Hiệu ứng lan truyền từ FDI đến đổi mới sáng tạo: Kết quả từ mô hình GMM hệ thống hai bước

Kết luận Bài viết này nhằm đánh giá hiệu ứng lan truyền của FDI đến đổi mới sáng tạo tại quốc gia tiếp nhận. Sử dụng mô hình GMM hệ thống hai bước cho dữ liệu gồm 80 quốc gia, chúng tôi tìm ra FDI khuyến khích hoạt động nghiên cứu đổi mới công nghệ. Với quốc gia nhận vốn, FDI là một nguồn lực quan trọng giúp thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo qua 3 kênh lan truyền: (1) FDI giúp giảm rào cản về vốn với các doanh nghiệp khởi nghiệp, các dự án đổi mới công nghệ- vốn là lĩnh vực khó nhận nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, (2) FDI tạo ra hiệu ứng chuyển giao công nghệ giữa công ty mẹ và các công ty con tại nước sở tại, đồng thời tạo hiệu ứng lan truyền theo liên kết xuôi (forward linkage) và liên kết ngược (backward linkage) với các nhà cung cấp và nhà bán lẻ địa phương, (3) các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra áp lực cạnh tranh lớn, buộc các công ty trong nước phải tiến hành đổi mới công nghệ để thích ứng với môi trường kinh doanh khắc nghiệt hơn.

pdf12 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu ứng lan truyền từ FDI đến đổi mới sáng tạo: Kết quả từ mô hình GMM hệ thống hai bước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 221- Tháng 10. 2020 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Hiệu ứng lan truyền từ FDI đến đổi mới sáng tạo: Kết quả từ mô hình GMM hệ thống hai bước Trương Hoàng Diệp Hương Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng Trần Huy Tùng Khoa Kinh tế, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 16/05/2020 Ngày nhận bản sửa: 06/06/2020 Ngày duyệt đăng: 22/06/2020 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài tạo việc làm, với trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý, các công ty đa quốc gia được kỳ vọng tạo ra sự lan toả tri thức, qua đó lan truyền tới đổi mới sáng tạo tại nước nhận vốn đầu tư. Bài viết này kiểm nghiệm tác động của FDI đến đổi mới sáng tạo tại quốc gia tiếp nhận. Mô hình GMM được sử dụng để ước lượng cho dữ liệu bảng gồm 80 quốc gia từ năm 2003 đến năm 2018. Các kết quả ước lượng cho thấy FDI có tác động tích cực giúp thúc đấy quá trình đổi mới sáng tạo, kể cả trong trường hợp các biến số vĩ mô khác được kiểm soát. Từ khóa: FDI, đổi mới sáng tạo, GMM. The spillover effects from FDI to innovation: Results from two-step system GMM Abstract: Foreign direct investment (FDI) is one of the important factors promoting economic growth. In addition to job creation, with the level of technology, management experience, multinational companies are expected to spread the knowledge, thereby spreading to innovation in the host country. This paper examines the impact of foreign direct investment (FDI) on innovation in the host country. The GMM model is used to estimate table data of 80 countries from 2003 to 2018. The estimation results show that foreign direct investment has a positive impact to help accelerate the innovation process creation, even in the case of other macro variables under control. Keywords: FDI, innovation, GMM. Huong Hoang Diep Truong Email: huongthd@hvnh.edu.vn Research Institute for Banking, Banking Academy of Vietnam Tung Huy Tran Email: tungth@hvnh.edu.vn Faculty of Economics, Banking Academy of Vietnam 1. Giới thiệu Là một trong những yếu tố thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá bên cạnh thương mại và sự dịch chuyển lao động, FDI là một nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng trong phát triển kinh tế tại các quốc gia tiếp nhận, đặc biệt là các nước đang phát triển. Mặc dù tốc độ tăng trưởng dòng vốn FDI toàn thế giới đã TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - TRẦN HUY TÙNG 39Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng tăng trưởng bình quân 2,5% trong vòng 20 năm qua, quy mô dòng FDI toàn cầu năm 2018 đã tăng hơn 6 lần so với năm 1990. Xu hướng giảm kể từ năm 2017 được lý giải là do nhiều công ty đa quốc gia của Mỹ thu hồi lợi nhuận về nước sau sự thay đổi của Đạo luật Thuế năm 2017 (tax reform) (UNCTAD, 2019); sự suy giảm tỷ lệ sinh lời và sự kém hấp dẫn của các chính sách về môi trường đầu tư. Dòng FDI vào các nước trên thế giới cũng có sự không đồng đều nhau. Theo dữ liệu của UNCTAD (2020), trong khi FDI vào các quốc gia phát triển đạt mức thấp nhất kể từ năm 2004, dòng FDI vào các quốc gia đang phát triển duy trì ở mức ổn định, tăng nhẹ 2%. Cũng theo nguồn dữ liệu này, trong khi FDI vào khu vực Châu Phi tăng 11% lên mức 46 tỷ USD, tập trung chủ yếu khai thác tài nguyên; FDI vào khu vực Châu Á tăng 4%, chiếm tỷ trọng lớn nhất của dòng FDI; FDI vào khu vực Châu Mỹ La tinh và Carribe, trái lại, chứng kiến sự sụt giảm 6%. Sự thay đổi trong tốc độ tăng trưởng FDI toàn cầu dẫn đến sự gia tăng về mặt tỷ trọng vốn FDI vào các quốc gia đang phát triển, chiếm khoảng 54% (UNCTAD, 2020). Các chính sách từ tài khoá, tiền tệ hay cải thiện môi trường đầu tư được nhiều quốc gia áp dụng nhằm thu hút FDI nhờ vai trò quan trọng của nguồn vốn này trong việc tạo việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, nhiều học giả bổ sung chính sự tự nguyện hoặc không tự nguyện tạo ra tính lan toả về tri thức công nghệ giúp các doanh nghiệp nội địa cải thiện năng suất (Blomstrom và Kokko 2001; Caves 1974; Hallin và Holmstrom-Lind 2012). Thông qua khuyếch tán tri thức qua hiệu ứng mô phỏng, sự dịch chuyển lao động (Gorg và Greenway 2004), các doanh nghiệp nội địa tại nước tiếp nhận có thể đổi mới quy trình quản lý, sản xuất, tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, Hayter và Han (1998) cho rằng sự lo ngại về quyền sở hữu tri thức/công nghệ- thứ mà có thể không được bảo vệ tốt tại các quốc gia tiếp nhận có thể khiến các công ty đa quốc gia chỉ sử dụng công nghệ lạc hậu nhằm tránh mất sự độc quyền về tri thức/công nghệ, đồng thời tiết kiệm chi phí chuyển giao. Những lập luận trên khiến cho các kết luận về tác động của dòng FDI tới đổi mới sáng tạo tại nước tiếp nhận có sự không thống nhất giữa các quốc gia. Một số lý thuyết trước đây đã chỉ ra đổi mới sáng tạo thúc đẩy phát triển kinh tế (Aghion và Howitt 1992; Romer 1990), vì vậy việc tìm ra tác động thực sự của dòng vốn FDI đối với đổi mới sáng tạo là rất quan trọng. Điều này không chỉ đóng góp vào lý thuyết một kênh tác động mới của FDI đối với phát triển kinh tế, nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà quản lý liên quan tới các chính sách thu hút vốn FDI. Với dữ liệu của 80 quốc gia trong giai đoạn 2003- 2018 từ các nguồn dữ liệu do Ngân hàng Thế giới (WDI) và Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), nghiên cứu này tìm thấy tác động tích cực của dòng vốn FDI đối với đổi mới sáng tạo tại các nước nhận vốn đầu tư. Về mặt cấu trúc, theo sau phần giới thiệu, chúng tôi sẽ giới thiệu tổng quan cơ sở luận về kết quả của các công trình trước về tác động của FDI đối với đổi mới sáng tạo, sau đó trình bày phương pháp nghiên cứu. Thảo luận kết quả nghiên cứu cùng kết luận và ngụ ý chính sách được thể hiện cuối cùng. 2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu Về mặt lý thuyết, FDI có ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực tới đổi mới sáng tạo tại quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư. Tuỳ thuộc Hiệu ứng lan truyền từ FDI đến đổi mới sáng tạo: Kết quả từ mô hình GMM hệ thống hai bước 40 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 vào các điều kiện khác nhau từ cả phía công ty đa quốc gia và đặc điểm của nước nhận vốn, tác động của FDI tới đổi mới sáng tạo sẽ bị ảnh hưởng. Lý thuyết chỉ ra thông qua cơ chế: liên kết dọc, cạnh tranh, mô phỏng (bắt chước), hình thành vốn con người và sự dịch chuyển lao động (Gorg và Greenway, 2004; Berger và Diez, 2008), FDI có tác động tích cực lên đổi mới sáng tạo tại quốc gia nhận. Thứ nhất, xét cơ chế liên kết dọc, trái với việc các công ty đa quốc gia có thể muốn ngăn chặn sự chuyển giao tri thức của họ với các đối thủ cùng ngành nghề tại nước nhận vốn, họ có nguyện vọng tăng hiệu quả của các nhà cung cấp hoặc khách hàng thông qua sự liên kết đầu vào- đầu ra. Các công ty đa quốc gia có thể cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các bên cung ứng nhằm giúp họ nâng cao chất lượng các sản phẩm trung gian (Moran, 2001; Altenburg, 2000) hoặc họ có thể đơn giản đặt mức tiêu chuẩn chất lượng cao hơn cho các nguyên liệu đầu vào, tạo ra động lực cho nhà cung cấp nội địa nâng cấp công nghệ. Trong trường hợp FDI là đối tượng cung cấp sản phẩm, các công ty FDI có thể bán sản phẩm cho khách hàng trong nước tạo ra sự chuyển giao tri thức (đặc biệt là việc bán các tài sản cố định) thông qua cung cấp dịch vụ đào tạo để học hỏi cách thức hoạt động và vận hành của các công cụ. Thứ hai, xét đến cơ chế cạnh tranh, các công ty đa quốc gia tham gia thị trường nội địa và cạnh tranh với doanh nghiệp nội. Điều này có thể thúc đẩy doanh nghiệp nội địa nỗ lực cải thiện công nghệ thông qua tăng chi phí đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) nhằm tăng tính cạnh tranh. Tuy nhiên, hiệu ứng cạnh tranh cũng có thể de doạ sự tồn tại của các doanh nghiệp nội địa. Thứ ba, ảnh hưởng của FDI đối với đổi mới sáng tạo còn được lý giải qua cơ chế hiệu ứng mô phỏng. Các chi nhánh của công ty đa quốc gia tồn tại dựa trên công nghệ chất lượng cao và quy trình hiện đại. Các công ty nội địa có thể tiếp nhận những điểm này nếu tiến hành quan sát, bắt chước, ứng dụng các công nghệ hay quy trình. Tuy nhiên, việc quan sát, bắt chước hay ứng dụng và xa hơn là thương mại hoá được là chưa đủ nếu tồn tại khoảng cách về công nghệ hoặc mức độ phức tạp của sản phẩm cung cấp bởi các công ty FDI. Do đó, một cơ chế lan truyền nữa từ FDI đối với đổi mới sáng tạo được lý giải bởi hiệu ứng hình thành vốn con người và sự dịch chuyển lao động. Cuối cùng, với cơ chế hình thành vốn con người, để hoạt động tại các nước tiếp nhận vốn FDI, các công ty đa quốc gia có thể phải liên kết với các trung tâm nghiên cứu và đào tạo, thậm chí tài trợ chi phí đào tạo nhằm đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực phù hợp (Blomstrom và Kokko, 2002). Cơ hội việc làm tại các doanh nghiệp FDI có thể thúc đẩy sinh viên lựa chọn các ngành khoa học và công nghệ mới. Khi các công ty đa quốc gia không thể thuê toàn bộ lực lượng này, nó có thể làm tăng nguồn cung nguồn nhân lực chất lượng cao. Với cơ chế dịch chuyển lao động hay còn có thể gọi là dịch chuyển tri thức, các công ty đa quốc gia sử dụng công nghệ và quy trình quản lý hiện đại. Người lao động học hỏi bằng cách thực hiện và nhận tri thức để cải thiện kỹ năng. Nhờ sự dịch chuyển lao động, tri thức và kỹ năng được khuyếch tán trong quốc gia tiếp nhận (Altenburg, 2000; Fosfuri, Motta & Ronde, 2001; Djankov và Hoekmann, 1999; Görg và Strobl, 2001). Thêm nữa, người lao động trước có thể sử dụng tri thức này để thiết lập ngay chính doanh nghiệp của mình (UNCTAD, 2001). TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - TRẦN HUY TÙNG 41Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Tuy có sự tác động tích cực từ FDI đến đổi mới sáng tạo qua các kênh trên, lý thuyết cũng chỉ ra điều kiện để tác động này được cải thiện như năng lực hấp thụ và ứng dụng công nghệ mới của doanh nghiệp nội địa, môi trường kinh tế thúc đẩy sự chuyển giao tri thức như thế nào. Ngoài ra, bản thân chính các công ty FDI cũng có thể tác động vào ảnh hưởng từ FDI đến đổi mới sáng tạo. Cụ thể, chuyển giao công nghệ sẽ nhanh hơn nếu các công ty FDI nhanh chóng thiết lập mạng lưới liên kết xuôi, ngược bởi vì các doanh nghiệp nội địa có sự liên quan với chuỗi cung ứng và phân phối có thể tiếp cận với công nghệ mới, thúc đẩy sự khuyếch tán. Từ cơ sở lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm khảo sát ảnh hưởng của FDI đối với đổi mới sáng tạo cũng chia làm ba nhóm kết quả gồm: (i) các nghiên cứu tìm ra tác động FDI đối với đổi mới sáng tạo là tích cực, (ii) các nghiên cứu tìm ra tác động của FDI đối với đổi mới sáng tạo là tiêu cực và (iii) tác động của FDI đối với đổi mới sáng tạo có thể tích cực hoặc tiêu cực phụ thuộc vào các điều kiện nhất định. Nhóm nghiên cứu tìm ra tác động tích cực của FDI lên đổi mới sáng tạo có thể kể đến gồm Sjoholm (1999); Cheung và Lin (2004); Branstetter (2001); Keller và Yeaple (2009); Kokko (1996) và Driffield (1999, 2004). Trong khi Sjoholm (1999) tìm thấy những lợi ích mang lại từ FDI đến các doanh nghiệp tại Indonesia, Cheung và Lin (2004) khẳng định tác động tích cực của FDI đối với đổi mới sáng tạo tại Trung Quốc thông qua thước đo số lượng bằng sáng chế. Nguyên nhân thúc đẩy đổi mới sáng tạo từ khu vực FDI được Branstetter (2001) lý giải nhờ thúc đẩy sự học hỏi công nghệ nước ngoài của các doanh nghiệp nội địa. Ngoài ra, sự xuất hiện của khu vực FDI cũng thúc đẩy khả năng cạnh tranh (Kokko, 1996), từ đó tăng cường đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ mới. Tác động tích cực từ FDI đối với đổi mới sáng tạo còn có ý nghĩa ngay cả với các quốc gia phát triển như Anh và Mỹ. Keller và Yeaple (2009), sử dụng dữ liệu các doanh nghiệp nội địa Mỹ giai đoạn 1987- 1996, kết luận sự lan toả từ các doanh nghiệp nước ngoài tới các doanh nghiệp Mỹ có thể lý giải một phần cho sự tăng trưởng năng suất của Mỹ. Trong khi đó, Driffield (1999) chỉ ra sự ảnh hưởng tích cực trong cạnh tranh tại Anh. Bên cạnh các bằng chứng tác động tích cực của FDI lên đổi mới sáng tạo trong phạm vi từng quốc gia, một số nghiên cứu khác tìm thấy kết quả tương tự, thậm chí so sánh mức độ tác động của FDI lên đổi mới sáng tạo có sự khác nhau giữa hai nhóm nước phát triển và đang phát triển. Findlay (1978) gợi ý khoảng cách giữa sự phát triển của hai nền kinh tế tạo ra khoảng cách về cơ hội khai thác tại các quốc gia kém phát triển hơn và áp lực lớn hơn cho sự thay đổi và áp dụng công nghệ mới. Tốc độ áp dụng tri thức là hàm của sự hội tụ và sự mở rộng hoạt động của doanh nghiệp FDI. Trong khi đó, Xu (2000) đã tiến hành so sánh tác động của FDI đến từ các doanh nghiệp Mỹ đến năng suất của nước tiếp nhận là quốc gia phát triển và đang phát triển. Thu thập 40 nước có các công ty đa quốc gia của Mỹ hoạt động từ 1966- 1994, tác giả tìm thấy các quốc gia phát triển nhận được sự tăng trưởng về năng suất, trong khi các quốc gia đang phát triển không có được điều này. Nhóm nghiên cứu tìm ra tác động tiêu cực của FDI lên đổi mới sáng tạo có thể kể đến là Aitken và Harrison (1999); Chen (2007); Haskell và cộng sự (2007). Aitken và Harrison (1999) chỉ ra kết quả tiêu cực của FDI đối với đổi mới sáng tạo Hiệu ứng lan truyền từ FDI đến đổi mới sáng tạo: Kết quả từ mô hình GMM hệ thống hai bước 42 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 được giải thích thông qua yếu tố cạnh tranh (Aitken và Harrison, 1999; Konings, 2001). Các tác giả phản biện rằng các công ty đa quốc gia có chi phí biên thấp do những lợi thế riêng của mình cho phép họ có thể thu hút nhân sự chất lượng của doanh nghiệp nội địa, tạo áp lực cho các doanh nghiệp trong nước giảm sản xuất và chuyển sang đường cong chi phí trung bình. Tuy nhiên, lập luận này có thể mâu thuẫn với những thảo luận trong lý thuyết. Lý thuyết trước cho rằng cạnh tranh như một kênh để lan tỏa tri thức (Kokko, 1996; Driffield (1999, 2004)). Một số doanh nghiệp có thể trải qua hiệu ứng cạnh tranh tiêu cực trong ngắn hạn (sản xuất tại đường chi phí sản xuất bình quân), trái lại các doanh nghiệp khác có thể tăng cường hiệu quả (dịch chuyển đường chi phí sản xuất bình quân xuống) do cạnh tranh được gia tăng trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Bằng chứng về ảnh hưởng tích cực của cạnh tranh được tìm thấy trong nghiên cứu của Kokko (1996) đối với Mexico và Driffield (1999, 2004) đối với Anh. Lý giải việc khó tìm thấy tác động tích cực của hiệu ứng lan toả tri thức trong ngắn hạn đó là tồn tại sự lệch pha về thời gian đối với việc các doanh nghiệp nội địa học hỏi từ các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp đa quốc gia có thể bảo vệ các lợi thế của họ nhằm ngăn chặn sự lan toả tri thức sang các doanh nghiệp nội địa. Sự lan toả tri thức tích cực có thể tiếp cận tới các công ty con của các công ty FDI. Do đó, việc đo lường tác động lan toả tri thức tổng hợp có thể bỏ sót kênh lan toả tri thức này. Các nghiên cứu nổi bật tìm thấy các điều kiện như khoảng cách công nghệ, trình độ công nghệ hay khoảng cách địa lý có thể tác động vào quá trình ảnh hưởng của FDI đối với đổi mới sáng tạo gồm Glass và Saggi (1998); Cohen và Levinthal (1990); Monastiriotis và Alegria (2011); Yokota và Tomohara (2010). Glass và Saggi (1998) tìm ra vai trò của khoảng cách công nghệ giữa các nước tiếp nhận với các nước đầu tư. Bất kỳ khoảng cách nào về công nghệ sẽ là dấu hiệu cảnh báo đối với các công ty đa quốc gia về khả năng hấp thụ công nghệ. Khoảng cách công nghệ càng lớn, khả năng thấp chất lượng công nghệ được chuyển giao và dẫn đến sự lan toả tri thức tiềm năng là thấp. Tương tự, Monastiriotis và Alegria (2011) cũng chỉ ra ảnh hưởng mạnh của khoảng cách công nghệ giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận và khả năng hấp thụ của nước tiếp nhận trong quá trình chuyển giao công nghệ thông qua FDI. Bên cạnh khoảng cách công nghệ, các nghiên cứu cũng tìm ra trình độ công nghệ của nước tiếp nhận có ảnh hưởng tới hiệu quả lan toả từ FDI đến đổi mới sáng tạo. Một số nhóm tác giả tập trung đo lường trình độ công nghệ ở cấp vĩ mô, số khác đo lường trình độ công nghệ ở cấp độ của nguồn nhân lực tại quốc gia tiếp nhận. Cohen và Levinthal (1990) cho rằng trình độ công nghệ có thể là nhân tố giới hạn tốc độ lan toả tri thức từ các doanh nghiệp FDI đến các doanh nghiệp nội địa, thêm nữa, giao tiếp cũng có thể là nguyên nhân tác động lên hiệu quả của quá trình chuyển giao tri thức. Với phương pháp ngưỡng áp dụng trên mẫu gồm 54 quốc gia trong giai đoạn 1980- 2009, Loukil (2016) tìm ra giá trị ngưỡng về sự phát triển công nghệ của nước tiếp nhận ảnh hưởng tới việc FDI thúc đẩy đổi mới sáng tạo như thế nào. Theo đó, tác giả kết luận có sự ảnh hưởng phi tuyến giữa FDI và đổi mới sáng tạo, đồng thời ngụ ý các quốc gia bên cạnh thu hút FDI thì cần nâng cao khả năng hấp thụ của doanh nghiệp nội địa nhằm tăng sự tiếp nhận lợi ích từ các công ty đa quốc gia. Về trình độ công nghệ trên khía cạnh trình độ của nguồn TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - TRẦN HUY TÙNG 43Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng nhân lực, Yokota và Tomohara (2010) cho rằng chuyển giao công nghệ thông qua FDI liên quan tới kỹ năng của nhân công nước tiếp nhận. Ủng hộ quan điểm này của Yokota và Tomohara (2010) còn có Sinani và Klaus (2004) với trường hợp tại Estonia, nhấn mạnh chính yếu tố vốn con người có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa FDI và đổi mới sáng tạo. Một số nghiên cứu khác tìm ra khoảng cách địa lý ảnh hưởng tới hiệu quả lan toả từ FDI đến đổi mới sáng tạo tại nước tiếp nhận. Với dữ liệu ở cấp độ doanh nghiệp và ngành của 18 quốc gia, Gorodbichenko, Svejnar và Terell (2019) chứng minh sự lan toả của FDI tới đổi mới sáng tạo chịu ảnh hưởng bởi tính địa phương, tức là các doanh nghiệp nội địa ở gần với các doanh nghiệp FDI sẽ tiếp nhận tốt hơn tri thức hơn là toàn bộ các doanh nghiệp nội địa. Cũng tìm ra điều tương tự, Khachoo và cộng sự (n.d) tìm thấy tác động của FDI lên đổi mới sáng tạo và năng suất của các doanh nghiệp mới, theo đó, doanh nghiệp mới gần các FDI sẽ thu được lợi ích lớn hơn. Nhìn chung, các nghiên cứu trước thể hiện hiệu ứng lan truyền từ FDI đến đổi mới sáng tạo tại các quốc gia nhận có sự đa dạng, tuỳ thuộc vào các điều kiện, bối cảnh khác nhau. Với dữ liệu thu thập từ 80 quốc gia trong giai đoạn 2003- 2018, nghiên cứu này sẽ tiến hành kiểm định giả thuyết: “Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khuyến khích mức độ đổi mới sáng tạo tại quốc gia nhận vốn đầu tư”. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở để đưa ra một số ngụ ý chính sách cho các quốc gia tiếp nhận, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong việc thiết kế các chính sách thu hút FDI. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Mô hình nghiên cứu Tham khảo các nghiên cứu trước đó của Bottazzi và Peri (2003), và Tebaldi và Elmslie (2013), nhằm đánh giá mối quan hệ giữa FDI và đổi mới sáng tạo, bài viết sử dụng mô hình nghiên cứu động dưới đây. APP i, t = α + β 1 FDI i, t + δ' X i, t + η i + ε i, t (1) Trong đó, APP i, t là mức độ đổi mới sáng tạo tại một quốc gia (đo lường bằng số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế của cư dân); FDI i, t là vốn đầu tư nước ngoài (đo lường bằng lượng vốn đầu tư nước ngoài vào ròng); X i, t là các biến kiểm soát được sử dụng trong các nghiên cứu về FDI- đổi mới công nghệ, bao gồm GDP đầu người (GCAP- đo lường mức độ phát triển kinh tế), chỉ tiêu tín dụng tư nhân (CRE- đo lường mức độ phát triển tài chính), độ mở thương mại (OPEN- đo lường độ mở nền kinh tế), và chi tiêu cho nghiên cứu phát triển (RD- đo lường mức độ chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển). η thể hiện đặc điểm của quốc gia, ε là sai số trong mô hình, i và t đại diện cho quốc gia và thời gian. Theo giả thuyết nghiên cứu, hệ số của FDI, β 1 được kỳ vọng có giá trị dương và có ý nghĩa thống kê. 3.2. Dữ liệu nghiên cứu Bài viết dựa theo các nghiên cứu trước đó của Bottazzi và Peri (2003), và Tebaldi và Elmslie (2013) để đo lường mức độ đổi mới sáng tạo tại quốc gia thông qua dữ liệu về số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế của cư dân (APP). Dữ liệu này được lấy từ bộ dữ liệu của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), một tổ chức thuộc Liên hợp quốc và được chuyển thành dạng logarit tự nhiên. Dữ liệu về vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được đo lường bằng FDI vào dòng (%GDP) từ bộ chỉ số phát triển thế giới (WDI) của Hiệu ứng lan truyền từ FDI đến đổi mới sáng tạo: Kết quả từ mô hình GMM hệ thống hai bước 44 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 Ngân hàng Thế giới (Worldbank-WB). Do nghiên cứu tập trung vào các quốc gia nhận FDI, các quan sát có FDI vào dòng âm bị loại bỏ. Các biến kiểm soát khác, bao gồm GCAP là logarit của GDP đầu người, độ mở thương mại (OPEN) đo bằng tổng mức xuất nhập khẩu (%GDP), CRE đo lường bằng chỉ tiêu tín dụng tư nhân của các ngân hàng tiền gửi và các tổ chức tài chính khác (%GDP), và RD đo lường mức độ chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển (%GDP) được lấy từ bộ chỉ số phát triển thế giới (WDI) do WB cung cấp. Do phụ thuộc vào độ sẵn có của dữ liệu, nghiên cứu bao gồm 80 quốc gia với thời gian nghiên cứu từ năm 2003- 2018. 3.3. Phương pháp ước lượng Để đánh giá tác động của FDI đến đổi mới sáng tạo dựa trên dữ liệu bảng, nghiên cứu lựa chọn giữa mô hình tác động cố định và mô hình tác động ngẫu nhiên ước lượng mô hình (1). Mô hình tác động cố định khám phá mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc trong một quốc gia. Mỗi quốc gia có đặc điểm riêng, có thể có hoặc không có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc. Mô hình tác động cố định giả định rằng đặc điểm của mỗi quốc gia có tác động hoặc thiên vị biến dự đoán hoặc biến phụ thuộc, do đó cần kiểm soát tác động này. Ngược lại, mô hình tác động ngẫu nhiên giả định rằng sự biến thiên giữa các quốc gia là ngẫu nhiên và không tương quan với biến dự đoán hoặc biến phụ thuộc trong mô hình. Để quyết định dạng của mô hình, kiểm nghiệm Hausman được thực hiện, trong đó giả thuyết Ho là mô hình tác động ngẫu nhiên. Bên cạnh đó, do biến phụ thuộc là số lượng bằng phát minh sáng chế được cho là chịu tác động mạnh từ số lượng bằng phát minh xin cấp phép trong giai đoạn trước, bài nghiên cứu sử dụng thêm phương pháp ước lượng GMM hệ thống (system GMM) được giới thiệu bởi Arellano và Bond (1991) và sau đó được phát triển bởi Blundell và Bond (1998) nhằm đánh giá tác động trên dữ liệu bảng động. Phương pháp GMM được sử dụng do ít nhất 3 lý do: (1) để kiểm soát tác động của các biến đặc điểm quốc gia, (2) để giải quyết vấn đề biến nội sinh trong mô hình (một số biến như FDI, phát triển tài chính và chất lượng thể chế thường được cho là biến nội sinh trong các nghiên cứu trước đây), và (3) để giải quyết vấn đề tự tương quan do có biến trễ của biến phụ thuộc. Uớc lượng GMM hệ thống 2 bước (two step system GMM) được lựa chọn sử dụng do tính hiệu quả của phương pháp này so với ước lượng GMM khác biệt (different GMM) hoặc ước lượng 1 bước (one step system GMM). Ngoài ra, tác giả sử dụng hiệu chỉnh mẫu Windmeijer (2005) để ước lượng sai số chuẩn mạnh (robust standard error) và bổ sung thêm biến giả thời gian trong mô hình để loại trừ tương quan theo thời gian giữa các quốc gia. Theo đó, mô hình (1) được chuyển về dạng sau: APP i, t = α + β 1 APP i, t + β 2 FDI i, t + δ' X i, t + η i + ε i, t (2) Độ vững của ước lượng GMM phụ thuộc vào giả định sai số không có tương quan chuỗi và giá trị của các biến công cụ sử dụng. Theo đó, kiểm nghiệm Hasen (1998) J-test giúp đánh giá vấn đề về sử dụng biến công cụ quá mức. Kiểm định AR (2) đánh giá về tương quan chuỗi bậc 2 trong mô hình, qua đó cho thấy chất lượng của các biến công cụ sử dụng. Việc chấp nhận giả thuyết H 0 cung cấp bằng chứng về tính chính xác của phương pháp GMM. 4. Kết quả nghiên cứu TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - TRẦN HUY TÙNG 45Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Bảng 1 và Bảng 2 diễn tả thống kê mô tả và ma trận tương quan của các biến sử dụng trong bài viết này. Ma trận hệ số tương quan cho thấy không có hệ số tương quan nào lớn hơn 0,8. Hệ số tương quan cao nhất 0,7031 thể hiện mức độ tương quan giữa chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển và thu nhập bình quân đầu người. Như vậy, mô hình không gặp vấn đề về tự tương quan. Bảng 3 ghi lại kết quả ước lượng tác động của FDI đến đổi mới sáng tạo tại quốc gia nhận vốn. Trong đó, cột 1, 3 là mô hình cơ sở kiểm định mối quan hệ giữa FDI và đổi mới sáng tạo, cột 2, 4 là mô hình có kiểm soát cho các biến vĩ mô khác. Đối với mô hình (1), kiểm định Hausman test cho p-value < 0,05, bác bỏ giả thuyết H0, cho thấy dạng của mô hình là mô hình tác động cố định. Bên cạnh đó, kiểm định về phương sai sai số thay đổi của mô hình tác động cố định (sử dụng kiểm định Wald) cho p-value < 0,05, bác bỏ giả thuyết Ho, cho thấy mô hình có vấn đề về phương sai sai số thay đổi. Để vượt qua lỗi trên, tác giả sử dụng sai số chuẩn mạnh (robust standard error). Đối với mô hình (2), kiểm định Hasen J-test không bác bỏ giả thuyết Ho về xác định biến công cụ quá mức, cho thấy biến công cụ sử dụng có giá trị. Ngoài ra, kiểm định tự tương quan không bác bỏ giả thuyết về không tương quan bậc 2, tuy nhiên bác bỏ giả thuyết về không tương quan bậc 1. Hệ số của biến trễ biến độc lập nằm trong khoảng từ 0,996 đến 1,047 và có ý nghĩa thống kê đã khẳng định giả thuyết rằng mức độ đổi mới sáng tạo có xu hướng phụ thuộc vào dữ liệu quá khứ, cho thấy đổi mới sáng tạo là một quá trình có tính cộng dồn. Điều này ủng hộ việc sử dụng mô hình động để nghiên cứu về đổi mới sáng tạo. Bảng 1. Thống kê mô tả Biến Số lượng quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất l_APP 1.209 6,273 2,523 0 14,147 FDI 1.274 6,539 21,307 0,001 451,639 l_GCAP 1.274 9,116 1,299 5,849 11,609 CRE 1.170 66,888 46,784 0,698 260,701 OPEN 1.273 44,754 29,435 95,50 218,663 RD 976 1,28 1,003 0,008 4,553 Nguồn: tính toán từ phần mềm Stata Bảng 2. Ma trận tương quan l_APP FDI l_GCAP RD CRE OPEN l_APP 1 FDI 0,1356 1 l_GCAP 0,4810 0,0805 1 RD 0,5763 0,0400 0,7031 1 CRE 0,4806 0,0574 0,6545 0,6083 1 OPEN -0,1906 0,3507 0,2417 0,0531 0,1326 1 Nguồn: tính toán từ phần mềm Stata Hiệu ứng lan truyền từ FDI đến đổi mới sáng tạo: Kết quả từ mô hình GMM hệ thống hai bước 46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 Các kiểm định trên cho thấy kết quả tại mô hình (1) và (2) là ước lượng không chệch và nhất quán. Kết quả ước lượng từ mô hình tác động cố định cho thấy mối quan hệ cùng chiều và có ý nghĩa thống kê giữa FDI và số lượng bằng phát minh sáng chế xin cấp phép, kể cả khi bổ sung thêm các biến số kinh tế vĩ mô khác. Việc kiểm soát cho biến nội sinh trong mô hình GMM không làm thay đổi kết quả trên. Điều này ủng hộ giả thuyết Ho rằng FDI có hiệu ứng tích cực tới mức độ đổi mới công nghệ. Tại quốc gia nhận vốn, tồn tại quá trình lan tỏa công nghệ giữa công ty mẹ với công ty con, giữa các công ty đa quốc gia với công ty nội địa thông qua liên kết ngược (với công ty cung cấp) và liên kết xuôi (với công ty khách hàng), cũng như với các công ty trong cùng ngành sản xuất thông qua cạnh tranh. Kết quả này là nhất quán với một số nghiên cứu trước Bảng 3. Kết quả ước lượng- tác động của FDI tới đổi mới sáng tạo tại quốc gia nhận (1) Fixed effect model Two-step System GMM (2) (3) (4) Số lượng bằng sáng chế xin cấp phép bởi cư dân năm (t - 1) l_appr(-1) 1,047*** 0,996*** 0,049 0,036 Đầu tư trực tiếp nước ngoài ròng (%GDP) FDI 0,001** 0,002*** 0,003** 0,003** 0,0006 0,0006 0,001 0,001 Logarit của thu nhập bình quân đầu người l_GCAP 0,505 -0,173* 0,329 0,101 Chi nghiên cứu phát triển (%GDP) RD 0,392** 0,194* 0,177 0,110 Tín dụng tư nhân của các ngân hàng tiền gửi và các tổ chức tài chính khác (%GDP) CRE 0,002 0,0002 0,001 0,0007 Tổng mức xuất nhập khẩu (%GDP) OPEN 0,005 -0,001 0,006 0,002 cons 6,262*** 0,953 -0,21 . 0,003 3,070 0,362 Số lượng quan sát 1208 883 1071 776 Số quốc gia 80 80 80 80 Số biến công cụ 19 26 AR(2) p-value 0,144 0,266 Hansen p-value . 0,434 Ghi chú: Bảng này thể hiện kết quả ước lượng của mô hình (1) (cột 1, 2) và mô hình (2) (cột 3, 4). Biến phụ thuộc thể hiện mức độ đổi mới sáng tạo, đo lường bằng logarit tự nhiên của tổng bằng sáng chế xin cấp phép bởi cư dân. Biến giả thời gian được đưa vào mô hình và có ý nghĩa thống kê, nhưng không được báo cáo trong bảng để tiết kiệm diện tích Sai số chuẩn chỉnh sửa (corrected standard error) in nghiêng. ***,**,* thể hiện có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5%, và 10%, tương ứng. Nguồn: tính toán từ phần mềm Stata TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - TRẦN HUY TÙNG 47Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng đó về tác động của FDI đến đổi mới công nghệ như Cheung và Lin (2004), Vahter (2010), Ang và Madsen (2013). Bên cạnh FDI, chi nghiên cứu và phát triển có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê tới đổi mới sáng tạo. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu về đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, khi kiểm soát cho vấn đề nội sinh, hệ số của biến thu nhập bình quân đầu người là âm và có ý nghĩa thống kê. Điều này ngụ ý rằng các nước có thu nhập cao hơn có tốc độ tăng đổi mới sáng tạo thấp hơn. Có thể hiểu rằng thực tế các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao đã tích lũy được số lượng đáng kể bằng phát minh sách chế, do đó tốc độ tăng bằng phát minh sáng chế xin cấp phép mới sẽ thấp hơn (Nguyen, Schinckus và Su, 2016). Trong khi đó, tốc độ tăng bằng phát minh sáng chế xin cấp phép tại các nước có thu nhập thấp (với số lượng bằng phát minh sáng chế được đăng ký thấp) sẽ cao hơn. Nói một cách khác, số lượng bằng phát minh sáng chế xin cấp phép mới có xu hướng hội tụ (convergence effect). Tức là khi số lượng bằng sáng chế đang thấp thì tốc độ tăng bằng phát minh sáng chế sẽ cao hơn trường hợp khi số lượng bằng sáng chế đang ở mức cao và ngược lại. Các biến kiểm soát khác như mức độ phát triển tài chính và độ mở thương mại không có mức tương quan có ý nghĩa thống kê với số lượng bằng sáng chế xin cấp phép. 5. Kết luận Bài viết này nhằm đánh giá hiệu ứng lan truyền của FDI đến đổi mới sáng tạo tại quốc gia tiếp nhận. Sử dụng mô hình GMM hệ thống hai bước cho dữ liệu gồm 80 quốc gia, chúng tôi tìm ra FDI khuyến khích hoạt động nghiên cứu đổi mới công nghệ. Với quốc gia nhận vốn, FDI là một nguồn lực quan trọng giúp thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo qua 3 kênh lan truyền: (1) FDI giúp giảm rào cản về vốn với các doanh nghiệp khởi nghiệp, các dự án đổi mới công nghệ- vốn là lĩnh vực khó nhận nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, (2) FDI tạo ra hiệu ứng chuyển giao công nghệ giữa công ty mẹ và các công ty con tại nước sở tại, đồng thời tạo hiệu ứng lan truyền theo liên kết xuôi (forward linkage) và liên kết ngược (backward linkage) với các nhà cung cấp và nhà bán lẻ địa phương, (3) các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra áp lực cạnh tranh lớn, buộc các công ty trong nước phải tiến hành đổi mới công nghệ để thích ứng với môi trường kinh doanh khắc nghiệt hơn. Kết quả này có ý nghĩa quan trọng với các nhà hoạch định chính sách khi các cơ quan điều hành có thể cân nhắc tận dụng và thu hút nguồn vốn FDI để nâng cao mức độ đổi mới sáng tạo trong nước, từ đó tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Tuy nhiên, một điểm cần lưu ý là FDI chỉ tác động tích cực trong việc lan tỏa đổi mới sáng tạo từ các doanh nghiệp có vốn nước ngoài tới các doanh nghiệp địa phương trong trường hợp các doanh nghiệp này có đủ năng lực để hấp thụ các nguồn lợi từ vốn đầu tư nước ngoài (Monastiriotis và Alegria, 2011). Ngược lại, nguồn vốn này có thể làm giảm mức độ nghiên cứu phát triển của các doanh nghiệp nội địa do ảnh hưởng từ cạnh tranh (Wang và cộng sự, 2013). Do đó, bên cạnh việc thu hút vốn FDI phục vụ phát triển kinh tế, các quốc gia cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao đổi mới sáng tạo thông qua việc phát triển dịch vụ tài chính, tăng chi tiêu nghiên cứu phát triển, và cải thiện nguồn nhân lực. Tuy tìm ra tác động tích cực của FDI đối với đổi mới sáng tạo, nghiên cứu của chúng tôi chưa kiểm tra Hiệu ứng lan truyền từ FDI đến đổi mới sáng tạo: Kết quả từ mô hình GMM hệ thống hai bước 48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 xem liệu có một ngưỡng cho FDI đối với đổi mới sáng tạo như các nghiên cứu trước đã chỉ ra hay không. Khoảng trống này có thể dành cho những nghiên cứu tiếp theo ■ Tài liệu tham khảo 1. Aghion, P. & Howitt, P. (1998). Endogenous growth theory. The MIT Press, Cambridge, Massachusetts. 2. Aitken B., Harrison A., (1999). Do domestic firms benefit from direct foreign investment? Evidence from Venezuela. American Economic Review. Vol 89(3), pp.605-618 3. Altenburg, T. (2000). Linkages and spillovers between transnational corporations and small and medium- sized enterprises in developing countries – opportunities and policies, in UNCTAD (ed), TNC-SME Linkages for development; issues-experiences-best practices, Newyork: United Nations 4. Ang, J. & Madsen, J. (2013). International R&D Spillovers and Productivity Trends in the Asian Miracle Economics, truy cập tại [https://doi.org/10.1111/j.1465-7295.2012.00488.x] 5. Arellano, M. & Bond, S.R (1991). Some tests of specification for panel data: Montel Carlo evidence and an application to employment equations, Review of Economic Studies, Vol. 58, pp. 277-97 6. Blomström M., & Kokko A., (1998). Multinational corporations and spillovers. Journal of Economic Surveys. Vol.12(3), pp.247–277 7. Blomstrom, M. & Kokko, A. (2002). FDI and human capital: A research agenda . Technical Papers OECD Development Centre no. 195, available from 8. Blundell, R. & Bond, S. (1998). Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel data models. Journal of Econometrics. Vol.87, pp. 115-43 9. Bottazzi, L. & Peri, G. (2003). Innovation and spillovers in regions: evidence from European patent data. European Economic Review. Vo. 47, pp.687–710. doi:10.1016/S0014-2921(02)00307-0 10. Branstetter, L. G. (2001). Are knowledge spillovers international or intranational in scope? Microeconometric evidence from the US and Japan. Journal of International Economics.Vol. 53, pp. 53-79. 11. Chen, Y. (2007). Impact of direct foreign investment on regional innovation capability: A case of China. Journal of Data Science. Vol. 5, pp. 577-596. 12. Cheung, K.Y. & Lin, P. (2004). Spillover effects of FDI on innovation in China: Evidence from provincial data. China Economic Review. Vol. 15, no. 1, pp. 25-44. 13. Cohen, W.M. & Levinthal, D.A. (1990). Absorptive capacity: A new perspective on learning and innovation. Administrative Science Quarterly. Vol. 35, pp. 128-152. 14. Djankov, Simeon, and Bernard Hoekman. (2000). Foreign Investment and Productivity Growth in Czech Enterprises. World Bank Economic Review. Vol 14(1) pp.49–64. 15. Driffield, N. (1999). Determinants of entry and exit in the foreign owned sector of UK manufacturing, Applied Economics Letters. Vol. 6, pp. 153-156. 16. Driffield, N. (2004). Regional policy and spillovers from FDI in the UK. Annals of Regional Science, Vol. 38, pp.579-594 17. Findlay, R. (1978). Relative backwardness, direct foreign investment, and the transfer of technology: a simple dynamic model. The Quarterly Journal of Economics. Vol. 92(1), pp. 1-16. 18. Fosfuri, A., Motta, M., & Ronde, T. (2001). Foreign direct investment and spillovers through workers’ mobility. Journal of International Economics. Vol 53(1), pp. 205–222. 19. Glass, A. J., & Saggi, K. (1998). International technology transfer and the technology gap. Journal of Development Economics. Vol 55(2), pp.369-398 20. Gorg, H., & Greenway, D. , (2004). Much Ado about Nothing? Do Domestic Firms Really Benefit from Foreign Direct Investment?. accessed at www.researchgate.net/publication/220019789 21. Görg, H., & Strobl, E. (2001). Multinational companies and productivity spillovers: A meta-analysis. The Economic Journal. Vol.111(475), pp.723–739. 22. Gorodbichenko, Y., Svejnar, J., & Terell, K. (2019). Do foreign investment and trade spur innovation?, European Economic Review, 121, https://doi.org/10.1016/j.euroecorev.2019.103343 23. Hansen, B.E. (1999). Threshold effects in non dynamic panels: estimation, testing and inference, Journal of Econometrics. vol. 93, pp. 345-368. 24. Haskell, J., S. Pereira, and M. Slaughter. (2007). Does inward foreign investment boost the productivity of 25. domestic firms?, Review of Economics and Statistics, 89:3, pp.482–496 26. Haskell, J., S. Pereira, and M. Slaughter. (2007). Does inward foreign investment boost the productivity of domestic firms?, Review of Economics and Statistics, 89:3, pp.482–496 27. Hayter, R. & Han, S. (1998). Reflections on China’s open policy towards direct foreign investment. Regional TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - TRẦN HUY TÙNG 49Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Studies. Vol. 32, pp. 1-16. 28. Keller, W. & Yeaple, S.R. (2009). Multinational enterprises, international trade, and Productivity Growth: Firm- Level Evidence from the United States. Review of Economics and Statistics, 91, 821-831. rest.91.4.821 29. Khachoo, Qayoom., Sharma, Ruchi., & Dhanora, Madan., Does proximity to the frontier facilitate FDI- spawned spillovers on innovation and productivity?. Journal of Economics and Business. https://doi.org/10.1016/j. jeconbus.2018.03.002 30. Kokko, A. (1996). Productivity spillovers from competition between local firms and foreign affiliates. Journal of International Development. Vol. 8, pp. 517-530. 31. Konings, J. (2001). The effects of foreign direct investment on domestic firms: Evidence from firm-level panel 32. data in emerging economies. Economics of Transition, 9(3), pp. 619–633. 33. Konings, J. (2001). The effects of foreign direct investment on domestic firms: Evidence from firm-level panel data in emerging economies. Economics of Transition, 9(3), pp. 619–633. 34. Loukil K., (2016). Foreign Direct Investment and Technological Innovation in Developing Countries. Oradea Journal of Business and Economics. Vol.1(2) 35. Monastiriotis, V. & Alegria, R. (2011). Origin of FDI and Intra -Industry Domestic productivity growth: Firm level evidence from the United States, Review of Economics and Statistics, vol. 91, pp. 821-831. 36. Moran, T. (2001). Parental Supervision: The New Paradigm for Foreign Direct Investment and Development, Washington, DC: Institute for International Economics 37. Nguyen, PC., Schinckus, C. & Su, T. (2016). Do economic openess and institutional quality influence patents? Evidence from GMM systems estimates. International Economics, https://doi.org/10.1016/j.inteco.2018.10.002 38. Romer, P.M. (1990). Endogenous technological change. Journal of Political Economy. Vol. 98, pp.71-102. 39. Sinani, E. & Meyer, K. (2004). Spillovers of technology transfer from FDI: The Case of Estonia. Journal of Comparative Economics, Vol. 32 (3), pp.445-446 40. Sjoholm, F. (1999). Productivity growth in Indonesia: the role of regional characteristics and direct foreign investment, Economic Development and Cultural Change, vol. 47, no. 3, pp.559-584. 41. Tebaldi, E. & Elmslie, B. (2013). Doese instutional quality impact innovation? Evidence from cross patent grant data. Applied Economics. Vol.45(7), pp.887-900 42. UNCTAD (20019). Training manual on statistics for FDI and the operations of TNCs. Volume 1, Geneva 43. UNCTAD (2020). Available on: https://unctad.org/en/Pages/DIAE/FDI%20Statistics/FDI-Statistics.aspx 44. Vahter, P. (2010). Does FDI spur innovation, productivity and knowledge sourcing by incumbent firms? Evidence from manufacturing industry in Estonia. William Davidson Institute Working Papers Series wp986, William Davidson Institute at the University of Michigan. 45. Wang, D., Gu, F., Tse, D. & Yim, C. (2013). When does FDI matter? The roles of local and ethnic origins of FDI. International Business Review. Vol.22, pp.450-465 46. Xu, B. (2000). Multinational Enterprises, Technology Diffusion, and Host Country, Journal of Development Economics. Vol. 62, pp.477-493. 47. Yokota, K. & Tomohara, A. (2010). Modeling FDI- Induced Technology Spillovers, International Trade Journal. Vol. 24(1), pp.5-34.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_ung_lan_truyen_tu_fdi_den_doi_moi_sang_tao_ket_qua_tu_m.pdf