Trong nghiên cứu của chúng tôi, chiều dài
bước (Stride length) đi bộ ra sau ở thời kỳ
“không thuốc” và thời kỳ “có thuốc” lần lượt là
49,46 ± 13,53 cm và 71,34 ± 14,30 cm. Còn trong
nghiên cứu của Bryant MS và cộng sự (2011)
chiều dài bước đi bộ ra sau trong thời kỳ “không
thuốc” và thời kỳ “có thuốc” lần lượt là 48,21 ±
17,87 cm và 60,12 ± 24,01 cm(2). Sự cải thiện chiều
dài bước đi bộ ra sau ở thời kỳ “có thuốc” so với
thời kỳ “không thuốc” trong cả hai nghiên cứu
đều có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) nghĩa là
Levodopa có hiệu quả giúp gia tăng chiều dài
bước đi bộ ra sau ở bệnh nhân Parkinson.
Sự khác biệt về tốc độ cũng như chiều dài
bước đi bộ ra trước và ra sau ở trong nghiên cứu
của Bryant MS và cộng sự (2011) so với nghiên
cứu của chúng tôi có thể do mẫu trong nghiên
cứu của Bryant MS là dân số phương Tây vốn có
chiều cao trội hơn người Việt Nam và sự khác
biệt về giai đoạn bệnh và thời gian bệnh.
Levodopa đã được biết giúp cải thiện dáng
đi và cử động ở bệnh nhân Parkinson(5). Tuy
nhiên hiệu quả của Levodopa khi đi bộ ra
trước và ra sau chưa được báo cáo trước đây.
Kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng Levodopa
giúp cải thiện thành phần dáng đi ở bệnh
nhân Parkinson cả khi đi bộ ra trước lẫn ra
sau. Sự cải thiện này được phản ánh bằng sự
gia tăng tốc độ đi bộ, sự cải thiện chiều dài
bước đi cả khi đi bộ ra trước lẫn ra sau. Các
kết quả tương tự cũng đã được báo cáo trước
đây nhưng chỉ ở trường hợp đi bộ ra trước.
Nieuwboer và cộng sự (1998) đã báo cáo có sự
gia tăng rõ ràng chiều dài bước và tốc độ đi bộ
trong 3 bệnh nhân bị bệnh Parkinson khi họ ở
thời kỳ “có thuốc” của chu kỳ thuốc(7). Moore
và cộng sự (2008) nghiên cứu đáp ứng động
học của chuyển động khi điều trị Levodopa ở
bệnh nhân Parkinson và báo cáo rằng sự gia
tăng tốc độ đi bộ tương ứng sự thay đổi chiều
dài bước đi(6). Lubik và cộng sự (2006) đã báo
cáo rằng tốc độ đi bộ và chiều dài bước ở bệnh
nhân Parkinson với điều trị Levodopa và kích
thích nhân dưới đồi cải thiện mạnh nhưng cải
thiện nhiều hơn với nhóm điều trị Levodopa(5).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả Levodopa trên dáng đi ở bệnh nhân Parkinson, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 264
HIỆU QUẢ LEVODOPA TRÊN DÁNG ĐI Ở BỆNH NHÂN PARKINSON
Ngô Minh Triết*, Vũ Anh Nhị*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của Levodopa trên các thành phần dáng đi ở bệnh nhân Parkinson.
Phương pháp nghiên cứu: 32 bệnh nhân Parkinson đến khám và điều trị tại bệnh viện ĐHYD TP.HCM
trong thời gian từ 03/2013 đến 12/2013 được đánh giá thang điểm UPDRS III (Unified Parkinson’s Dísease
Rating Scale III) và các thành phần dáng đi trước và sau khi uống thuốc Levodopa trong cùng một ngày.
Kết quả: Tuổi khởi phát bệnh trung bình: 59. Thời gian bệnh: 3,5 năm. Các triệu chứng bệnh Parkinson: cử
động chậm và đơ cứng chiếm tỷ lệ 100%, run khi nghỉ 93,8%, mất ổn định tư thế 28%, triệu chứng 1 bên 50%,
hiện tượng đông cứng 15,6%. Liều levodopa thay đổi từ 50 đến 200mg (trung bình là 110,93 mg). Điểm Hoehn
& Yahr ở thời kỳ “không thuốc” và “có thuốc” lần lượt là 2,2 và 1,39. Điểm UPDRS III ở thời kỳ “không thuốc”
và “có thuốc” lần lượt là 38 và 17,06. Sự cải thiện điểm UPDRS III là có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Các thông số
tốc độ đi bộ ra trước và tốc độ đi bộ ra sau, chiều dài bước đi bộ ra trước, chiều dài bước đi bộ ra sau ở thời kỳ “có
thuốc” đều cải thiện có ý nghĩa thống kê so với thời kỳ “không thuốc” (p<0,05).
Kết luận: Levodopa giúp cải thiện các triệu chứng về vận động ở bệnh nhân Parkinson, thông qua sự cải
thiện điểm UPDRS III và giúp gia tăng tốc độ đi bộ, chiều dài bước đi ở cả hai hướng đi ra trước và ra sau từ đó
có hiệu quả cải thiện dáng đi ở bệnh nhân Parkinson.
Từ khóa: Bệnh Parkinson, dáng đi, Levodopa, tốc độ đi bộ, chiều dài bước, đi bộ ra trước, đi bộ ra sau.
ABSTRACT
EFFECTS OF LEVODOPA ON GAIT IN PERSONS WITH PARKINSON’S DISEASE
Ngo Minh Triet, Vu Anh Nhi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 264 - 270
Objective: Investigate the effects of levodopa on forward and backward gait patterns in individuals with
Parkinson Disease (PD).
Method: 32 individuals with PD admitted to University Medical Center HCMC from March 2013 to
December 2013 investigated UPDRS III and gait patterns during forward and backward walking before and after
taking Levodopa on the same day.
Results: Mean onset age is 59. The average time since symptomatic onset is 3.5 years. 100% patient with
bradykinesia and rigidity, 93.8% with rest tremor, 28% with postural instability, 50% with lateral symptoms,
15.6% with freezing phenomenon. The amount of levodopa taken by the subjects ranged from 50 to 200 mg (mean
110.93 mg) Hoehn & Yahr Stage while “off medication” is 2.2 and while “on medication” is 1.39. The mean
UPDRS motor (UPDRS III) score while “off medication” is 38 and while “on medication” is 17.06. UPDRS III
improvement is statistical significance (p<0.05). Gait speed, stride length on forward and backward walking while
“on medication” is also improved significantly when compared to while “off medication” (p<0.05).
Conclusion: Levodopa improve motor symptoms in persons with PD, through UPDRS III improvement an
Levodopa significantly increased gait speed, stride length on forward and backward walking, so Levodopa improve
gait characteristics in person with PD.
Key words: Parkinson disease, gait, Levodopa, Gait speed, stride length, forward walking, backward
walking.
* Đại Học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Ngô Minh Triết ĐT: 0976219879 Email: minhtrietmd@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 265
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Parkinson là bệnh thoái hóa thần kinh
đứng hàng thứ hai trên thế giới chỉ sau bệnh
Alzheimer, ảnh hưởng 1% đến 2% dân số trên 65
tuổi(11). Rối loạn dáng đi và các triệu chứng vận
động (run khi nghỉ, cử động chậm, đơ cứng, mất
phản xạ tư thế) là các đặc điểm gây tàn phế và
ảnh hưởng tiêu cực lên chất lượng sống của
bệnh nhân Parkinson. Các đặc điểm rối loạn
dáng đi của bệnh Parkinson bao gồm giảm tốc
độ đi bộ, chiều dài bước ngắn lại và các đợt đông
cứng(1). Rối loạn dáng đi và mất thăng bằng đưa
tới bệnh nhân Parkinson sẽ bị té ngã.
Các triệu chứng vận động của bệnh
Parkinson đáp ứng tốt với Levodopa. Tuy nhiên,
người ta chưa rõ rối loạn dáng đi trên bệnh nhân
Parkinson cải thiện với điều trị Levodopa như
thế nào. Trên thế giới đã có một số nghiên cứu
đánh giá hiệu quả của Levodopa trên dáng đi ở
bệnh nhân Parkinson. Tại Việt Nam, chưa có
nghiên cứu nào đánh giá về vấn đề này. Vì vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm các
mục đích sau:
Đánh giá sự cải thiện triệu chứng vận động
của bệnh nhân Parkinson thông qua thang điểm
vận động UPDRS III ở thời kỳ có thuốc so với
thời kỳ không thuốc.
Đánh giá sự cải thiện về dáng đi bao gồm các
thông số tốc độ (Gait Speed), chiều dài bước
(Stride Length) ở thời kỳ có thuốc so với thời kỳ
không thuốc.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trước tiên xin giới thiệu tiêu chuẩn chẩn
đoán bệnh Parkinson của Quỹ Não thuộc Hiệp
Hội Bệnh Parkinson Anh Quốc(9):
Tiêu chuẩn chấp nhận chẩn đoán: Cử động
chậm và có ít nhất một trong các triệu chứng sau:
Đơ cứng.
Run khi nghỉ tần số 4 đến 6 Hz.
Mất vững tư thế không do các rối loạn
chức năng thị giác, tiền đình, tiểu não, cảm
giác bản thể.
Tiêu chuẩn loại trừ
Tiền sử đột quỵ tái phát với các triệu chứng
Parkinson tiến triển đột ngột theo từng nấc.
Tiền sử chấn động não lặp đi lặp lại.
Tiền sử viêm não đã được xác định.
Cơn hồi mắt (oculogyric).
Đang điều trị thuốc chống loạn thần lúc bắt
đầu có các triệu chứng giống Parkinson.
Có ít nhất một người họ hàng cũng bị bệnh
Parkinson.
Có sự thuyên giảm bệnh kéo dài.
Các triệu chứng chỉ khu trú một bên kéo dài
trên 3 năm.
Liệt nhìn trên nhân tiến triển.
Có dấu tiểu não.
Rối loạn thần kinh tự chủ nặng xảy ra sớm.
Sa sút trí tuệ nặng xảy ra sớm với rối loạn
trí nhớ, rối loạn ngôn ngữ và mất thực hành
động tác.
Có dấu Babinski.
Có bằng chứng u não hay não úng thủy do
tắc nghẽn trên CT Scan.
Không đáp ứng với levodopa liều cao (nếu
đã loại trừ được tình trạng kém hấp thu).
Phơi nhiễm MPTP.
Tiêu chuẩn hỗ trợ: (cần có ít nhất là 3 tiêu
chuẩn để chẩn đoán bệnh Parkinson).
Khởi phát một bên.
Có run khi nghỉ.
Bệnh tăng tiến dần dần.
Các triệu chứng không đối xứng giữa hai
bên kéo dài từ đầu.
Đáp ứng rất tốt với levodopa (từ 70% đến
100%).
Múa giật nặng do levodopa.
Đáp ứng với levodopa từ 5 năm trở lên.
Tiến triển lâm sàng từ 10 năm trở lên.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 266
Tiêu chuẩn chọn vào
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh
Parkinson theo tiêu chuẩn đã nêu và đồng ý
tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên
cứu.
- Bệnh nhân bị hội chứng Parkinson do các
nguyên nhân khác như đã nêu trong phần tổng
quan tài liệu.
- Bệnh nhân đang sử dụng các thuốc khác
ngoài thuốc điều trị bệnh Parkinson hay nói cách
khác bệnh nhân Parkinson có các bệnh nội khoa
mãn tính khác đi kèm như tăng huyết áp, đái
tháo đường, bệnh tim mạch, COPD Chính vì
tiêu chuẩn này nên số lượng bệnh nhân đưa vào
nghiên cứu ít vì hầu hết các bệnh nhân
Parkinson đều ở lứa tuổi trung niên vốn dễ có
các bệnh nội khoa mạn tính đi kèm.
- Bệnh nhân không thể tự đứng hoặc đi bộ
trong 10m.
- Bệnh nhân có các khiếm khuyết thị giác
hoặc thính giác.
- Bệnh nhân có các bệnh lý cơ xương khớp: ở
lưng, hông, gối, gót vốn sẽ ảnh hưởng đến dáng
đi của bệnh nhân.
- Bệnh nhân có tiền sử gãy chi dưới.
- Bệnh nhân được điều trị phẫu thuật- kích
thích não sâu (DBS).
Dụng cụ thu thập số liệu
Bảng thu thập số liệu.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca.
Các bước tiến hành thu thập số liệu
Sau khi được khám hay nhập viện ĐHYD
TP.HCM, bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu
và tiêu chuẩn loại trừ được tiến hành đánh giá
như sau:
Sáng ngày đánh giá, dặn bệnh nhân tạm
chưa uống liều thuốc điều trị bệnh Parkinson.
Thời kỳ “không thuốc” được định nghĩa là
thời kỳ có triệu chứng Parkinson vào buổi
sáng khi bệnh nhân chưa uống thuốc (buổi tối
ngày trước đó, bệnh nhân vẫn uống liều thuốc
hằng ngày).
Thời kỳ “có thuốc”: sau khi bệnh nhân uống
liều Levodopa buổi sáng khoảng 45 đến 60 phút.
Thu thập các số liệu về đặc điểm đối tượng
nghiên cứu: tuổi, giới, địa chỉ, số điện thoại, nghề
nghiệp, học vấn, cân nặng, chiều cao, chỉ số khối
cơ thể BMI.
Thu thập các đặc điểm bệnh Parkinson: thời
điểm khởi bệnh, thời gian bị bệnh, các triệu
chứng chính, tổng liều Levodopa đang dùng,
liều Levodopa buổi sáng, các thuốc điều trị bệnh
Parkinson khác và liều lượng, tình trạng loạn
động, hiện tượng đông cứng.
Phân độ Hoehn & Yahr và đánh giá điểm
UDPRS III trong thời kỳ “không thuốc”.
Ghi nhận số liệu đi bộ trong 5m gồm đi ra
trước và đi lùi ra sau bằng cách quay video, ghi
nhận các đặc điểm: số bước, thời gian (s), tốc độ
(cm/s) và chiều dài bước (cm) trong thời kỳ
“không thuốc”.
Sau đó cho bệnh nhân uống liều thuốc đang
uống hằng ngày. Khoảng 60 phút sau đánh giá
lại thang Hoehn & Yahr, điểm UDPRS III, số liệu
đi bộ như trên trong thời kỳ “có thuốc”.
KẾT QUẢ
Tuổi khởi phát bệnh trung bình: 59. Thời
gian bệnh trung bình: 3,5 năm.
Các triệu chứng bệnh Parkinson: cử động
chậm và đơ cứng chiếm tỷ lệ 100%, run khi nghỉ
93,8%, mất ổn định tư thế 28%, triệu chứng 1 bên
50%, hiện tượng đông cứng 15,6%. Liều
levodopa thay đổi từ 50 đến 200mg (trung bình
là 110,93 mg).
Điểm Hoehn & Yahr ở thời kỳ “không
thuốc” và “có thuốc” lần lượt là 2,2 và 1,39. Điểm
UPDRS III ở thời kỳ “không thuốc” và “có
thuốc” lần lượt là 38 và 17,06. Sự cải thiện điểm
UPDRS III là có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 267
Bảng 1: Tương quan giữa độ nặng Hoehn&Yahr,
điểm UPDRS III ở thời kỳ “có thuốc” và “không
thuốc”
Không thuốc
(n=32)
Có thuốc
(n=32)
P
(có-không)
Hoehn&Yahr 2,2 ± 0,86 1,39 ± 0,62 <0,05
UPDRS III 38 ± 14,91 17,06 ± 9,33 <0,05
Tốc độ đi bộ ra trước ở thời kỳ “không
thuốc” là 64,38 ± 18,68 (cm/s), tốc độ đi bộ ra
trước ở thời kỳ “có thuốc” là 99,09 ± 18,14 (cm/s).
Tốc độ đi bộ ra sau ở thời kỳ “không thuốc” là
36,8 ± 12,36 (cm/s), tốc độ đi bộ ra sau ở thời kỳ
“có thuốc” là 57,65 ± 15,97 (cm/s). Chiều dài bước
đi bộ ra trước ở thời kỳ “không thuốc” là 82,05 ±
17,07cm, chiều dài bước đi bộ ra trước ở thời kỳ
“có thuốc” là 110,76 ± 14,33cm. Chiều dài bước đi
bộ ra sau ở thời kỳ “không thuốc” là 49,46 ± 13,53
cm, chiều dài bước đi bộ ra sau ở thời kỳ “có
thuốc” là 71,34 ± 14,30 cm.
Bảng 2: Tương quan giữa tốc độ, chiều dài bước đi bộ
ra trước ở thời kỳ “có thuốc” và “không thuốc”
Không thuốc
(n=32)
Có thuốc
(n=32)
P
(có-không)
Tốc độ (cm/s) 64,38 ± 18,68 99,09 ± 18,14 <0,05
Chiều dài
bước (cm)
82,05 ± 17,08 110,76 ± 14,33 <0,05
Các thông số tốc độ đi bộ ra trước và tốc độ
đi bộ ra sau, chiều dài bước đi bộ ra trước, chiều
dài bước đi bộ ra sau ở thời kỳ “có thuốc” đều
cải thiện có ý nghĩa thống kê so với thời kỳ
“không thuốc” (p<0,05). Điều này có nghĩa
Levodopa có hiệu quả cải thiện dáng đi ở bệnh
nhân Parkinson.
Bảng 3: Tương quan giữa tốc độ, chiều dài bước đi bộ
ra sau ở thời kỳ “có thuốc” và “không thuốc”
Không thuốc
(n=32)
Có thuốc
(n=32)
P
(Có-Không)
Tốc độ (cm/s) 36,80 ± 12,36 57,65 ± 15,97 <0,05
Chiều dài bước
(cm)
49,46 ± 13,53 71,34 ± 14,30 <0,05
BÀN LUẬN
Triệu chứng bệnh Parkinson
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi đều có triệu chứng cử động chậm,
điều này cũng dễ hiểu vì theo tiêu chuẩn chẩn
đoán bệnh Parkinson của Hiệp Hội Bệnh
Parkinson Anh Quốc, cử động chậm là tiêu chí
bắt buộc. Cử động chậm có thể biểu ở mặt, tạo
ra vẻ mặt vô cảm, ít biểu lộ cảm xúc, có thể có
giọng nói với phát âm nhỏ, đơn điệu,có thể ở
chi với thực hiện động tác chậm, giảm động cơ
tay khi đi, cử động chậm có thể ở một phần cơ
thể hoặc toàn thân. Đây là triệu chứng lâm
sàng đặc thù nhất của bệnh Parkinson. Tỷ lệ
cử động chậm trong nghiên cứu của chúng tôi
tương tự với nghiên cứu của Bùi Thu Trang,
Vũ Anh Nhị (2010)(3), Lê Minh, Trần Ngọc Tài
(2009)(4), Tô Thị Hồng Liên, Nguyễn Hữu
Công (2013)(9), Tan và cộng sự (2004)(8).
Triệu chứng đơ cứng cũng rất hay gặp, đây
là triệu chứng không đặc hiệu cho bệnh
Parkinson, triệu chứng này có thể gặp trong
nhiều loại bệnh khác. Nghiên cứu của chúng tôi
ghi nhận 100% bệnh nhân có triệu chứng đơ
cứng, tương tự nghiên cứu của Tan và cộng sự
(2004)(8); Bùi Thu Trang, Vũ Anh Nhị (2010)(3) còn
trong nghiên cứu của Lê Minh, Trần Ngọc Tài
(2009) là 93,8%(4).
Run là một triệu chứng thường gặp trong
bệnh Parkinson. Nghiên cứu của chúng tôi ghi
nhận 93,8% các trường hợp bệnh nhân có run
khi nghỉ, còn trong nghiên cứu của Bùi Thu
Trang, Vũ Anh Nhị (2010) tỷ lệ này là 97,8%
tương tự như kết quả được đề cập trong y văn(3).
Trong nghiên cứu của Tan và cộng sự (2004), tỷ
lệ run khi nghỉ là 76,7%(8). Tỷ lệ run khi nghỉ
trong nghiên cứu của Lê Minh, Trần Ngọc Tài
(2009) là 71,9%(4). Run khi nghỉ thường gặp ở chi
trên, nhưng cũng có thể gặp ở chi dưới, môi,
lưỡi. Đây là lý do đưa bệnh nhân đi khám
thường nhất, bởi vì run là triệu chứng dễ nhận
biết và gây lo lắng cho bệnh nhân nhất nên cần
sự chăm sóc y tế sớm.
Triệu chứng mất ổn định tư thế trong
nghiên cứu của chúng tôi là 28,1%. Trong
nghiên cứu của Lê Minh, Trần Ngọc Tài (2009)
40,6% bệnh nhân có triệu chứng mất ổn định
tư thế(4). Nghiên cứu của Tan và cộng sự (2004)
tỷ lệ này là 54,3%(8). Mặc dù nhiều tác giả xem
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 268
mất ổn định tư thế hay rối loạn phản xạ tư thế
là một triệu chứng kinh điển của bệnh
Parkinson, nhưng triệu chứng này thường
xuất hiện trễ và không đặc hiệu. Sự hiện diện
của triệu chứng này chứng tỏ bệnh nhân đã ở
giai đoạn 3 theo phân loại Hoehn & Yahr hay
nặng hơn nữa. Sự khác biệt về tỷ lệ triệu
chứng này trong nghiên cứu của chúng tôi so
với các nghiên cứu khác là do tiêu chuẩn chọn
mẫu của chúng tôi là các bệnh nhân Parkinson
còn tự đi lại được vốn có phân độ Hoehn &
Yahr từ 4 trở xuống trong khi các nghiên cứu
kia chọn mẫu bệnh nhân Parkinson trải ra từ
giai đoạn Hoehn & Yahr 0 đến 5.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, triệu chứng
Parkinson xuất hiện ở một bên chiếm tỷ lệ 50%.
Tỷ lệ bệnh nhân bị loạn động trong nghiên cứu
của chúng tôi là 12,5%. Tỷ lệ này trong nghiên
cứu của Bryant MS và cộng sự (2011) là 52,4%(2).
Sự khác biệt này là do trong nghiên cứu của
chúng tôi thời gian bệnh của bệnh nhân là 3,5 ±
2,6 năm trong khi nghiên cứu của Bryant MS và
cộng sự (2011) thời gian bệnh của bệnh nhân
trung bình là 11,81 ± 5,49 năm(2). Mà theo y văn,
thời gian bệnh càng dài thì tỷ lệ bệnh nhân bị
loạn động do thuốc ngày càng tăng.
Triệu chứng đông cứng trong nghiên cứu
của chúng tôi chiếm tỷ lệ 15,6%. Chúng tôi xác
định bệnh nhân có hiện tượng đông cứng dáng
đi khi bệnh nhân có điểm ≥ 1 ở mục 14 (hiện
tượng đông cứng) của thang điểm UPDRS. Tỷ lệ
này trong nghiên cứu của Bryant MS và cộng sự
(2011) là 90%. Sự khác biệt này là do thời gian
bệnh của bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng
tôi ngắn hơn trong nghiên cứu của Bryant MS và
cộng sự (2011)(2) và kinh nghiệm hỏi và khám
lâm sàng của chúng tôi để phát hiện ra triệu
chứng đông cứng còn chưa có nhiều.
Ảnh hưởng của Levodopa trên dáng đi của
bệnh nhân Parkinson
Điểm trung bình Hoehn & Yahr (HY) ở thời
kỳ “có thuốc” trong nghiên cứu của chúng tôi là
1,39 ± 0,62. Còn trong nghiên cứu của Bryant MS
và cộng sự (2011) là 2,57. Thang điểm thống nhất
đánh giá bệnh Parkinson phần vận động
(UPDRS III) ở thời kỳ “không thuốc” trong
nghiên cứu của chúng tôi là 38 ± 14,91, ở thời kỳ
“có thuốc” là 17,06 ± 9,33. Trong nghiên cứu của
Bryant MS và cộng sự (2011) thang điểm UPDRS
III trong thời kỳ “không thuốc” là 32,91 ± 9,61 và
trong thời kỳ “có thuốc” là 20,62 ± 7,05(2). Trong
nghiên cứu của Vokaer M và cộng sự (2003)
thang điểm UPDRS III trong thời kỳ “không
thuốc” là 39 và trong thời kỳ “có thuốc” là 9,5(9).
Liều Levodopa buổi sáng trong nghiên cứu
của chúng tôi là từ 50 đến 200mg (trung bình là
110,93 ± 43,50mg). Đây cũng là liều đánh giá hiệu
quả của Levodopa trên dáng đi ở bệnh nhân
Parkinson. Trong nghiên cứu của Bryant MS và
cộng sự (2011) liều Levodopa thay đổi từ 100 đến
300mg (liều trung bình là 152,38mg)(2). Trong
nghiên cứu của Vokaer và cộng sự (2003) liều
Levodopa trung bình là 237mg(9).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tốc độ đi
bộ ra trước trong thời kỳ “không thuốc” và
thời kỳ “có thuốc” lần lượt là 64,38 ± 18,68
cm/s và 99,09 ± 18,14 cm/s. Trong nghiên cứu
của Bryant MS và cộng sự (2011) tốc độ đi bộ
ra trước trong thời “không thuốc” và thời kỳ
“có thuốc” lần lượt là 84,14 ± 24,39 cm/s và
101,28 ± 18,71 cm/s(2). Trong nghiên cứu của
Vokaer M và cộng sự (2003) tốc độ đi bộ ra
trước trong thời “không thuốc” và thời kỳ “có
thuốc” lần lượt là 83,87 cm/s và 114,81 cm/s(9).
Sự cải thiện tốc độ đi bộ ra trước ở thời kỳ “có
thuốc” so với thời kỳ “không thuốc” trong cả
ba nghiên cứu trên đều có ý nghĩa thống kê (P
< 0,05) nghĩa là Levodopa có hiệu quả gia tăng
tốc độ đi bộ ra trước ở bệnh nhân Parkinson.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tốc độ đi bộ
ra sau trong thời kỳ “không thuốc” và thời kỳ
“có thuốc” lần lượt là 36,8 ± 12,36 cm/s và 57,65 ±
15,97 cm/s. Còn trong nghiên cứu của Bryant MS
và cộng sự (2011) tốc độ đi bộ ra sau trong thời
“không thuốc” và thời kỳ “có thuốc” lần lượt là
46,16 ± 20,08 cm/s và 58,71 ± 21,75 cm/s(2). Sự cải
thiện tốc độ đi bộ ra sau ở thời kỳ “có thuốc” so
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 269
với thời kỳ “không thuốc” trong cả hai nghiên
cứu đều có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) nghĩa là
Levodopa có hiệu quả gia tăng tốc độ đi bộ ra
sau ở bệnh nhân Parkinson.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chiều dài
bước (stride length) đi bộ ra trước ở thời kỳ
“không thuốc” và thời kỳ “có thuốc” lần lượt
là 82,05 ± 17,07 cm và 110,76 ± 14,33 cm. Còn
trong nghiên cứu của Bryant MS và cộng sự
(2011) chiều dài bước đi bộ ra trước trong thời
kỳ “không thuốc” và thời kỳ “có thuốc” lần
lượt là 91,11 ± 26,09 cm và 108,45 ± 23,86 cm(2).
Sự cải thiện chiều dài bước đi bộ ra trước ở
thời kỳ “có thuốc” so với thời kỳ “không
thuốc” trong cả hai nghiên cứu đều có ý nghĩa
thống kê (P < 0,05) nghĩa là Levodopa có hiệu
quả giúp gia tăng chiều dài bước đi bộ ra
trước ở bệnh nhân Parkinson.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chiều dài
bước (Stride length) đi bộ ra sau ở thời kỳ
“không thuốc” và thời kỳ “có thuốc” lần lượt là
49,46 ± 13,53 cm và 71,34 ± 14,30 cm. Còn trong
nghiên cứu của Bryant MS và cộng sự (2011)
chiều dài bước đi bộ ra sau trong thời kỳ “không
thuốc” và thời kỳ “có thuốc” lần lượt là 48,21 ±
17,87 cm và 60,12 ± 24,01 cm(2). Sự cải thiện chiều
dài bước đi bộ ra sau ở thời kỳ “có thuốc” so với
thời kỳ “không thuốc” trong cả hai nghiên cứu
đều có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) nghĩa là
Levodopa có hiệu quả giúp gia tăng chiều dài
bước đi bộ ra sau ở bệnh nhân Parkinson.
Sự khác biệt về tốc độ cũng như chiều dài
bước đi bộ ra trước và ra sau ở trong nghiên cứu
của Bryant MS và cộng sự (2011) so với nghiên
cứu của chúng tôi có thể do mẫu trong nghiên
cứu của Bryant MS là dân số phương Tây vốn có
chiều cao trội hơn người Việt Nam và sự khác
biệt về giai đoạn bệnh và thời gian bệnh.
Levodopa đã được biết giúp cải thiện dáng
đi và cử động ở bệnh nhân Parkinson(5). Tuy
nhiên hiệu quả của Levodopa khi đi bộ ra
trước và ra sau chưa được báo cáo trước đây.
Kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng Levodopa
giúp cải thiện thành phần dáng đi ở bệnh
nhân Parkinson cả khi đi bộ ra trước lẫn ra
sau. Sự cải thiện này được phản ánh bằng sự
gia tăng tốc độ đi bộ, sự cải thiện chiều dài
bước đi cả khi đi bộ ra trước lẫn ra sau. Các
kết quả tương tự cũng đã được báo cáo trước
đây nhưng chỉ ở trường hợp đi bộ ra trước.
Nieuwboer và cộng sự (1998) đã báo cáo có sự
gia tăng rõ ràng chiều dài bước và tốc độ đi bộ
trong 3 bệnh nhân bị bệnh Parkinson khi họ ở
thời kỳ “có thuốc” của chu kỳ thuốc(7). Moore
và cộng sự (2008) nghiên cứu đáp ứng động
học của chuyển động khi điều trị Levodopa ở
bệnh nhân Parkinson và báo cáo rằng sự gia
tăng tốc độ đi bộ tương ứng sự thay đổi chiều
dài bước đi(6). Lubik và cộng sự (2006) đã báo
cáo rằng tốc độ đi bộ và chiều dài bước ở bệnh
nhân Parkinson với điều trị Levodopa và kích
thích nhân dưới đồi cải thiện mạnh nhưng cải
thiện nhiều hơn với nhóm điều trị Levodopa(5).
KẾT LUẬN
Levodopa giúp cải thiện các triệu chứng về
vận động ở bệnh nhân Parkinson, thông qua sự
cải thiện điểm UPDRS III và giúp gia tăng tốc độ
đi bộ, chiều dài bước đi ở cả hai hướng đi ra
trước và ra sau từ đó có hiệu quả cải thiện dáng
đi ở bệnh nhân Parkinson.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Blin O, Ferrandez AM, Pailhous J, Serratrice G (1991). Dopa-
sensitive and dopa-resistant gait parameters in Parkinson's
disease. J Neurol Sci; 103:51–54.
2. Bryant MS, Rintala DH, Hou JG, Lai EC, Protas EJ (2011).
Effect of Levodopa on forward and backward gait patterns in
persons with Parkinson’s disease. Neurohabilitation,
29(3):247-252.
3. Bùi Thu Trang, Vũ Anh Nhị (2010). Nghiên cứu lâm sàng và
hình ảnh học bệnh nhân Parkinson. Tạp chí Y học TP Hồ Chí
Minh, 14(1):347-352.
4. Lê Minh, Trần Ngọc Tài (2009). Đặc điểm lâm sàng về chức
năng vận động của bệnh Parkinson và phân độ chẩn đoán
theo Hoehn-Yahr: Một khảo sát tiền cứu 32 trường hợp. Tạp
chí Y học TP Hồ Chí Minh, 13(1):363-370.
5. Lubik S, Fogel W, Tronnier V, Krause M, Konig J, Jost WH
(2006). Gait analysis in patients with advanced Parkinson
disease: different or additive effects on gait induced by
levodopa and chronic STN stimulation. Journal of Neural
Transmission, 113(2):163–173.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 270
6. Moore ST, MacDougall HG, Gracies JM, Ondo WG (2008).
Locomotor response to levodopa in fluctuating Parkinson's
disease. Experimental Brain Research, 184(4):469–478.
7. Nieuwboer A, De Weerdt W, Dom R, Nuttin B, Peeraer L,
Pattyn A (1998). Walking ability afterimplantation of a
pallidal stimulator: analysis of plantar force distribution in
patients with Parkinson's disease. Parkinsonism & Related
Disorders, 4(4):189–199.
8. Tan L C S et al (2004). Prevalence of Parkinson disease in
Singapore. Neurology, 62:1999–2004.
9. Tô Thị Hồng Liên, Nguyễn Hữu Công (2013). Tỷ lệ trầm cảm
và các yếu tố liên quan đến trầm cảm trên bệnh nhân
Parkinson. Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, 17(1):109-114.
10. Vokaer M, Abou Azar N, D Zegers de Beyl (2003). Effects of
levodopa on upper limb mobility and gait in Parkinson’s
disease. J Neurol Neurosurg Psychiatry, 74:1304–1307.
11. Zoghbi H Y(2013). Genetic mechanisms in degenerative
diseases of neurvous system. In: Kandel ER, Schwartz, Jessell
TM, Siegelbaum SA, Hudspecth AJ (eds). Principles of neural
science, 5th edition, pp. 999-1014, Mc Graw Hill, New York.
Ngày nhận bài báo: 14/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_levodopa_tren_dang_di_o_benh_nhan_parkinson.pdf