Kết quả điều trị bảo tồn.
Bảng 2: Lượng máu truyền trung bình.
Loại
truyền máu
Số lượng
truyền (ml)
Min
(ml)
Max
(ml)
Hồng cầu khối 240,3 ± 470,8 500 2.100
Huyết tương 116,4 ± 238,9 250 1.000
18 BN phải truyền từ 2 - 8 đơn vị máu
(250 ml/đơn vị). Lượng hồng cầu khối
truyền trung bình 240,3 ± 470,8 ml/BN.
- Thời gian nằm viện: trung bình 10,1 ±
5,2 ngày, tính cả ngày điều trị tổn thương
phối hợp ở các khoa khác, dài hơn so
với nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hùng
(2012) (8,8 ± 5,3 ngày) và Ngô Quang
Duy (2013) (6,35 ± 3,13 ngày) [2, 3].
Mức độ tổn thương gan càng cao, thời
gian nằm viện càng dài. Nghiên cứu của
A Landau (2006), Nguyễn Ngọc Hùng
(2012) cho thấy số ngày nằm viện trung
bình của nhóm chuyển mổ dài hơn nhóm
điều trị không mổ thành công [2, 9].
- Biến chứng trong điều trị: 2 BN (3%),
trong đó 1 trường hợp rò mật phải can
thiệp mổ cấp cứu, 1 BN suy gan. Kết
quả này thấp hơn nghiên cứu của Ngô
Quang Duy (2013) với tỷ lệ biến chứng
17,24% và của Nguyễn Ngọc Hùng (2012)
là 10,96% [2, 3].
Không có trường hợp bị bỏ sót, chẩn
đoán muộn tổn thương phải phẫu thuật,
một phần do ở bệnh viện tuyến cuối,
phẫu thuật viên có trình độ và kinh
nghiệm, các phương tiện, trang thiết bị hỗ
trợ chẩn đoán và theo dõi hiện đại nên
giúp chẩn đoán chính xác hơn, mổ kịp
thời những trường hợp có chỉ định.
- Kết quả điều trị:
4 BN tổn thương độ 4, 3 BN ổn định
trong suốt quá trình điều trị bảo tồn, 1 BN
trong quá trình điều trị có biến chứng suy
gan được điều trị nội khoa tích cực,
không cần can thiệp phẫu thuật, BN ổn
định ra viện.
Tỷ lệ điều trị bảo tồn thành công
98,5%, thất bại 1,5%, tương đương với
kết quả của Nguyễn Ngọc Hùng (2012): tỷ
lệ thành công 93,5%, cao hơn nghiên cứu
của Ngô Quang Duy (2013) (90,5%) [2,
3]. Trong nghiên cứu của Coccolini và
CS, hầu hết chấn thương gan độ 1, 2, 3
đều được điều trị bảo tồn thành công [4].
Những lợi ích của điều trị bảo tồn đem lại
là: chi phí nằm viện thấp, ra viện sớm, ít
biến chứng trong ổ bụng hơn, giảm tỷ lệ
truyền máu [5, 7, 8].
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình ảnh cắt lớp vi tính tổn thương gan và kết quả điều trị bảo tồn vỡ gan do chấn thương bụng kín tại bệnh viện trung ương quân đội 108 giai đoạn 2015 - 2019, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
86
HÌNH ẢNH CẮT LỚP VI TÍNH TỔN THƯƠNG GAN VÀ KẾT QUẢ
ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN VỠ GAN DO CHẤN THƯƠNG BỤNG KÍN
TẠI BỆNH VIỆN TWQĐ 108 GIAI ĐOẠN 2015 - 2019
Nguyễn Văn Quỳnh1; Nguyễn Thanh Tâm2; Nguyễn Trọng Hòe1
TÓM TẮT
Mục tiêu: nghiên cứu hình ảnh cắt lớp vi tính tổn thương gan và kết quả điều trị bảo tồn vỡ
gan do chấn thương bụng kín (chấn thương gan). Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô
tả, hồi cứu và tiến cứu không có nhóm chứng 67 bệnh nhân chấn thương gan được điều trị bảo
tồn ngay từ đầu từ tháng 7 - 2015 đến 7 - 2019. Kết quả: hình ảnh cắt lớp vi tính: tổn thương
thùy gan phải 95,5%; tổn thương gan độ 2: 26,9%, độ 3: 65,7%; hình thái đụng giập - tụ máu
trong nhu mô 83,6%, máu tụ dưới bao 61,2%, đường vỡ 49,3%, nhiều bệnh nhân có kết hợp
các hình thái tổn thương. Thời gian nằm viện trung bình 10,1 ± 5,2 ngày. 18 bệnh nhân phải
truyền từ 2 - 8 đơn vị hồng cầu khối (250 ml/đơn vị). Biến chứng 3%: 1 trường hợp rò mật và
1 trường hợp suy gan. Tỷ lệ điều trị thành công 98,5%. Kết luận: vị trí tổn thương gan hay gặp
nhất là thùy gan phải; tổn thương độ 2, 3 theo AAST. Hình thái tổn thương hay gặp nhất là
đụng giập - tụ máu trong nhu mô. Tỷ lệ biến chứng thấp, điều trị thành công cao, điều trị bảo
tồn vỡ gan do chấn thương bụng kín an toàn, không có tử vong.
* Từ khóa: Chấn thương gan; Chấn thương bụng kín; Điều trị bảo tồn; Cắt lớp vi tính.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vỡ gan do chấn thương bụng kín
thường gặp, đứng thứ hai sau vỡ lách và
có xu hướng gia tăng. Trong 4 thập kỷ trở
lại đây, chụp cắt lớp vi tính (CLVT) ra đời
và phát triển đã tạo cơ sở quyết định
phương pháp điều trị thích hợp hơn,
không những cứu sống tính mạng người
bệnh mà còn bảo tồn được tạng bị chấn
thương, tránh được một cuộc mổ không
cần thiết, nhiều khi làm nặng thêm tình
trạng bệnh. Tại Bệnh viện TWQĐ 108,
việc chọn lọc bệnh nhân (BN) chấn thương
gan trong điều trị bảo tồn đã tạo ra một
bước ngoặt trong điều trị, tuy nhiên chưa
được đánh giá và báo cáo. Chúng tôi
thực hiện đề tài này nhằm: Nghiên cứu
hình ảnh CLVT tổn thương gan và kết
quả điều trị bảo tồn vỡ gan do chấn
thương bụng kín tại Bệnh viện TWQĐ 108
từ 7 - 2015 đến 7 - 2019.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu.
67 BN được chẩn đoán xác định vỡ
gan dựa vào CLVT tại Viện Phẫu thuật
Tiêu hóa, Bệnh viện TWQĐ 108 từ tháng
7 - 2015 đến 7 - 2019.
1. Bệnh viện Quân y 103
2. Bệnh viện TWQĐ 108
Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Văn Quỳnh (quynh44ahvqy@gmail.com)
Ngày nhận bài: 27/11/2019; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 03/01/2020
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2020
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
87
2. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu mô tả, hồi cứu và tiến cứu
không nhóm chứng.
- Phân độ vỡ gan theo AAST (1994),
điều trị bảo tồn ngay từ đầu.
- Ghi nhận các đặc điểm lâm sàng:
tuổi, giới, nguyên nhân chấn thương, tình
trạng huyết động, triệu chứng lâm sàng,
tổn thương phối hợp, xét nghiệm công
thức máu, sinh hóa máu và siêu âm lúc
vào viện; hình ảnh tổn thương nhu mô
gan trên phim CLVT: vị trí tổn thương
gan, phân độ tổn thương gan, hình thái
tổn thương gan; kết quả điều trị bảo tồn
chấn thương gan: truyền máu, thời gian
nằm viện, biến chứng trong quá trình điều
trị, kết quả điều trị chung gồm 2 nhóm
thành công và thất bại.
- Nhóm thành công: BN đảm bảo tiêu
chuẩn ra viện, không có biến chứng tổn
thương gan trong suốt quá trình điều trị
hoặc có biến chứng nhưng không phải
can thiệp ngoại khoa hay can thiệp mạch.
Nhóm thất bại: có biến chứng tổn thương
gan phải can thiệp ngoại khoa, hay phải
can thiệp mạch hoặc BN tử vong trong
quá trình điều trị.
- Tiêu chuẩn ra viện: lâm sàng hết đau,
không sốt, không vàng da, huyết động ổn
định, ăn uống được, bụng mềm xẹp.
- Xét nghiệm: công thức máu, men gan,
bilirubin trở về bình thường, siêu âm ổ
bụng thấy tổn thương tiến triển tốt, hấp thu.
- Thu thập và xử lý số liệu: bằng phần
mềm thống kê SPSS 20.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
BÀN LUẬN
1. Đặc điểm lâm sàng.
- Tuổi: tuổi trung bình 32,9 ± 13,3. Độ
tuổi bị tai nạn nhiều nhất từ 10 - 50 (59 BN =
86,6%) là độ tuổi học tập, lao động.
- Giới: nam nhiều hơn nữ (64,2% so
với 35,8%), đây là đối tượng sử dụng
nhiều phương tiện giao thông và hay sử
dụng rượu, bia.
- Nguyên nhân chấn thương: tai nạn
giao thông: 54 BN (80,6%), tai nạn sinh
hoạt: 10 BN (14,9%) và tai nạn lao động:
3 BN (4,5%).
- Huyết động ổn định lúc vào viện chiếm
tỷ lệ cao (66 BN = 98,5%), do nhiều BN
đã được sơ cứu và điều trị ở bệnh viện
tuyến trước.
- Triệu chứng lâm sàng: đau bụng
100%, bụng chướng 46,3%, tổn thương
thành bụng 35,8%. Đau bụng chỉ là dấu
hiệu chủ quan của người bệnh, khó đánh
giá. Dấu hiệu bụng chướng là một trong
những yếu tố tiên lượng mổ cấp cứu cho
BN chấn thương gan.
- Tổn thương phối hợp: lồng ngực 29,9%,
chi thể 19,4%, lách 11,9%. Chấn thương
gan đơn thuần 43,3%, chấn thương gan
có tổn thương phối hợp 56,7%. Tổn thương
phối hợp ngoài ổ bụng như lồng ngực, chi
thể không làm ảnh hưởng đến chỉ định
điều trị bảo tồn chấn thương gan, nhưng
gây trở ngại trong điều trị do gây đau, mất
máu nhiều và kéo dài thời gian nằm viện.
- Men gan lúc vào viện: AST 466,1 ±
352,8 U/l; ALT 421,2 ± 338,4 U/l. Men
gan có giá trị giúp chẩn đoán chấn
thương gan khi lâm sàng không rõ, siêu
âm không thấy tổn thương, nhất là những
tuyến cơ sở vật chất không đảm bảo để
chẩn đoán, giúp thầy thuốc quyết định
chụp CLVT hay chuyển BN lên tuyến trên.
- Siêu âm: phát hiện tổn thương nhu
mô gan ở 59 BN (88,1%), dịch bụng ở
53 BN (79,1%). Vai trò của siêu âm trong
phát hiện tổn thương gan cũng như tạng
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
88
khác trong ổ bụng còn hạn chế, khi siêu
âm phát hiện dịch ổ bụng cần chụp CLVT
để xác định tổn thương.
2. Hình ảnh CLVT tổn thương gan.
* Vị trí tổn thương gan trên CLVT:
Vị trí tổn thương gan hay gặp nhất là
thùy gan phải với 64 BN (95,5%) (bao
gồm 3 BN (4,5%) tổn thương gan ở cả 2
thùy); tổn thương thùy trái 3 BN (4,5%).
Gan phải dễ bị tổn thương hơn gan trái,
đặc biệt là phân thùy sau, do kích thước
lớn và gần với các xương sườn [4, 5].
Chính sự đè ép của xương sườn, cột sống
và thành bụng sau dẫn đến tổn thương
hạ phân thùy VI, VII, VIII (> 85%) [6].
* Phân độ tổn thương gan trên CLVT:
độ 1: 1 BN (1,5%); độ 2: 18 BN (26,9%);
độ 3: 44 BN (65,7%); độ 4: 4 BN (6,0%).
Coccolini và CS cho rằng hầu hết chấn
thương gan là độ 1, 2, 3 [7]. Trong nghiên
cứu của Afifi và CS, tổn thương gan độ 2
phổ biến nhất, sau đó là tổn thương độ 1
và độ 3, hầu hết chấn thương gan từ độ 1
đến độ 3 [8].
Bảng 1: Hình thái tổn thương gan trên
CLVT.
Hình thái tổn thương n Tỷ lệ (%)
Máu tụ dưới bao 41 61,2
Đụng giập và tụ máu trong
nhu mô 56 83,6
Đường vỡ 33 49,3
Thoát thuốc cản quang 7 10,4
Giảm tỷ trọng quanh cửa 5 7,5
Dấu hiệu đụng giập - tụ máu trong nhu
mô gặp nhiều nhất. Theo nhiều tác giả,
đụng giập - tụ máu trong nhu mô là dấu
hiệu hay gặp nhất trên CLVT [1]. Dấu hiệu
máu tụ dưới bao chiếm 61,2%, đứng thứ
hai sau dấu hiệu đụng giập - tụ máu trong
nhu mô. Trong chấn thương gan độ 4, 5,
những đường vỡ lớn thường vào vùng
phân chia gan tương đối nghèo mạch máu
nên có thể không gây chảy máu lớn, do
vậy không phải là yếu tố để chỉ định mổ
nếu huyết động ổn định [2]. 7 BN có hình
ảnh thoát thuốc cản quang và 5 BN có
dấu hiệu giảm tỷ trọng quanh cửa trên phim
CLVT nhưng trên lâm sàng huyết động vẫn
ổn định và điều trị bảo tồn thành công.
3. Kết quả điều trị bảo tồn.
Bảng 2: Lượng máu truyền trung bình.
Loại
truyền máu
Số lượng
truyền (ml)
Min
(ml)
Max
(ml)
Hồng cầu khối 240,3 ± 470,8 500 2.100
Huyết tương 116,4 ± 238,9 250 1.000
18 BN phải truyền từ 2 - 8 đơn vị máu
(250 ml/đơn vị). Lượng hồng cầu khối
truyền trung bình 240,3 ± 470,8 ml/BN.
- Thời gian nằm viện: trung bình 10,1 ±
5,2 ngày, tính cả ngày điều trị tổn thương
phối hợp ở các khoa khác, dài hơn so
với nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hùng
(2012) (8,8 ± 5,3 ngày) và Ngô Quang
Duy (2013) (6,35 ± 3,13 ngày) [2, 3].
Mức độ tổn thương gan càng cao, thời
gian nằm viện càng dài. Nghiên cứu của
A Landau (2006), Nguyễn Ngọc Hùng
(2012) cho thấy số ngày nằm viện trung
bình của nhóm chuyển mổ dài hơn nhóm
điều trị không mổ thành công [2, 9].
- Biến chứng trong điều trị: 2 BN (3%),
trong đó 1 trường hợp rò mật phải can
thiệp mổ cấp cứu, 1 BN suy gan. Kết
quả này thấp hơn nghiên cứu của Ngô
Quang Duy (2013) với tỷ lệ biến chứng
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020
89
17,24% và của Nguyễn Ngọc Hùng (2012)
là 10,96% [2, 3].
Không có trường hợp bị bỏ sót, chẩn
đoán muộn tổn thương phải phẫu thuật,
một phần do ở bệnh viện tuyến cuối,
phẫu thuật viên có trình độ và kinh
nghiệm, các phương tiện, trang thiết bị hỗ
trợ chẩn đoán và theo dõi hiện đại nên
giúp chẩn đoán chính xác hơn, mổ kịp
thời những trường hợp có chỉ định.
- Kết quả điều trị:
4 BN tổn thương độ 4, 3 BN ổn định
trong suốt quá trình điều trị bảo tồn, 1 BN
trong quá trình điều trị có biến chứng suy
gan được điều trị nội khoa tích cực,
không cần can thiệp phẫu thuật, BN ổn
định ra viện.
Tỷ lệ điều trị bảo tồn thành công
98,5%, thất bại 1,5%, tương đương với
kết quả của Nguyễn Ngọc Hùng (2012): tỷ
lệ thành công 93,5%, cao hơn nghiên cứu
của Ngô Quang Duy (2013) (90,5%) [2,
3]. Trong nghiên cứu của Coccolini và
CS, hầu hết chấn thương gan độ 1, 2, 3
đều được điều trị bảo tồn thành công [4].
Những lợi ích của điều trị bảo tồn đem lại
là: chi phí nằm viện thấp, ra viện sớm, ít
biến chứng trong ổ bụng hơn, giảm tỷ lệ
truyền máu [5, 7, 8].
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 67 BN vỡ gan do
chấn thương bụng kín tại Bệnh viện
TWQĐ 108 từ 7 - 2015 đến 7 - 2019,
chúng tôi có một số nhận xét:
- Về hình ảnh CLVT tổn thương gan:
chấn thương gan ở thùy gan phải 95,5%,
tổn thương độ 2, 3 theo AAST (1994) 92,5%.
Hình thái tổn thương hay gặp nhất là
đụng giập - tụ máu trong nhu mô (83,6%).
- Về kết quả điều trị bảo tồn vỡ gan do
chấn thương bụng kín: biến chứng 3%,
tỷ lệ điều trị thành công 98,5%. Điều trị
bảo tồn vỡ gan do chấn thương bụng kín
là an toàn, không có tử vong.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Bình Giang. Chấn thương bụng.
Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật. Hà Nội. 2014.
2. Nguyễn Ngọc Hùng. Nghiên cứu điều trị
bảo tồn chấn thương gan. Luận án Tiến sỹ
Y học. Trường Đại học Y Hà Nội. 2012.
3. Ngô Quang Duy, Nguyễn Văn Hải.
Không mổ vỡ gan chấn thương. Hội nghị
Khoa học Công nghệ Bệnh viện Nhân dân
Gia Định 2013. 2013, 6.
4. Abdallah Mohamed Taha, Ahmed
Mohamed Abdallah, Mostafa Mohamoud
Sayed et al. Non-operative management of
isolated blunt liver trauma: A task of high
skilled surgeons. Journal of Surgery. 2017, 5,
pp.118-123.
5. Taourel P, Vernhet H, Suau A et al.
Vascular emergencies in liver trauma. European
Journal of Radiology. 2007, 64, pp.73-82.
6. Sreeramulu P.N, Venkatachalapathy T.S,
Anantharaj. Blunt trauma liver-conservative or
surgical management: A retrospective study.
Journal of Trauma & Treatment. 2012, 1 (8).
7. Federico Coccolini, Giulia Montori,
Fausto Catena et al. Liver trauma: WSES
position paper. World Journal of Emergency
Surgery. 2015.
8. Ibrahim Afifi, Sheraz Abayazeed, Ayman
El-Menyar et al. Blunt liver trauma: A descriptive
analysis from a level I trauma center. BMC
Surgery. 2018, 42.
9. Landau A, van As A.B, Numanoglu A et al.
Liver injuries in children: The role of selective
non-operative management. International Journal
of the Care of the Injuried. 2018, 37, pp.66-71.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hinh_anh_cat_lop_vi_tinh_ton_thuong_gan_va_ket_qua_dieu_tri.pdf