KẾT LUẬN
Trong thời gian nghiên cứu từ 15/10/2012 –
30/4/2013, sau khi áp dụng can thiệp tư vấn và
hướng dẫn đi bộ cho 89 phụ nữ trong độ tuổi
từ 45 ‐ 55 có hội chứng quanh mãn kinh đi
khám tại bệnh viện Từ Dũ, chúng tôi rút ra kết
luận sau:
‐Cải thiện CLCS thấy được ở 5/6 lĩnh vực
theo thang điểm WHQ. Tuy nhiên, chỉ lĩnh vực
triệu chứng cơ thể (71,4 so với 69,8) và triệu
chứng vận mạch (82,0 so với 76,1) tình trạng cải
thiện mới rõ rệt và có ý nghĩa thống kê. Các lĩnh
vực đánh giá sức khỏe, trí nhớ/ tập trung và vấn
đề giấc ngủ cũng có cải thiện nhưng sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê.
‐Các yếu tố ảnh hưởng lên khả năng cải
thiện CLCS sau 3 tháng tái khám bao gồm BMI
và tập thể dục. Những đối tượng thừa cân có xu
hướng giảm khả năng cải thiện CLCS xuống 3
lần so với nhóm BMI trung bình. So với nhóm đi
bộ không tốt (điểm trung bình ≤3), nhóm đi bộ
tốt (điểm trung bình >3) làm tăng khả năng cải
thiện CLCS lên 2,48 lần.
KIẾN NGHỊ
Mở rộng chương trình tư vấn và hướng dẫn
tập thể dục ở các cơ sở y tế cho những phụ nữ
độ tuổi mãn kinh có triệu chứng nhưng không
thể dùng hormone thay thế.
Bên cạnh tư vấn và tập thể dục có thể thực
hiện thêm các nghiên cứu về các phương pháp
không hormone khác như các thuốc điều trị
triệu chứng, chế độ ăn, để có nhiều lựa chọn hơn
cho phụ nữ có triệu chứng mãn kinh nhưng
không thể sử dụng hormone thay thế
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 174 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của tư vấn và đi bộ trên phụ nữ có rối loạn quanh mãn kinh tại bệnh viện Từ Dũ (2013), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 207
HIỆU QUẢ CỦA TƯ VẤN VÀ ĐI BỘ TRÊN PHỤ NỮ
CÓ RỐI LOẠN QUANH MÃN KINH TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ (2013)
Trịnh Hoài Ngọc*, Võ Minh Tuấn*, Nguyễn Thị Minh Thu*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của tư vấn và đi bộ trên phụ nữ có loạn quanh mãn kinh và xác định các yếu
tố ảnh hưởng lên kết quả của cách can thiệp này tại bệnh viện Từ Dũ.
Phương pháp: Nghiên cứu giả thực nghiệm được thực hiện trên phụ nữ 45‐55 tuổi có triệu chứng mãn
kinh tại bệnh viện Từ Dũ từ 11/2012 đến 4/2013. 89 phụ nữ được nhận vào chương trình tư vấn và đi bộ.
Những người tham gia đi bộ là trung bình 3 ngày mỗi tuần trong 12 tuần. Hiệu quả của can thiệp được đánh
giá bằng sự cải thiện chất lượng cuộc sống theo thang điểm Women’s Health Questionaire (WHQ) sau 3 tháng.
Kết quả: Chất lượng cuộc sống cải thiện có ý nghĩa thống kê ở các lĩnh vực triệu chứng cơ thể và triệu
chứng vận mạch. Sau tư vấn, khả năng cải thiện chất lượng cuộc sống ở nhóm đi bộ >3 ngày một tuần tăng lên
2,48 lần (KTC 95% 1,05 – 5,83) so với nhóm đi bộ ≤3 ngày một tuần. Phụ nữ thừa cân làm giảm khả năng cải
thiện chất lượng cuộc sống xuống 3 lần (KTC 95% 0,11 – 1,00) so với phụ nữ có cân nặng trung bình.
Kết luận: Tư vấn và đi bộ đã cải thiện chất lượng cuộc sống tốt cho phụ nữ có triệu chứng quanh mãn kinh.
Phụ nữ thừa cân là yếu tố làm giảm hiệu quả của can thiệp.
Từ khóa: tư vấn, đi bộ, chất lượng cuộc sống, quanh mãn kinh
ABSTRACT
THE EFFECT OF COUNSELING AND WALKING ON WOMEN
WITH PERIMENOPAUSAL SYNDROME
Trinh Hoai Ngoc, Vo Minh Tuan*, Nguyen Thi Minh Thu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 206 ‐212
Objective: To assess the effect of counseling and walking on women with perimenopausal syndrome and to
determine the factors that influence to the effects.
Methods: Quasi‐experimental study was carried out in women at the age of 45 to 55 with perimenopausal
syndrome at Tu Du hospital from November 2012 to April 2013. 89 womens were enrolled in an counseling and
walking program. The participants had been guided to walk at least 3 days per week for 12 weeks. After 3 months,
the effect of program was evaluated. We measured the scale differnce of quality of life using Women’s Health
Questionaire scale (WHQ).
Result: Quality of life (QOL) was improved significantly in psychosomatic and vasomotor symptoms. The
odds of improved QOL in group walked >3 days per week were 2.48 times higher than group walked ≤3 days per
week (95% CI 1.05 – 5.83). Women with high body mass index (BMI) was improved QOL less 3 times than
women with BMI normal (95% CI 0.11 – 1.00).
Conclusion: Counseling and walking was shown to enhanced quality of life for women with
perimenopausal syndrome. Overweight was reduced the effect of the intervention.
Keywords: counseling, walking, quality of life, perimenopause.
* Bộ môn Sản, Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên hệ: PGS.TS.BS. Võ Minh Tuấn ĐT: 0909727199 Email: drvo_obgyn@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 208
GIỚI THIỆU
Triệu chứng mãn kinh và các rối loạn quanh
thời kỳ mãn kinh có thể ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống (CLCS) của người phụ nữ. Từ
lâu, hormone thay thế đã là tiêu chuẩn và có
hiệu quả nhất trong điều trị triệu chứng quanh
mãn kinh. Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ chỉ
định y khoa và điều kiện kinh tế để trị liệu theo
phương pháp này. Bên cạnh hormone thay thế,
hiện nay có nhiều phương pháp khác như thuốc
điều trị triệu chứng, chế độ dinh dưỡng, tư vấn,
tập thể dục đã đem lại nhiều lựa chọn hơn cho
phụ nữ mãn kinh. Việc áp dụng liệu pháp
không hormone đã và đang có nhiều nghiên cứu
tiến hành để xem xét tính hiệu quả.
Nghiên cứu của các tác giả Forouhari (2010)
vàYadzkhasti (2012) cho thấy, tư vấn về rối loạn
mãn kinh có thể cải thiện được một số triệu
chứng(7,15). Một số nghiên cứu khác can thiệp tập
thể dục như đi bộ, đạp xe, yoga trong khoảng
thời gian 8 đến 12 tuần cũng làm giảm các triệu
chứng mãn kinh và cải thiện CLCS(1,6). Cũng có
nghiên cứu kết hợp tư vấn và tập thể dục như
Ueda (2004) và Duijts (2009), kết quả cũng cải
thiện CLCS ở nhiều lĩnh vực(5,13).
Tại Việt Nam, các phương pháp điều trị
không hormone như tư vấn, đi bộ cũng đang
được thực hiện. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này. Vì vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu: Hiệu quả của
đi bộ và tư vấn về rối loạn quanh mãn kinh
tại bệnh viện Từ Dũ, nhằm trả lời câu hỏi
“Liệu việc tư vấn về rối loạn quanh mãn kinh
và phương pháp đi bộ có làm cải thiện CLCS
cho phụ nữ có hội chứng quanh mãn kinh hay
không?”
Mục tiêu nghiên cứu
1. Đánh giá hiệu quả của tư vấn và đi bộ lên
rối loạn quanh mãn kinh.
2. Xác định yếu tố ảnh hưởng lên hiệu quả
của can thiệp.
PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu giả thực nghiệm (Quasi
Experimental Study). Đây là thiết kế nghiên cứu
được sử dụng để đánh giả hiệu quả trước và sau
can thiệp.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Phụ nữ 45‐55 tuổi.
Dân số nghiên cứu
Phụ nữ 45‐55 tuổi đến khám vì hội chứng
quanh mãn kinh tại khoa khám bệnh bệnh
viện Từ Dũ và không được sử dụng hormone
thay thế.
Dân số chọn mẫu
Phụ nữ 45‐55 tuổi đến khám vì hội chứng
quanh mãn kinh tại khoa khám bệnh bệnh viện
Từ Dũ từ 16/11/2012 đến 31/01/2013 không được
sử dụng hormone thay thế và đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Cỡ mẫu
Công thức tính cỡ mẫu là công thức so sánh
2 trung bình của một nhóm đối tượng trước và
sau can thiệp:
22
2
2
2
2
1 /
ZZn
n = số đối tượng nghiên cứu. Độ lệch của 2 trung bình: ∆
= μ1 – μ2 = 10. Giả thiết điểm số CLCS sau can thiệp thay
đổi là 10 điểm sẽ có ý nghĩa theo nghiên cứu của
Wiklund(98). σ = 20 (ước lượng tối đa bằng 2 lần độ lệch
của 2 trung bình).
Các bảng đánh giá đều cho thang điểm từ 0
đến 100.
Sai lầm loại I: α = 0,05.
Sai lầm loại II: β = 0,1 => Năng lực mẫu = 90%.
Vậy n = 2x202(1,96 + 1,28)2 / 102 = 83,98.
n = 84 trường hợp.
Dự kiến 10% mất dấu nên cần ít nhất 93 đối
tượng để đảm bảo năng lực mẫu cho mục tiêu
nghiên cứu chính.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 209
Công cụ thu thập số liệu
Bộ câu hỏi Women’s Health Questionaire
Đây là bộ câu hỏi được sử dụng để đánh
giá CLCS của phụ nữ tuổi mãn kinh bắt nguồn
từ nước Anh năm 1992(9). Bộ câu hỏi gồm 23
câu (WHQ_23), chia thành 6 lĩnh vực sức khỏe
bao gồm:lo âu/trầm cảm (7 câu), triệu chứng
vận mạch (2 câu), sức khỏe (4 câu), triệu chứng
cơ thể (5 câu), trí nhớ/tập trung (3 câu) và rối
loạn giấc ngủ (2 câu). Bộ câu hỏi này cũng
được sử dụng để đánh giá hiệu quả trước và
sau can thiệp.
Bộ câu hỏi được dịch sang tiếng Việt với 2
người dịch xuôi, 2 người dịch ngược và 1 người
hiệu chỉnh đều là các giáo viên và người dịch
thuật có kinh nghiệm. Sau đó bộ câu hỏi được
phát cho 30 người từ 14 tuổi trở lên, biết đọc
tiếng Việt với hình thức tự điền. Mục đích là
đánh giá tính chấp nhận của bộ câu hỏi tiếng
Việt. Kết quả bộ câu hỏi được chấp nhận và sử
dụng cho nghiên cứu chính thức.
Phương pháp tiến hành
Nghiên cứu thử 30 đối tượng từ 45 – 60 tuổi
đến khám vì triệu chứng mãn kinh từ 01/11/2012
đến 05/11/2012. Mục đích nghiên cứu thử nhằm
đánh giá tính giá trị và độ tin cậy của bộ câu hỏi
WHQ_23. Sau khi thu thập các đặc điểm dân số
(tuổi, giới, trình độ học vấn, kinh tế), các đối tượng
này hoàn tất bộ câu hỏi WHQ_23 bằng cách tự
điền trong lần thứ nhất và thực hiện lại lần thứ hai
(cách lần đầu 7‐14 ngày).
Tính tin cậy được đánh giá bằng hệ số
Cronbach’s α và hệ số tin cậy test‐retest (trong
đó giá trị hệ số Cronbach’s α và test‐retest từ 0,7
trở lên mới đạt yêu cầu).
Bảng 1. Tính tin cậy của bộ câu hỏi WHQ_23
Thang đo Tổng số câu Cronbach’s α
(n = 30)
Test-retest
(n = 18)
LATC 7 0,84 0,93
DGSK 4 0,66 0,74
TCCT 5 0,80 0,82
TNTT 3 0,78 0,92
TCVM 2 0,85 0,98
VDGN 2 0,88 0,81
Hệ số Cronbach’s α đạt giá trị trên 0,7 ở 5
lĩnh vực, ngoại trừ lĩnh vực đánh giá sức khỏe
là 0,66.
Đánh giá trên 11 đối tượng tái khám,
chúng tôi tính được giá trị hệ số tin cậy test‐
retest thay đổi trong khoảng 0,74 ‐ 0,98. Kết
quả của nghiên cứu thử không được sử dụng
trong nghiên cứu chính.
Chương trình tư vấn và đi bộ
Từ ngày 16/11/2012 – 31/01/2013 chúng tôi
nhận vào nghiên cứu 96 đối tượng từ 45 – 55
tuổi có triệu chứng mãn kinh và không sử dụng
được hormone thay thế. Chúng tôi tiến hành thu
nhận thông tin cơ bản và đánh giá CLCS bằng
bộ câu hỏi WHQ. Sau đó mỗi đối tượng sẽ được
thảo luận và tư vấn như sau:
Tư vấn
Chương trình tư vấn được thực hiện dựa
theo hướng dẫn của Hiệp Hội Sản Phụ Khoa
Hoa Kỳ (ACOG) và Hiệp Hội Mãn Kinh Bắc Mỹ
(NAMS) (2000)(12). Thời gian tư vấn cho mỗi đối
tượng khoảng 30 phút gồm các vấn đề sau:
‐Định nghĩa về thời kỳ mãn kinh.
‐Các triệu chứng mãn kinh.
‐Ảnh hưởng của các triệu chứng này lên CLCS.
‐Các phương pháp điều trị triệu chứng.
‐Các phương pháp điều trị không hormone.
‐Hiệu quả của tư vấn và đi bộ.
‐Phương pháp đi bộ đúng cách.
Đi bộ
Phương pháp đi bộ dựa theo nghiên cứu của
Daley (2007)(3). Đi bộ >3 ngày mỗi tuần trong 12
tuần, mỗi ngày 30 phút. Thời điểm đi bộ tốt nhất
là buổi sáng sớm hoặc sau bữa ăn tối.
Nhật ký theo dõi
Sau khi tư vấn, chúng tôi phát cho mỗi đối
tượng một bảng nhật ký theo dõi gồm 2 phần
Phần 1: Tóm lược theo tư vấn nhận thức bao
gồm các mục: Thông tin cơ bản về mãn kinh; các
triệu chứng mãn kinh; các phương pháp giảm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 210
triệu chứng; lợi ích của tập thể dục; cách tập thể
dục hiệu quả.
Phần 2: Bảng nhật ký tập thể dục trong 12
tuần do đối tượng tự đánh giá, mỗi tuần chia
thành 7 mức độ từ 1 tới 7 theo thang điểm
Likert, tương đương với 1: Tập tệ nhất, cho tới 7:
Tập tốt nhất. Bên cạnh đó là phần ghi chú khó
khăn, tuần nào ghi nhận từ 1 đến 3, đối tượng tự
ghi chú lại khó khăn để tìm yếu tố liên quan đến
việc tập thể dục.
Kết thúc nghiên cứu
Các đối tượng tái khám sau 3 tháng được
đánh giá lại CLCS theo thang điểm WHQ.
Khoảng thời gian chênh lệch cho phép là 7 ngày.
Chúng tôi thu lại bảng nhật ký theo dõi. Sau
đó, tính điểm số trung bình mức độ tập thể dục
của mỗi đối tượng bằng công thức:
Số điểm trung bình = Tổng số điểm / 12
Cuối cùng, chúng tôi đã chia thành 2 mức độ
đơn giản: Tập thể dục tốt là khi điểm trung bình
>3 và tập không tốt là điểm trung bình ≤3. Ghi
nhận lại tất cả các khó khăn của đối tượng.
Phân tích số liệu
Điểm số CLCS trước và sau can thiệp được
tính trung bình và độ lệch chuẩn. Đánh giá
hiệu quả của can thiệp bằng so sánh trước và
sau với phép kiểm Pair t‐test. Các yếu tố: nơi ở,
trình độ học vấn, nghề nghiệp, BMI, tình trạng
mãn kinh, bệnh nội khoa được đưa vào
phương trình hồi quy đa biến bằng phép kiểm
Poisson để xác định yếu tố ảnh hưởng lên hiệu
quả của can thiệp. Tất cả các phép kiểm được
thực hiện với độ tin cậy 95%.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Từ ngày 16/11/2012 đến ngày 31/01/2013,
chúng tôi đã đưa vào nghiên cứu tổng cộng 96
đối tượng từ 45 – 55 tuổi, đi khám tại phòng
khám phụ khoa bệnh viện Từ Dũ. Sau khi giải
thích mục đích nghiên cứu, các đối tượng đều
đồng ý tham gia. Chúng tôi sử dụng hình thức
phỏng vấn trực tiếp, sau đó hướng dẫn cho các
đối tượng tự điền vào bảng câu hỏi WHQ_23
trong tất cả các trường hợp.
Sau 3 tháng theo dõi, có 89 đối tượng quay
lại tái khám. Tỷ lệ mất dấu là 7%, đây là tỷ lệ
nhỏ nên không được tìm hiểu và phân tích
riêng. Trong số 89 đối tượng quay lại tái khám,
tỷ lệ hoàn trả nhật ký là 100%.
Bảng 2. Đặc điểm dịch tễ học nhóm nghiên cứu
Đặc điểm Tổng (n = 89) Tỷ lệ (%)
Tuổi 45-49 50 56,2
50-55 39 43,8
Nghề nghiệp
Nội trợ 31 34,8
Buôn bán 25 28,1
Nông dân 33 37,1
Trình độ học
vấn
≤ Cấp 1 39 43,8
Cấp 2 32 36,0
≥ Cấp 3 18 20,2
BMI
Trung bình 75 84,2
Nhẹ cân 3 3,4
Thừa cân 11 12,4
Nơi cư ngụ Thành thị 49 55,1
Nông thôn 40 44,9
Không HRT
vì:
Ra huyết âm đạo 43 48,3
Tăng huyết áp 18 20,2
Bệnh gan, thận 9 11,1
Không đồng ý 19 21,4
Tuổi trung bình của đối tượng tham gia
nghiên cứu là 49,1 ± 3,4 tuổi. Trong đó, 19%
đối tượng đã hết kinh trên 12 tháng.Nghề
nghiệp phân bố đồng đều ở 3 lĩnh vực nội trợ,
buôn bán và nông dân. Không có đối tượng
nào làm công nhân hay văn phòng. Trình độ
học vấn chủ yếu từ cấp 2 trở xuống chiếm
79,8%. Đối tượng có BMI trung bình chiếm tỷ
lệ cao nhất là 84,2%, thấp nhất là nhóm nhẹ
cân. Tỷ lệ các đối tượng sống ở thành thị và
nông thôn là tương đương nhau.
Về lý do không sử dụng hormone thay thế,
chủ yếu có chống chỉ định gồm 2 lý do chính: Ra
huyết âm đạo chưa rõ nguyên nhân (48,3%) và
có bệnh lý nội khoa mãn tính đang điều trị
(30,3%) như tăng huyết áp, bệnh thận, gan. Còn
lại không đồng ý sử dụng hormone thay thế do
điều kiện kinh tế.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 211
Bảng 3. So sánh điểm số trung bình WHQ trước và
sau 3 tháng theo dõi
Lĩnh vực Trước (n = 89) Sau (n = 89) P*
Lo âu Trầm cảm 80,3±13,9 80,6±13,5 0,227
Đánh giá sức khỏe 60,6±14,3 61,5±13,0 0,205
TC cơ thể 69,8±21,2 71,4±18,4 0,019
Trí nhớTập trung 77,8±18,4 78,4±23,2 0,251
TC vận mạch 76,1±25,0 82,0±21,4 0,001
Vấn đề giấc ngủ 57,9±30,4 59,2±29,8 0,239
*Kiểm định Student mẫu ghép cặp
Ngoại trừ lĩnh vực lo âu/ trầm cảm gần như
không thay đổi sau 3 tháng theo dõi, 5/6 lĩnh vực
còn lại đều cho thấy sự cải thiện về điểm số
WHQ. Tuy nhiên, chỉ các lĩnh vực triệu chứng
cơ thể và triệu chứng vận mạch sự khác biệt này
mới có ý nghĩa thống kê với P đều nhỏ hơn 0,05.
Sau 3 tháng theo dõi các đối tượng trong
nghiên cứu của chúng tôi cải thiện CLCS ở các
lĩnh vực triệu chứng cơ thể và triệu chứng vận
mạch. Kết quả này tương tự với các nghiên cứu
của Duijts và Forouhari(5,7). Kết quả này có thể do
phương pháp cũng như thời gian can thiệp
trong nghiên cứu của chúng tôi tương tự các
nghiên cứu trên.
Bảng 4. Phân tích hồi quy đa biến mối liên quan giữa các yếu tố với tỷ lệ cải thiện CLCS
Yếu tố Cải thiện (n = 56) Không cải thiện (n = 33) RR P*
Nghề nghiệp
Nội trợ
Buôn bán
Nông dân
22(71,0%)
10(40,0%)
24(72,7%)
9(29,0%)
15(60,0%)
9(27,3%)
Ref
0,54
0,90
0,181
0,744
Học vấn
≤ Cấp 1
Cấp 2
≥ Cấp 3
Tình trạng hôn nhân
Ở với chồng
Không ở với chồng
Nơi ở
Thành thị
Nông thôn
Mãn kinh
Chưa mãn kinh
Đã mãn kinh
Chỉ số khối cơ thể
Trung bình
Thừa cân
Nhẹ cân
Bệnh nội khoa
Không có bệnh
Có bệnh
Đi bộ**
Không tốt
Tốt
23(59,0%)
23(71,9%)
10(55,6%)
46(59,7%)
10(83,3%)
28(57,1%)
28(70,0%)
42(60,0%)
14(73,7%)
52(69,3%)
2(18,2%)
2(66,7%)
33(56,9%)
23(74,2%)
13(44,8%)
43(71,7%)
16(41,0%)
9(28,1%)
8(44,4%)
31(40,3%)
2(16,7%)
21(42,9%)
12(30,0%)
28(40,0%)
5(26,3%)
23(30,7%)
9(81,8%)
1(33,3%)
25(43,1%)
8(25,8%)
16(55,2%)
17(28,3%)
Ref
1,17
1,24
Ref
1,08
Ref
1,21
Ref
1,06
Ref
0,33
1,17
Ref
1,02
Ref
2,48
0,621
0,583
0,848
0,503
0,867
0,045
0,799
0,952
0,038
*Poisson đa biến. ** Đi bộ tốt là điểm trung bình >3, không tốt là điểm trung bình ≤3 theo thang điểm Likert từ 1‐7
Theo nghiên cứu của Nuri, CLCS không cải
thiện sau 15 tuần tái khám. Kết quả này có thể
do cách chọn mẫu của tác giả khác với nghiên
cứu của chúng tôi. Trong khi nghiên cứu của
chúng tôi lựa chọn đối tượng 45‐55 tuổi có triệu
chứng mãn kinh thì nghiên cứu của Nuri lựa
chọn các đối tượng đã mãn kinh và có ung thư
vú(11). Theo Hiệp Hội Sản Phụ Khoa Hoa Kỳ năm
2010, sau khi mãn kinh thật sự, người phụ nữ
không còn than phiền về các triệu chứng rối loạn
kinh nguyệt, triệu chứng vận mạch cũng biến
mất tự nhiên(2). Vì vậy các triệu chứng này cũng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 212
không thay đổi nhiều sau điều trị. Thêm một
điểm nữa, trong khi nghiên cứu của chúng tôi
kết hợp cả tư vấn và tập thể dục thì nghiên cứu
của Nuri chỉ can thiệp tập thể dục mà thôi.
Sau khi đưa tám yếu tố vào phương trình
hồi quy đa biến nhằm kiểm soát yếu tố gây
nhiễu, kết quả chỉ còn yếu tố tập thể dục và
BMI có ảnh hưởng lên tỷ lệ cải thiện CLCS sau
3 tháng tái khám. Những đối tượng thừa cân
có xu hướng giảm khả năng cải thiện CLCS
xuống 3 lần so với nhóm BMI trung bình. So
với nhóm đi bộ không tốt (điểm trung bình
≤3), nhóm đi bộ tốt (điểm trung bình >3) làm
tăng khả năng cải thiện CLCS lên 2,48 lần.
Theo nghiên cứu của Zolnierczuk‐Kieliszek,
CLCS thấp hơn ở nhóm nông dân và cao hơn ở
nhóm công nhân viên như giáo viên, kế toán,
quản lý(16). Điều này cũng dễ hiểu, vì ở các nước
phương Tây, nhóm nghề nghiệp dựa vào trí óc
thường có thu nhập cao hơn nhiều so với nhóm
lao động chân tay. Điều kiện kinh tế và thu nhập
cao có thể khiến cho CLCS của người phụ nữ tốt
hơn. Trong khi đó, nghiên cứu của chúng tôi chỉ
có 3 nhóm nghề nghiệp chính là nội trợ, buôn
bán và nông dân, sự khác biệt này có thể do mẫu
của chúng tôi chủ yếu là các trường hợp khám
bảo hiểm, có thể bỏ sót nhóm đối tượng công
nhân viên có thu nhập khá hơn và thường họ
chọn khám dịch vụ.
Theo De Lorenzi, CLCS không phụ thuộc
trình độ văn hóa(4). Phụ nữ có trình độ văn hóa
cao, có nhiều hiểu biết, làm công việc trí óc lại ít
vận động, ngược lại những người có trình độ
văn hóa thấp lại thường vận động nhiều hơn.
Hai yếu tố này kết hợp cho thấy trình độ văn
hóa cao hay thấp không ảnh hưởng nhiều đến
CLCS của phụ nữ mãn kinh.
Nghiên cứu của Zolnierczuk‐Kieliszekcho
thấy phụ nữ sống ở thành thị có CLCS cao hơn
so với nông thôn ở các lĩnh vực lo âu/ trầm cảm
và vấn đề giấc ngủ(16). Theo các tác giả trên, sự
khác biệt về CLCS giữa 2 nhóm này phụ thuộc
vào nhiều yếu tố: Trình độ học vấn, nghề nghiệp
và thu nhập. Phụ nữ sống ở thành thị thường có
trình độ học vấn cao hơn, có nghề nghiệp ổn
định và thu nhập tốt hơn phụ nữ sống ở nông
thôn. Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi,
các đối tượng nhìn chung có trình độ học vấn
thấp, không có đối tượng nào làm các công việc
trí óc và thu nhập của họ chủ yếu là đủ sống. Vì
vậy yếu tố nơi ở không làm thay đổi tỷ lệ thành
công của can thiệp.
Theo Girod, khi so sánh điểm số WHQ ở 2
nhóm 58 tuổi, điểm số trong
lĩnh vực đánh giá sức khỏe và trí nhớ/ tập trung
của nhóm <49 tuổi cao hơn (66,6 và 67,6 so với
63,1 và 64,9)(8). Trong các lĩnh vực còn lại, điểm
số WHQ của nhóm >58 tuổi cao hơn. Điều này
có thể được giải thích là do sau khi mãn kinh
thật sự, người phụ nữ không còn than phiền về
các triệu chứng rối loạn kinh nguyệt, triệu
chứng vận mạch cũng biến mất tự nhiên. Sự
khác biệt về kết quả trong nghiên cứu của chúng
tôi với nghiên cứu của Girod có thể do mẫu
trong nghiên cứu của chúng tôi ít hơn nên chưa
thấy rõ được sự khác nhau giữa 2 nhóm.
Theo nghiên cứu của Daley, yếu tố BMI ảnh
hưởng có ý nghĩa lên các CLCS ở các lĩnh vực
triệu chứng cơ thể, triệu chứng vận mạch và sức
hấp dẫn(3). Sau 3 tháng theo dõi, nhóm béo phì
có xu hướng giảm tỷ lệ cải thiện CLCS so với 2
nhóm thừa cân và trung bình. Các lĩnh vực có
ảnh hưởng là đánh giá sức khỏe và sức hấp dẫn.
Nghiên cứu của Li năm 2005 cho thấy, trọng
lượng cơ thể tăng trên 5kg làm giảm CLCS có ý
nghĩa ở lĩnh vực triệu chứng cơ thể(10). Như vậy,
những phụ nữ thừa cân không những có CLCS
thấp hơn phụ nữ có cân nặng trung bình mà
mức độ cải thiện CLCS của họ sau can thiệp
cũng thấp hơn. Điều này có thể do phụ nữ có
BMI thừa cân tuân thủ viêc tập thể dục không
tốt bằng phụ nữ có BMI trung bình. Trong khi
đó, tập thể dục là một trong những yếu tố chính
làm tăng CLCS.
So với nhóm tập thể dục không tốt, nhóm
tập thể dục tốt có tỷ lệ cải thiện CLCS tăng gấp
3,38 lần, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với
P < 0,05. Sau khi đưa các yếu tố liên quan vào
phương trình hồi quy đa biến, tỷ lệ cải thiện
CLCS cũng vẫn tăng lên tương tự ở nhóm tập
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 213
thể dục tốt (2,48 lần) và sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với P < 0,05.
Theo tác giả De Lorenzi tập thể dục thường
xuyên làm giảm tần suất và mức độ triệu chứng
bốc hỏa, cải thiện triệu chứng thần kinh, điều
hòa nhịp tim và làm tăng CLCS(4).
KẾT LUẬN
Trong thời gian nghiên cứu từ 15/10/2012 –
30/4/2013, sau khi áp dụng can thiệp tư vấn và
hướng dẫn đi bộ cho 89 phụ nữ trong độ tuổi
từ 45 ‐ 55 có hội chứng quanh mãn kinh đi
khám tại bệnh viện Từ Dũ, chúng tôi rút ra kết
luận sau:
‐Cải thiện CLCS thấy được ở 5/6 lĩnh vực
theo thang điểm WHQ. Tuy nhiên, chỉ lĩnh vực
triệu chứng cơ thể (71,4 so với 69,8) và triệu
chứng vận mạch (82,0 so với 76,1) tình trạng cải
thiện mới rõ rệt và có ý nghĩa thống kê. Các lĩnh
vực đánh giá sức khỏe, trí nhớ/ tập trung và vấn
đề giấc ngủ cũng có cải thiện nhưng sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê.
‐Các yếu tố ảnh hưởng lên khả năng cải
thiện CLCS sau 3 tháng tái khám bao gồm BMI
và tập thể dục. Những đối tượng thừa cân có xu
hướng giảm khả năng cải thiện CLCS xuống 3
lần so với nhóm BMI trung bình. So với nhóm đi
bộ không tốt (điểm trung bình ≤3), nhóm đi bộ
tốt (điểm trung bình >3) làm tăng khả năng cải
thiện CLCS lên 2,48 lần.
KIẾN NGHỊ
Mở rộng chương trình tư vấn và hướng dẫn
tập thể dục ở các cơ sở y tế cho những phụ nữ
độ tuổi mãn kinh có triệu chứng nhưng không
thể dùng hormone thay thế.
Bên cạnh tư vấn và tập thể dục có thể thực
hiện thêm các nghiên cứu về các phương pháp
không hormone khác như các thuốc điều trị
triệu chứng, chế độ ăn, để có nhiều lựa chọn hơn
cho phụ nữ có triệu chứng mãn kinh nhưng
không thể sử dụng hormone thay thế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agil A, Abike F, Daskapan A, Alaca R, Tuzun H (2010), ʺShort‐
term exercise approaches on menopausal symptoms,
psychological health, and quality of life in postmenopausal
womenʺ. Obstet Gynecol Int, 10(16).
2. American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG)
(2010), ʺMenopauseʺ. Obstet Gynaecol, 6th, 329‐336.
3. Daley A, MacArthur C, Stoke‐Lampard H, et al (2007), ʺExercise
participation, body mass index, and health‐related quality of life
in women of menopausal ageʺ. Br J Gen Pract, 57(535), 130‐135.
4. De Lorenzi DR, Baracat EC, Saciloto B, Padilha I Jr (2006),
ʺFactors related to quality of life in post‐menopauseʺ. Rev Assoc
Med Bras, 52(5), 312‐317.
5. Duijts S, Oldenburg S, Van Beurden M, Aaronson N (2009),
ʺCognitive behavioral therapy and physical exercise for
climacteric symptoms in breast cancer patients experiencing
treatment‐induced menopause: design of a multicenter trialʺ.
BMC Womenʹs Health, 9(15).
6. Elavsky S, McAuley E (2007), ʺPhysical activity and mental
health outcomes during menopause: a randomized controlled
trialʺ. Ann Behav Med, 33(2), 132‐142.
7. Forouhari S, Khajehei M, Moattari M, Mohit M (2010), ʺThe Effect of
Education and Awareness on the Quality‐of‐Life in Postmenopausal
Women .ʺ Indian J Community Med, 35(1), 109‐114.
8. Girod I, Abetz L (2004), ʺWomenʹs Health Questionaire User
Manualʺ. MAPI.
9. Hunter MS (1992), ʺThe Womenʹs Health Questionnaire: a
measure of mid‐aged womenʹs perceptions of their emotional
and physical healthʺ. T. Psychol & Health, 7, 45‐54.
10. Li C, Borgfeldt C, Samsioe G, Lidfeldt J, Nerbrand C (2005),
ʺBackground factors influencing somatic and psychological
symptoms in middle‐age women with different hormonal
status. A population‐based study of Swedish womenʺ.
Maturitas, 52(3‐4), 306‐318.
11. Nuri R, Damirchi A, Rahmani‐Nia F, Emami H (2009), ʺeffect of
exercise training on the quality of life in postmenopausal
women with breast cancerʺ. Brazilian Journal of Biomitricity, 3(4),
351‐358.
12. Schirin E (2000), ʺGuidelines for Counseling Women on the
Management of Menopause ʺ. The Journal of Family Practice,
49(11).
13. Ueda M (2004), ʺA 12‐week structured education and exercise
program improved climacteric symptoms in middle‐aged
womenʺ. J Physiol Anthropol Appl Human Sci, 23(5), 143‐148.
14. Wiklund I, Karlberg J, Mattson LA (1993), ʺQuality of life
during transdermal oestradiol therapy in postmenopausal
women: a double blind placebo controlled studyʺ. Am J Obstet &
Gynaecol, 168, 824‐830.
15. Yazdkhasti M, Keshavarz M, Khoei EM, Hosseini A, et al (2012),
ʺThe Effect of Support Group Method on Quality of Life in Post‐
menopausal Womenʺ. Iran J Public Health, 41(11), 78‐84.
16. Zolnierczuk‐Kieliszek D, Kulik TB, Jarosz MJ, et al (2012),
ʺQuality of life in peri‐ and post‐menopausal Polish women
living in Lublin Province‐differences between urban and rural
dwellersʺ. Ann Agric Environ Med, 19(1), 129‐133.
Ngày nhận bài báo : 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo : 29/11/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cua_tu_van_va_di_bo_tren_phu_nu_co_roi_loan_quanh_m.pdf