinal Effect, and Environmental
Impact. CRC Press: 480.
Kalač, P. (2013). A review of chemical
composition and nutritional value of wild‐
growing and cultivated mushrooms. Journal
of the Science of Food and Agriculture,
93(2), 209 - 218.
Kalava, V., & Menon, S. (2012). In-vitro free
radical scavenging activity of aqueous
extract from the mycella of Volvariella
volvacea (Bulliard ex fries) singer.
International Journal of Current
Pharmaceutical Research, 4(3), 94 - 100.
Ramkumar, L., T. Ramanathan, T., &
Johnprabagaran, J. (2012). Evaluation of
nutrients, trace metals and antioxidant
actyvity in Volvariella volvacea (Bulliard ex
fries) singer. Emirates Journal of Food and
Agriculture, 24(2), 113 - 119.
Thiribhuvanamala, G., Krishnamoorthy, S., K.
Manoranjitham, V. Praksasm and S.
Krishnan. 2012. Improved techniques to
enhance the yield of paddy straw mushroom
(Volvariella volvacea) for commercial
cultivation. African Journal of
Biotechnology, 11(64), 12740 - 12748.
Wang, L., Ma, Z. Q., Du, F., Wang, H. X., Ng,
T. B (2014). Feruloyl esterase from the
edible mushroom Panus giganteus: A
potential dietary supplement. Journal of
Agricultural and Food Chemistry, 62(31),
7822 - 7827.
Xu, X., H. Yan, J. Chen and X. Zhang, 2011.
Bioactive proteins from
mushrooms. Biotechnology Advances,
29(6), 667 - 674.
Zabetta, E. C., Barišić, V., Peltola, K., & Hotta,
A. (2008). Foster wheeler experience with
biomass and waste in CFBs. In Proceedings
of the 33rd International Technical
Conference on Coal Utilization and Fuel
Systems. Presented in the 33rd Clearwater
Conference Clearwater. The United States of
America: Florida.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hieu_qua_cua_phuong_phap_xep_mo_va_dot_ao_mo_den_sinh_truong.pdf