Trong số 11 bệnh nhân chúng tôi có 2 bệnh nhân bị hở hàm ếch, đây cũng là một đặc
điểm lâm sàng gặp trong bệnh cảnh suy sinh dục do suy trung tâm(9).42
Trong số 11 bệnh nhân chúng tôi, có 2 trường hợp là suy sinh dục do mắc phải. Ở 2
bệnh nhân này chúng tôi nhận thấy đáp ứng tốt với điều trị (thời gian điều trị ngắn hơn,
hiệu quả cao thể hiện qua chất lượng tinh trùng). Điều này cũng phù hợp với nhận xét của
các tác giả khác, tuy nhiên cũng chỉ là suy đoán vì số liệu thống kê chưa đầy đủ(2).
Trong nhóm nghiên cứu có 1 bệnh nhân bị tinh hoàn ẩn gần như không đáp ứng với điều
trị (sau điều trị vẫn không có tinh trùng). Theo nhiều tác giả khác thì ở những bệnh nhân suy
sinh dục do suy trung tâm có kèm theo tinh hoàn ẩn thì hầu như không đạt kết quả sau điều
trị(4).
Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới thì việc điều trị ở những bệnh nhân suy sinh dục do
suy hạ đồi tuyến yên gọi là thành công mỹ mãn khi mật độ tinh trùng chỉ đạt trên con số 1,5
triệu/ml(2,8). Qua đó cho thấy kết quả sau điều trị của chúng tôi khá khả quan, đa số mật độ
tinh trùng của các bệnh nhân đều trên 2 triệu/ml. Ngoài khả quan về mật độ tinh trùng, các
thông số khác của tinh dịch đồ như độ di động của tinh trùng, hình dạng tinh trùng bình
thường cũng cho thấy kết quả rất khích lệ, góp phần nâng cao khả năng có thai tự nhiên hay
can thiệp bằng thụ tinh nhân tạo hay thụ tinh trong ống nghiệm.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả điều trị của HCG trên bệnh nhân vô sinh nam suy hạ đồi - tuyến yên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA HCG TRÊN BỆNH NHÂN VÔ SINH NAM
SUY HẠ ĐỒI- TUYẾN YÊN
Nguyễn Xuân Quý*, Bùi Trúc Giang*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Lượng giá hiệu quả của hCG trong khởi phát và duy trì quá trình sinh tinh ở những bệnh nhân
vô sinh nam suy hạ đồi - tuyến yên (suy sinh dục do suy trung tâm- hypogonadotropic hypogonadism).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện tại khoa hiếm muộn,
bệnh viện Từ Dũ từ 5/2006- 12/2008. Tổng số 11 bệnh nhân được xác định suy sinh dục do suy hạ đồi - tuyến
yên dựa trên các đặc điểm sinh dục thứ phát, thể tích tinh hoàn (tinh hoàn teo nhỏ) và xét nghiệm nội tiết (nồng
độ FSH và LH huyết thanh thấp dưới mức bình thường, đặc biệt là nồng độ testosterone huyết thanh nhỏ hơn
100 ng/dL hay nhỏ hơn 3,5 nmol/L). Tất cả bệnh nhân đều không có tinh dịch hoặc tinh trùng khi xuất tinh.
Những bệnh nhân này được tiêm bắp hCG (Pregnyl) 1500 IU/lần x 3 lần/tuần. Trong suốt quá trình điều trị các
bệnh nhân được khám mỗi 3- 6 tháng để đo thể tích tinh hoàn và làm tinh dịch đồ. Thời gian điều trị kéo dài cho
đến khi mật độ tinh trùng đạt được tối đa hoặc là bệnh nhân có thai.
Kết quả: Trong số 11 bệnh nhân có 2 trường hợp là suy sinh dục mắc phải, số còn lại là suy sinh dục bẩm
sinh. Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 33,3 ± 7,6. Thời gian điều trị trung bình là 13 ± 4,5 tháng. Thể tích
tinh hoàn tăng, từ thể tích trung bình ban đầu là 4,9 ± 2,4 ml đến 11,8 ± 3,0 ml tại thời điểm cuối của quá trình
điều trị. Bên cạnh đó, tất cả bệnh nhân đều cải thiện rõ rệt về đặc tính sinh dục thứ phát. 10 bệnh nhân có tinh
trùng khi xuất tinh (mật độ tinh trùng trung bình là 9,5 ± 8,8 million/ml). Bệnh nhân còn lại bị tinh hoàn ẩn một
bên không có tinh trùng. Có 4 trường hợp có thai trong đó 2 trường hợp là có thai tự nhiên (tỉ lệ 18%), 1 trường
hợp có thai sau IUI (tỉ lệ 9%) và 1 trường hợp có thai sau ICSI (tỉ lệ 9%).
Kết luận: So với các phác đồ chuẩn trên thế giới kết hợp hMG và hCG thì điều trị bằng hCG đơn thuần cho
bệnh nhân vô sinh nam suy hạ đồi - tuyến yên cũng cho hiệu quả không kém và rẻ tiền hơn.
ABSTRACT
EFFECTIVE TREATMENT OF HCG ON MALE INFERTILITY WITH HYPOGONADOTROPIC
HYPOGONADISM
Nguyen Xuan Quy, Bui Truc Giang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 2 - 2009: 36 - 42
Objective: To evaluate the efficacy of hCG on induction and maintenance of spermatogenesis in male
infertility with hypogonadotropic hypogonadism.
Subjects and methodology: The cross- sectional study was performed at infertility deparment, Tu Du
hospital from May 2006 to December 2008. A total of 11 patients who were determined of hypogonadptropic
hypogonadism based on the secondary sex characteristics, testicular volume (testicular atrophy) and hormonal
detection (both serum FSH and LH level were lower than normal range, especially serum testosterone less than
100 ng/dL equivalent to 3.5 nmol/L). All of them have no either semen or sperm in the ejaculation. These patients
received 1500 IU hCG (Pregnyl) three times per week intramuscularly. During the course of treatment, the
examinations were performed every 3 to 6 months including testicular volume measurement and semen analysis.
The duration of each patients’s therapy prolonged until the value of spermatozoa concentration reached maximum
* Khoa Hiếm Muộn, Bệnh Viện Từ Dũ
37
or achieving pregnancy.
Results: Among 11 patients, there were 2 men with acquired hypogonadotropic hypogonadism, the
remaining was congenital hypogonadotropic hypogonadism. Mean age of the patients was 33.3 ± 7.6 years. Mean
duration of treatment was 13 ± 4.5 months. Tetiscular volumes increased from an initial mean of 4.9 ± 2.4 ml to
11.8 ± 3.0 ml at the endpoint of treatment. Beside that, all patients improved obviously the secondary sex
characteristics. 10 patients have sperm in the ejaculation (mean spermatozoa concentration was 9.5 ± 8.8
million/ml). The other who had uni-crytochidism remained azoospermia. Pregnancies occurred in four cases
which included two naturally achieved pregnancies (18%), one by IUI (9%) and one by ICSI (9%).
Conclusion: In comparison to the stardard protocol with the combination of hMG- hCG, therapy with hCG
alone is effective and cheaper in male hypogonadotropic hypogonadism.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy hạ đồi- tuyến yên là một bệnh lý gây ra
bởi tổn thương vùng hạ đồi, tuyến yên là nơi sản
sinh ra các gonadotropin giúp duy trì chức năng
sinh dục bao gồm các đặc tính sinh dục thứ phát
và chức năng sinh sản. Bệnh có tần suất 1/10000
ở nam, có thể là do bẩm sinh hay mắc phải(9). Về
lâm sàng bệnh có biểu hiện giảm hoặc không có
râu, lông, suy giảm khả năng tình dục, một số
trường hợp có vú to ở nam, loãng xương, không
xuất tinh hoặc xuất tinh ít và không có tinh
trùng. Về điều trị có nhiều lựa chọn tùy thuộc
nhu cầu có con của bệnh nhân:
Điều trị bằng testosterone đơn thuần: có thể
cải thiện đặc tính sinh dục thứ phát và khả năng
tình dục nhưng nếu điều trị lâu dài sẽ làm thể
tích tinh hoàn giảm, ức chế quá trình sinh tinh(6).
Điều trị bằng bơm tiêm GnRH dưới da: kích
thích sản sinh FSH và LH nội sinh, dẫn đến kích
thích và duy trì sự sinh tinh, Hoffman và
Crowley (1982) đã cấy dưới da máy bơm GnRH
cho những bệnh nhân suy hạ đồi tuyến yên. Kết
quả sau 1 tuần điều trị, gonadotropin đã gia tăng
đến mức bình thường và sự sinh tinh đã được
hồi phục(12).
Điều trị bằng FSH phối hợp với hCG.
Điều trị bằng hCG đơn thuần.
Trong các phác đồ trên thì phác đồ điều trị
bằng hCG đơn thuần thì đơn giản và rẻ tiền nhất
và nhiều báo cáo trên thế giới cũng cho thấy hiệu
quả trong khởi phát và duy trì quá trình sinh
tinh(3). Do đó chúng tôi làm nghiên cứu này để
chứng minh hiệu quả điều trị của hCG đơn
thuần trên bệnh nhân vô sinh nam suy hạ đồi-
tuyến yên.
TỔNG QUAN Y VĂN
Nam giới bị suy sinh dục do suy hạ đồi
nguyên phát thường là do bẩm sinh, đặc trưng
bởi không phát triển hoặc phát triển một cách
không đầy đủ về sinh dục ở tuổi 18. Bệnh gây ra
bởi sự khiếm khuyết trong sự chế tiết GnRH của
hạ đồi lên tuyến yên dẫn đến tuyến yên không
bị kích thích bởi GnRH nên không tiết các
gonadotropin (FSH và LH) là các hormon có tác
dụng điều khiển chi phối sự sản xuất hormon
steroid sinh dục testosterone và quá trình sinh
tinh trùng tại tinh hoàn. Do đó bệnh có kiểu hình
hoàn toàn không dậy thì ở nam giới. Dương vật
và tiền liệt tuyến kém phát triển, lông mu thưa
thớt hoặc không có, bìu nhỏ, tinh hoàn nhỏ
(khoảng 3ml trong khi tinh hoàn ở người bình
thường > 12 ml), một số trường hợp có tinh hoàn
ẩn 1 bên hoặc 2 bên, trường hợp có vú to ở nam
giới thì hiếm gặp(1). Một số triệu chứng lâm sàng
khác như mất khứu giác (hội chứng Kallmann),
hở hàm ếch, giảm thính giác(9). Những bệnh
nhân suy sinh dục do suy hạ đồi nếu không điều
trị thì sẽ không có hoặc giảm khả năng quan hệ
tình dục, xuất tinh không có tinh dịch hoặc
không có tinh trùng, biến chứng lâu dài của việc
không điều trị là loãng xương(1). Về xét nghiệm
nội tiết thì FSH, LH, testosterone đều giảm (nồng
độ testosterone huyết thanh < 100 ng/dL hoặc <
3,5 nmol/l)(9).
Về điều trị có thể dùng GnRH ngoại sinh
theo nhịp để kích thích tuyến yên sản sinh các
38
gonadotropin nội sinh, hoặc cung cấp hẳn các
gonadotropin ngoại sinh. Hai cách điều trị này
có thể khôi phục sự phát triển dậy thì bình
thường trong khi liệu pháp androgen chỉ có thể
làm phát triển biểu hiện nam tính ở bề ngoài,
nhưng nếu điều trị androgen trong thời gian dài
sẽ ức chế sinh tinh.
Đối với bệnh nhân suy tuyến yên hoặc suy
hạ đồi thì nhiều tác giả đề nghị phác đồ phối
hợp hCG 1000 - 2500 IU/lần x 2 lần/tuần với 150
IU hMG hoặc với 150 IU rFSH x 3 lần/tuần(3).
Riêng với bệnh nhân suy hạ đồi còn có một lựa
chọn thứ hai cho điều trị là dùng bơm GnRH
liều lượng là 5 - 20 µg GnRH mỗi 120 phút
(dùng bơm tiêm dưới da bụng hiệu Zyklomat
của hãng Ferring)(3).
Một số tác giả khác lại đề nghị phác đồ điều
trị bao gồm 4 giai đoạn:(4)
Giai đoạn 1: điều trị bằng testosterone
(testosterone enanthate 250mg/ngày tiêm bắp
trong thời gian 14- 28 ngày).
Giai đoạn 2: điều trị hCG đơn thuần (500 -
2500 IU hCG/lần x 2 lần/tuần).
Giai đoạn 3: hCG phối hợp với hMG (tiếp
tục điều trị với hCG, phối hợp thêm với 150 IU
hMG hoặc 150 IU rFSH x 3 lần/tuần).
Giai đoạn 4: điều trị duy trì bằng hCG đơn
thuần (sau khi sự sinh tinh đã xảy ra (có tinh
trùng, có thai): 500 - 2500 IU hCG/lần x 2
lần/tuần).
Một số tác giả khác lại cho rằng chỉ cần điều
trị bằng hCG đơn thuần có thể khởi phát và duy
trì quá trình sinh tinh, dựa trên cơ sở hCG có thể
thay thế LH kích thích tế bào Leydig tổng hợp và
chế tiết testosterone nội sinh trong tinh hoàn,
testosterone nội sinh này có vai trò kích thích
sinh tinh trùng trong ống sinh tinh và trưởng
thành tinh trùng trong mào tinh(12). Nhiều
nghiên cứu cho thấy quá trình sinh tinh vẫn có
thể xảy ra ở những người bị đột biến gen gây bất
hoạt thụ thể với FSH trên tế bào Sertoli, điều này
chứng tỏ testosterone có thể bù trừ cho sự thiếu
hụt FSH tại tinh hoàn(12). Vicary năm 1992 đã
chứng minh có thể khởi phát quá trình sinh tinh
bằng hCG đơn thuần(11). Phác đồ điều trị là 500 -
2500 IU hCG/lần x 2 lần/tuần.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô tả cắt ngang
11 bệnh nhân suy sinh dục do suy hạ đồi
không xuất tinh hoặc xuất tinh không có tinh
trùng được điều trị bằng hCG (pregnyl 1500 IU –
Organon) tiêm bắp 1500 IU/lần x 3 lần/tuần, điều
trị liên tục trong nhiều tháng. Quá trình điều trị
kết thúc trên từng bệnh nhân khi họ đạt được
mức tinh trùng tối đa (mật độ tinh trùng tối đa)
hoặc là có thai.
Các dữ liệu như tuổi, thể tích tinh hoàn (thể
tích tinh hoàn đo bằng thước đo Prader), nồng
độ FSH, LH, testosterone huyết thanh, mật độ
tinh trùng, được nhập và xử lý phân tích bằng
phần mềm thống kê SPSS 11.5
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung
Trong số 11 bệnh nhân suy sinh dục do suy
trung tâm thì có 2 trường hợp là mắc phải
(acquired hypogonadotropic hypogonadism),
còn lại 9 trường hợp đều là do bẩm sinh
(congenital hypogonadotropic hypogonadism).
Hỏi bệnh sử đều không có tiền căn chấn thương
vùng đầu, hay tiền căn mổ hoặc xạ trị vùng đầu.
Không ghi nhận có hội chứng Kallmann.
Đặc điểm riêng của từng bệnh nhân
Đặc điểm lâm sàng trước điều trị.
Bảng 1
Bệnh
nhân Tuổi
Đặc tính
SD thứ
phát
Đặc tính
khác
Phân
loại
Aspermia
hay
Azoospermia
Có tinh
hoàn
ẩn
1 51 Lông mu ít Không
Mắc
phải Aspermia Không
2 38 Lông mu ít Không
Mắc
phải Azoospermia Không
3 36 Lông mu (-)
Hở hàm
ếch
Bẩm
sinh Aspermia Không
4 30 Lông mu (-)
Hở hàm
ếch
Bẩm
sinh Aspermia Không
5 38 Lông mu ít Không
Bẩm
sinh Azoospermia Không
6 34 Lông mu ít Không
Bẩm
sinh Azoospermia Không
39
Bệnh
nhân Tuổi
Đặc tính
SD thứ
phát
Đặc tính
khác
Phân
loại
Aspermia
hay
Azoospermia
Có tinh
hoàn
ẩn
7 33 Lông mu ít Không
Bẩm
sinh Aspermia Không
8 30 Lông mu (-) Không
Bẩm
sinh Aspermia Không
9 27 Lông mu ít Không
Bẩm
sinh Azoospermia Không
10 25 Lông mu (-) Không
Bẩm
sinh Aspermia Không
11 24 Lông mu ít Không
Bẩm
sinh Azoospermia
Có 1
bên
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng (thể tích
tinh hoàn, xét nghiệm nội tiết) trước điều trị.
Bảng 2
Bệnh
nhân
Thể tích TH
(ml)
FSH
(mIU/ml)
LH
(mIU/ml)
Testosterone
(nmol/l)
1 10 1,2 0,6 0,2
2 8 1,8 0,6 1,2
3 4 2 2 1,1
4 4 1,2 0,9 0,8
5 6 0,5 0,5 1,7
6 5 0,7 0,6 1,2
7 6 1,1 0,3 0,1
8 3 1,2 0,9 0,9
9 2 0,6 0,8 1
10 3 0,7 0,8 1,3
11 3 1,2 0,8 0,9
Đặc điểm bệnh nhân sau điều trị
Bảng 3
Bệnh nhân Thời gian ĐT
(tháng)
Thể tích
TH (ml)
Mật ñộ TT (triệu/ml) Độ di ñộng
A (%)
Độ di ñộng
B (%)
Hình dạng
BT (%)
Có thai
1 6 18 25 3 20 7 Sau IUI
2 9 15 16 0 10 4 Không
3 19 12 20 4 20 8 Tự nhiên
4 18 12 4 0 5 2 Không
5 8 10 6 0 6 4 Sau ICSI
6 18 14 18 3 18 8 Tự nhiên
7 14 12 10 0 8 3 Không
8 15 11 3 0 5 1 Không
9 14 8 2 0 0 1 Không
10 15 10 1 0 0 0 Không
11 9 8 0 0 0 0 Không
Phân tích kết quả
- Tuổi trung bình của bệnh nhân: 33,3 ± 7,6 (nhỏ nhất 24, lớn nhất 51).
- Trong 11 bệnh nhân thì có 2 trường hợp là suy sinh dục mắc phải (acquired hypogonadotropic
hypogonadism), chiếm tỉ lệ 18,2%, còn lại là suy sinh dục bẩm sinh (congenital hypogonadotropic
hypogonadism).
- Có 2 trường hợp hở hàm ếch đều thuộc suy sinh dục bẩm sinh, chiếm tỉ lệ 18,2%.
- Có 1 trường hợp tinh hoàn ẩn, chiếm tỉ lệ 9,1%.
- Tất cả bệnh nhân đều quan hệ tình dục được, tuy kém, có trường hợp xuất tinh được, có trường hợp
không xuất tinh, theo phân bố như sau:
45%
55%
xuaát tinh
khoâng xuaát tinh
40
Biểu đồ 1
- Thể tích tinh hoàn trung bình trước điều trị là: 4,9 ± 2,4 ml.
- Thể tích tinh hoàn trung bình sau điều trị là: 11,8 ± 3,0 ml (lớn nhất 18 ml, nhỏ nhất là 8 ml).
Theo Nieschlag và cộng sự thì thể tích tinh hoàn dưới 12 ml được xem là nhỏ(1) và cũng
theo nghiên cứu mới đây của BS Nguyễn Thành Như tại bệnh viện Bình Dân thì thể tích
tinh hoàn ở người đàn ông Việt Nam trưởng thành từ 12- 30 ml. Căn cứ vào cơ sở này
chúng tôi thấy 100% các bệnh nhân trước điều trị đều có tinh hoàn nhỏ. Chúng ta có phân
bố tần suất thể tích tinh hoàn như sau.
9%
9%
18%
9%18%
28%
9%
10 ml 8 ml 6 ml 5 ml 4 ml 3 ml 2 ml
Biểu đồ 2: Phân bố thể tích tinh hoàn
Sau điều trị, thể tích tinh hoàn đã tăng lên rõ rệt, thể tích tinh hoàn trung bình có thể nói
đạt ở mức gần như bình thường (12ml). Sau điều trị 100% bệnh nhân đều có thể tích tinh
hoàn tăng, nếu ta lấy mốc thể tích tinh hoàn từ 12 ml trở lên là bình thường thì ta có phân bố
tần suất bệnh nhân có tinh hoàn bình thường và tinh hoàn nhỏ như sau.
45%
55%
bình thöôøng nhoû
Biểu đồ 3: Phân bố thể tích tinh hòan
- Về xét nghiệm nội tiết thì 100% bệnh nhân đều có nồng độ FSH, LH và testosterone
huyết thanh thấp (testosterone đều dưới 3,5 nmol/l).
- Thời gian điều trị trung bình là: 13 ± 4,5 tháng (lớn nhất 19, nhỏ nhất 6 tháng).
Mật độ tinh trùng trung bình sau điều trị là: 9,5 ± 8,8 triệu/ml (lớn nhất 25, nhỏ nhất
0). Theo phân loại của tiêu chuẩn của tổ chức y tế thế giới về tinh dịch đồ chúng tôi phân
làm 5 nhóm: nhóm có mật độ tinh trùng bình thường (từ 20 triệu/ml trở lên), nhóm thiểu
tinh nhẹ (có mật độ tinh trùng trong khoảng 6 - 19 triệu/ml), nhóm thiểu tinh trung bình
(có mật độ tinh trùng từ 2 dến 5 triệu/ml), nhóm thiểu tinh nặng (có mật độ tinh trùng từ
0 đến 1 triệu/ml) và nhóm không tinh trùng. Các nhóm có phân bố tần suất như sau.
41
9%
27%
37%
18%
9%
bình thöôøng thieåu tinh nheï thieåu tinh vöøa
thieåu tinh naëng khoâng tinh truøng
Biểu đồ 4: Phân bố mật độ tinh trùng sau
điều trị
18%
9%9%
64%
thai töï nhieân thai sau IUI
thai sau ICSI khoâng coù thai
Biểu đồ: Tỷ lệ có thai sau điều trị
Trong các trường hợp không có thai thì có trường hợp làm ICSI thất bại, có trường hợp
có chỉ định làm ICSI nhưng chưa làm cũng xếp vào nhóm không có thai.
BÀN LUẬN
Với bệnh nhân suy sinh dục do suy trung tâm (Hypogonadotropic Hypogonadism),
một cách chính xác chúng ta phải hiểu là các bệnh nhân này suy sinh dục (suy tinh hoàn) do
thiếu các gonadotropin (FSH, LH) do tuyến yên tiết ra. Mà tuyến yên không tiết ra các
gonadotropin thì có thể là do:
Vùng dưới đồi không tiết GnRH theo nhịp dẫn đến tuyến yên suy yếu do không nhận
được kích thích: các nhà lâm sàng xếp loại này vào nhóm bệnh lý gây ra bởi vùng dưới đồi
(hypothalamic disorders) bao gồm idiopathic hypogonadotropic hypogonadism và hội
chứng Kallmann. Điều trị nhóm bệnh lý này có thể dùng GnRH hoặc hCG/hMG(3).
Suy tuyến yên (hypopituitarism): có thể do u tuyến yên, chiếu xạ vùng tuyến yên, hay
do chấn thương, nhiễm trùng,. Việc điều trị suy sinh dục ở nhóm bệnh lý này chỉ có một
cách duy nhất bằng hCG/hMG(1).
Việc phân biệt 2 nhóm bệnh lý này có thể dễ dàng bằng test GnRH: tiêm 1 liều duy nhất
100γg GnRH. Đo nồng độ LH trước và sau khi tiêm. Nếu nồng độ LH tăng gấp đôi so với
trước khi tiêm là bình thường (Santen 1987). Chúng tôi không có điều kiện làm test này nên
điều trị theo hướng cung cấp gonadotropin ngoại sinh.
Việc dùng hCG có thể thay thế cho LH gây phóng noãn ở nữ thì ở nam hCG cũng có thể
thay thế LH kích thích tế bào Leydig tổng hợp và chế tiết testosterone nội sinh trong tinh
hoàn, góp phần khởi phát và duy trì điều hoà quá trình sinh tinh.
Trong số 11 bệnh nhân chúng tôi có 2 bệnh nhân bị hở hàm ếch, đây cũng là một đặc
điểm lâm sàng gặp trong bệnh cảnh suy sinh dục do suy trung tâm(9).
42
Trong số 11 bệnh nhân chúng tôi, có 2 trường hợp là suy sinh dục do mắc phải. Ở 2
bệnh nhân này chúng tôi nhận thấy đáp ứng tốt với điều trị (thời gian điều trị ngắn hơn,
hiệu quả cao thể hiện qua chất lượng tinh trùng). Điều này cũng phù hợp với nhận xét của
các tác giả khác, tuy nhiên cũng chỉ là suy đoán vì số liệu thống kê chưa đầy đủ(2).
Trong nhóm nghiên cứu có 1 bệnh nhân bị tinh hoàn ẩn gần như không đáp ứng với điều
trị (sau điều trị vẫn không có tinh trùng). Theo nhiều tác giả khác thì ở những bệnh nhân suy
sinh dục do suy trung tâm có kèm theo tinh hoàn ẩn thì hầu như không đạt kết quả sau điều
trị(4).
Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới thì việc điều trị ở những bệnh nhân suy sinh dục do
suy hạ đồi tuyến yên gọi là thành công mỹ mãn khi mật độ tinh trùng chỉ đạt trên con số 1,5
triệu/ml(2,8). Qua đó cho thấy kết quả sau điều trị của chúng tôi khá khả quan, đa số mật độ
tinh trùng của các bệnh nhân đều trên 2 triệu/ml. Ngoài khả quan về mật độ tinh trùng, các
thông số khác của tinh dịch đồ như độ di động của tinh trùng, hình dạng tinh trùng bình
thường cũng cho thấy kết quả rất khích lệ, góp phần nâng cao khả năng có thai tự nhiên hay
can thiệp bằng thụ tinh nhân tạo hay thụ tinh trong ống nghiệm.
KẾT LUẬN
Tóm lại, bệnh lý vô sinh nam do suy hạ đồi- tuyến yên hay nói cách khác là suy trung
tâm có nhiều phác đồ điều trị khác nhau. Trong tình hình hiện nay, chúng ta chưa phổ biến
cách điều trị bằng bơm tiêm theo nhịp GnRH (nếu thực sự bệnh nhân bị suy hạ đồi) nên
việc điều trị chủ yếu vẫn là bằng các gonadotropin ngoại sinh. Qua nghiên cứu này cho thấy
hiệu quả của hCG trong điều trị nhóm bệnh lý này so với hMG hay rFSH không kém mà lại
rẻ tiền hơn rất nhiều.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Behre H.M., Nieschlag E., Meschede D., Partsch CJ. Diseases of the Hypothalamus and Pituitary Gland. Andrology
Springer 2000: 125-139.
2. Burgues S, Calderon MD. Subcutaneous self- administration of highly purified follicle stimulating hormon and human
chorionic gonadotropin for the treatment of male hypogonadotropic hypogonadism. Spanish Collaborative Group on
male Hypogonadotropic Hypogonadism. Hum Reprod 1997; 12: 980-6.
3. Buchter D, Behre HM, Kliesch S and Nieschlag E. Pulsatile GnRH or human chorionic gonadotropin/human menopausal
gonadotropin as effective treatment for men with hypogonadotropic hypogonadism: a review of 42 cases. European
Journal of Endocrinology 1998; 139: 298-303.
4. Depenbusch M, von Eckardstein S, Simoni M and Nieschlag E. Maintenance of spermatogenesis in hypogonadotropic
hypogonadal men with human chorionic gonadotropin alone. European Journal of Endocrinology 2002; 147: 617-624.
5. Finkel DM, Phillips JL, Snyder PJ. Stimulation of spermatogenesis by gonadotropins in men with hypogonadotropic
hypogonadism. N Engl J Med 1985; 313: 651-5.
6. Howles CM, Tanaka T, Matsuda T. management of male hypogonadotropic hypogonadism. Endocr J 2007; 54: 177-90.
7. Johnsen SG. Maintenance of spermatogenesis induced by hMG treatment by means of continuous hCG treatment in
hypogonadotropic men. Acta Endocrinologica 1978; 89: 763-69.
8. Okada H, Nimi H, Matsuda T, Tanaka T, Matsuyima K. combination therapy with recombinant human follicle stimulating
hormon (follitropin alfa) and human chorionic gonadotropin is effective and well tolerated in azoospermic Japanese men
with hypogonadotropic hypogonadism. Clin Endocrinol (Japan) 2006; 54: 725-32.
9. Raivio T, Falardeau J, Dwyer A. Reversal of idiopathic hypogonadotropic hypogonadisdm. N Engl J Med 2007; 357: 863-
73.
10. Silveira LF, MacColl GS, Bouloux PM. Hypogonadotropic hypogonadism. Semin Repro Med 2002; 20: 327-38.
11. Vicary E, Moncada ML, Sidoti G, Polosa P et al. Therapy with human chorionic gonadotropin alone induces
spermatogenesis in men with isolated hypogonadotropic hypogonadism: long term follow- up. International Journal of
Andrology 1992; 14: 320-329.
43
12. Weinbauter G.F, Gromoll J., Simoni M., Nieschlag E.. Physicology of Testicular Funtion. Andrology Springer 2000: 23-55.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_dieu_tri_cua_hcg_tren_benh_nhan_vo_sinh_nam_suy_ha.pdf