Năm là, khi thu thập và bảo quản vật
chứng, cần tuân thủ đúng quy định của
BLTTHS năm 2015 tại khoản 1 Điều 90
như sau:
- Đối với vật chứng cần được niêm
phong thì phải niêm phong ngay sau khi
thu thập (áp dụng đối với các vật chứng
là: công cụ, phương tiện gây án trong các
vụ trọng án; các vật chứng có ý nghĩa xác
định tội danh và khung hình phạt; các vật
chứng có giá trị cao dễ bị thay đổi, đánh
tráo; vật chứng không xác định được ngay
giá trị, số lượng, trọng lượng, tính chất).
- Đối với vật chứng là tiền, vàng, bạc,
kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ phải được
giám định ngay sau khi thu thập và phải
chuyển ngay để bảo quản tại ngân hàng
hoặc các cơ quan chuyên trách khác.
- Đối với vật chứng không thể đưa về
cơ quan tiến hành tố tụng để bảo quản thì
cơ quan tiến hành tố tụng giao vật chứng
đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp
pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích
của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ
quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản.
- Đối với vật chứng là hàng hóa mau
hỏng hoặc khó bảo quản thì cơ quan có
thẩm quyền quyết định bán theo quy
định của pháp luật và chuyển tiền đến tài
khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền
tại kho bạc nhà nước để quản lý.
Tóm lại, từ việc nghiên cứu, phân tích
làm rõ một số bất cập, sai sót trong quá
trình thu thập vật chứng của các cơ quan
tiến hành tố tụng trong thời gian qua,
chúng tôi nêu lên một số vấn đề cần lưu
ý khi tiến hành thu thập vật chứng theo
đúng quy định của BLTTHS năm 2015,
góp phần hạn chế các vướng mắc, phục
vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
đạt hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu của
tiến trình cải tư pháp hiện nay.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình phạt tử hình theo quy định của bộ luật hình sự năm 2015 và việc triển khai thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
14 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
1. Quy định của Bộ luật hình sự năm
2015 về hình phạt tử hình
Trong hệ thống hình phạt của Nhà
nước Việt Nam, tử hình là hình phạt có
tính răn đe và trừng trị nghiêm khắc nhất;
bởi lẽ nó tước đi quyền sống của người bị
kết án, loại bỏ sự tồn tại của người phạm
tội khỏi đời sống cộng đồng. Và qua 03 lần
pháp điển hóa (năm 1985; 1999 và 2015),
hình phạt tử hình vẫn tiếp tục được ghi
nhận nhưng có nhiều những điểm mới
thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước.
Trong BLHS năm 1985, hình phạt tử
hình được quy định tại 29/195 tội danh
(chiếm tỷ lệ 14,85%). Qua bốn lần sửa đổi,
bổ sung BLHS năm 1985 (vào các năm 1989,
1991, 1992, 1997) thì số lượng các tội danh
có quy định hình phạt tử hình tăng từ 29 tội
danh lên 44 tội danh, chiếm khoảng 20,64%
(44/218 tội danh)(1) (2). Đến BLHS năm 1999,
hình phạt tử hình được quy định tại 29/263
tội danh, trong đó nhóm các tội xâm phạm
an ninh quốc gia có số lượng tội danh quy
* Thạc sĩ, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
1 Trang 140 -141, Sách tham khảo “Quyền sống và
hình phạt tử hình”, Viện Chính sách Công và pháp
luật – Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt
Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2015
2 Trịnh Quốc Toản, “Chế định hình phạt tử hình
trong Luật hình sự Việt Nam và một số kiến nghị
hoàn thiện”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học
28 (2012) 30 – 41.
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015 VÀ VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
ĐINH HOÀNG QUANG *
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật hình sự (BLHS) và tham khảo
có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp hình sự của các nước trong khu vực và trên thế
giới để kế thừa, phát triển các quy định còn phù hợp; đồng thời khắc phục một
cách căn bản những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành BLHS năm 1999
(được sửa đổi, bổ sung năm 2009), BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm
2017; có hiệu lực hoàn thiện từ ngày 01/01/2018) đã sửa đổi và có nhiều quy định
mới; trong đó có các điểm mới có liên quan về hình phạt tử hình. Bài viết phân
tích những quy định của BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và
đưa ra những đề xuất, kiến nghị để triển khai thực hiện quy định về hình phạt tử
hình trên thực tiễn.
Từ khóa: Tử hình, thi hành án tử hình, Bộ luật hình sự năm 2015.
Being on the foundation of summarizing the pratical implementation of
the Penal Code and selectively consulting the criminal legislative experiences
from many countries in order to inherit, develop the compatible existing
regulations and overcome basically the inadequacies, difficulties in the practical
implementation of the Penal Code of 1999 (amended, supplemented in 2009),
the Penal Code of 2015 (amended, supplemented in 2017; took effect officially
on January 1st, 2018) has contained lots of new contents and regulations
including ones related to the death sentence. The paper is going to analyze
these “death sentence” regulations in the Penal Code of 2015 and come up with
recommendations so as to enhancing its implementation in the practice.
Keywords: Death sentence, death sentence execution, the Penal Code of 2015.
ĐINH HOÀNG QUANG
15Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
định hình phạt tử hình cao nhất (07 tội
danh); các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng và các tội xâm phạm sở
hữu, mỗi nhóm có 02 tội. Còn lại 07 nhóm
tội khác thì hình phạt tử hình phân bố đều
cho các nhóm, mỗi nhóm có 03 tội danh có
quy định hình phạt tử hình. Như vậy, so
với BLHS năm 1985 (qua 04 lần sửa đổi,
bổ sung) thì số lượng các tội danh có quy
định hình phạt tử hình trong BLHS năm
1999 đã giảm xuống đáng kể (chỉ còn 29 tội
danh), ngang với số lượng tội danh có quy
định của BLHS năm 1985. Tuy nhiên, nếu
tính tỷ lệ trên tổng số các tội danh được
quy định tại Phần các tội phạm của BLHS
thì chiếm tỷ lệ thấp hơn so với BLHS năm
1985 (chiếm tỷ lệ trên 11% so với 14,87%
của BLHS)(1).
Sau lần sửa đổi, bổ sung năm 2009,
BLHS chỉ còn 22/272 tội danh thuộc 09 nhóm
tội có quy định hình phạt tử hình. Trong đó,
nhiều nhất là nhóm tội xâm phạm an ninh
quốc gia (07 tội danh), tiếp đến là nhóm
tội phá hoại hòa bình, chống loài người và
tội phạm chiến tranh (03 tội danh). Ít nhất
là nhóm tội xâm phạm sở hữu và nhóm
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (mỗi
nhóm có 01 tội danh). Còn lại năm nhóm tội
khác, mỗi nhóm có 02 tội danh(2).
Đến lần pháp điển hóa lần thứ ba này,
BLHS năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình
ở 08 tội danh gồm: tội cướp tài sản (Điều
168); tội sản xuất, buôn bán hàng cấm là
lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm
(Điều 193); tội tàng trữ trái phép chất ma
túy (Điều 249); tội chiếm đoạt chất ma túy
1 Trang 142 – 143, Sách tham khảo “Quyền sống và
hình phạt tử hình”, Viện Chính sách Công và pháp
luật – Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt
Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2015
2 Trang 143, Sách tham khảo “Quyền sống và hình
phạt tử hình”, Viện Chính sách Công và pháp luật
– Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam,
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2015
(Điều 252); tội phá hủy công trình, cơ sở,
phương tiện quan trọng về an ninh quốc
gia (Điều 303); tội chống mệnh lệnh (Điều
394); tội đầu hàng địch (Điều 399) và tội
hoạt động phỉ (do BLHS đã bỏ tội danh
này). Và vẫn duy trì hình phạt tử hình đối
với 18 tội danh trong tổng số 314 tội danh
thuộc 07/14 nhóm tội phạm, giảm 11 tội
danh so với BLHS năm 1999 và giảm 04
tội danh so với BLHS năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009). Như vậy, việc hạn chế
áp dụng hình phạt tử hình được thực hiện
qua các lần pháp điển hóa và thể hiện sự
thực hiện theo đúng các Nghị quyết của
Đảng(3) và tinh thần quy định của Hiến
pháp năm 2013 về quyền con người, cũng
như phù hợp với xu hướng chung của thế
giới hiện nay. Ngoài ra, về nội dung và kỹ
thuật lập pháp qua mỗi lần sửa đổi BLHS
đã thể hiện sự tiến bộ. Đặc biệt, ở BLHS
năm 2015 đã chuyển các “đoạn” thành các
“khoản” cho khoa học chứ không như quy
định của BLHS năm 1985, 1999 trước đây
có điều thì theo khoản, có điều thì lại quy
định theo đoạn(4). Đồng thời, nội dung đã
ghi nhận một cách hạn chế nhóm các tội
phạm bị áp dụng hình phạt tử hình; mở
rộng phạm vi đối tượng không áp dụng
hình phạt tử hình và không thi hành án
tử hình.
1.1. Về nhóm các tội phạm bị áp
dụng hình phạt tử hình
Trước đây, hình phạt tử hình được
3 Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020
4 Bài viết “Sửa đổi các quy định về hình phạt tử hình
trong pháp luật hình sự Việt Nam” của GS.TSKH.
Lê Văn Cảm tại trang 213 Sách tham khảo “Quyền
sống và hình phạt tử hình”, Viện Chính sách Công
và pháp luật – Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật
Việt Nam.
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ...
16 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
hiểu là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng
đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng(1), nhưng đến BLHS năm 2015 đã giới
hạn lại và cụ thể nhóm các tội phạm nằm
trong các tội đặc biệt nghiêm trọng mới bị
áp dụng hình phạt tử hình; theo đó “Tử
hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối
với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm
an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con
người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng
và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
khác do Bộ luật này quy định”.
Nếu đối chiếu với quy định tại phần
các tội phạm thì 18 tội danh còn quy định
hình phạt tử hình bao gồm:
- 06 tội xâm phạm an ninh quốc gia:
phản bội Tổ quốc; hoạt động nhằm lật
đổ chính quyền nhân dân; gián điệp; bạo
loạn; khủng bố nhằm chống chính quyền
nhân dân; phá hoại cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội.
- 02 tội xâm phạm tính mạng sức
khỏe: giết người và hiếp dâm người dưới
16 tuổi.
- 01 tội về kinh tế: sản xuất, buôn
bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc
phòng bệnh.
- 03 tội phạm về ma túy: sản xuất trái
phép chất ma tuý; vận chuyển trái phép
chất ma tuý; mua bán trái phép chất ma tuý.
- 01 tội xâm phạm an toàn công cộng:
khủng bố.
- 02 tội phạm tham nhũng: tham ô tài
sản; nhận hối lộ.
- 03 tội phá hoại hòa bình, chống loài
người và tội phạm chiến tranh: phá hoại
hoà bình gây chiến tranh xâm lược; chống
loài người; tội phạm chiến tranh(2).
1 Điều 27 BLHS năm 1985; Điều 35 BLHS năm 1999.
2 Xem thêm: Trang 26, Tài liệu tập huấn Bộ luật hình
sự năm 2015, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội,
1.2. Phạm vi không áp dụng hình
phạt tử hình
Về phạm vi không áp dụng hình phạt
tử hình cũng được mở rộng hơn so với
trước đây. Nếu BLHS năm 1985 mới chỉ
quy định không áp dụng hình phạt tử
hình đối với người chưa thành niên phạm
tội, đối với phụ nữ có thai khi phạm tội
hoặc khi bị xét xử(3); thì BLHS năm 1999
bổ sung thêm trường hợp không áp dụng
hình phạt tử hình đối với phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội
hoặc khi bị xét xử(4). Và đến BLHS năm
2015 lại bổ sung thêm trường hợp không
áp dụng hình phạt tử hình đối với người
đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi
xét xử(5) (6) (đồng thời thay đổi thuật ngữ
“người chưa thành niên” thành “người
dưới 18 tuổi”).
Theo đó, khoản 2 Điều 40 BLHS năm
2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017)
quy định: “Không áp dụng hình phạt tử
hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm
tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi
trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử”.
tháng 5/2016.
3 Điều 27 BLHS năm 1985
4 Điều 35 BLHS năm 1999
5 Trong Dự thảo sửa đổi BLHS đặt ra trường hợp
người từ 70 tuổi trở lên không áp dụng hình phạt tử
hình. Tuy nhiên, trong quá trình lấy ý kiến có nhiều
quan điểm cho rằng nhiều người ở lứa tuổi này còn
phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng
(Trang 136, Sách tham khảo “Quyền sống và hình phạt
tử hình”, Viện Chính sách Công và pháp luật – Liên
hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam) nên khi
thông qua đã sửa đổi thành người từ 75 tuổi trở lên.
6 Bổ sung không áp dụng hình phạt tử hình đối với
người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội, khi bị xét xử bởi
cho rằng người già khi thực hiện tội phạm thường do
bị suy giảm một số chức năng dẫn đến nhận thức và
hành vi bị lệch chuẩn do bị lão hóa và xét đến cùng
thì khả năng tiếp tục phạm tội là thấp (Trang 168,
Sách tham khảo “Quyền sống và hình phạt tử hình”,
Viện Chính sách Công và pháp luật – Liên hiệp các
hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam)
ĐINH HOÀNG QUANG
17Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
1.3. Phạm vi không thi hành án tử hình
Về phạm vi không thi hành án tử hình
cũng được mở rộng cũng là một trong
những minh chứng cho thấy pháp luật
hình sự ngày càng mở rộng hơn tính nhân
đạo khi xử lý người phạm tội qua mỗi lần
pháp điển hóa.
Nếu BLHS năm 1985 mới chỉ quy
định việc hoãn thi hành án tử hình đối
với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con
dưới mười hai tháng(1) thì đến BLHS năm
1999 đã quy định rõ không thi hành án tử
hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi(2); và BLHS
năm 2015 lại tiếp tục bổ sung thêm hai
trường hợp không thi hành án tử hình là:
Người đủ 75 tuổi trở lên; Người bị kết án
tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối
lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp
lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận
hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức
năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý
tội phạm hoặc lập công lớn(3).
Theo đó, khoản 3 Điều 40 BLHS năm
2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017)
quy định: “Không thi hành án tử hình đối
với người bị kết án nếu thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
b) Người đủ 75 tuổi trở lên;
c) Người bị kết án tử hình về tội tham
ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị
kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần
1 Điều 27 BLHS năm 1985
2 Điều 35 BLHS năm 1999.
3 Việc quy định không thi hành án tử hình đối với
người chủ động nộp lại ít nhất ¾ số tiền, tài sản tham
ô, nhận hối lộ giúp các cơ quan chức năng thu hồi
lại được các tài sản bị chiếm đoạt (Xem thêm: Trang
27, Tài liệu Tập huấn Bộ luật Hình sự năm 2015, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội, tháng 5/2016).
tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác
tích cực với cơ quan chức năng trong việc
phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc
lập công lớn”.
1.4. Các trường hợp chuyển hình
phạt tử hình thành tù chung thân
BLHS năm 1985 trước đây chỉ quy
định trường hợp người bị kết án tử hình
được ân giảm thì tử hình chuyển thành
tù chung thân(4). Tiếp đó, BLHS năm 1999
(được sửa đổi, bổ sung năm 2009) bổ sung
thêm trường hợp không thi hành án tử
hình (phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi
con dưới 36 tháng tuổi) thì hình phạt tử
hình được chuyển thành tù chung thân(5).
Tuy nhiên, do đối tượng không thi
hành án tử hình được mở rộng thêm
(người đủ 75 tuổi trở lên; người bị kết án
tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối
lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp
lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận
hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức
năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý
tội phạm hoặc lập công lớn). Do đó, nếu
người bị kết án tử hình thuộc các trường
hợp không thi hành án tử hình thì đương
nhiên cũng phải được chuyển từ hình phạt
tử hình thành tù chung thân và khoản 4
Điều 40 BLHS năm 2015 quy định: “Trong
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này
hoặc trường hợp người bị kết án tử hình
được ân giảm, thì hình phạt tử hình được
chuyển thành tù chung thân”.
2. Việc triển khai thực hiện quy định
về hình phạt tử hình
Để thi hành BLHS năm 2015, trong đó
có việc thi hành những quy định có liên
quan về hình phạt tử hình, Quốc hội cũng
đã ban hành các Nghị quyết cụ thể như:
4 Điều 27 BLHS năm 1985.
5 Điều 35 BLHS năm 1999.
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ...
18 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày
27/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành
Bộ luật hình sự thì kể từ ngày BLHS năm
2015 được công bố (9/12/2015) thì: Không
áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người
phạm tội mà BLHS năm 2015 đã bỏ hình
phạt tử hình, đối với người đủ 75 tuổi trở
lên khi phạm tội hoặc khi xét xử; Hình phạt
tử hình đã tuyên đối với người được nêu
tại điểm a khoản này nhưng chưa thi hành
án, thì không thi hành và Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao chuyển hình phạt tử hình
thành hình phạt tù chung thân; Đối với
người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi
hành án mà có đủ các điều kiện quy định tại
điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật hình sự
năm 2015, thì không thi hành và Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt
tử hình thành hình phạt tù chung thân.
Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày
20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ
luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được
sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số
12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của
Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13,
Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số
99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm
giam số 94/2015/QH13 thì kể từ ngày Luật
số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/
QH13 được công bố (03/07/2017), tiếp tục
thực hiện các quy định trên.
Và trong thời gian qua, các cơ quan tư
pháp cũng đã ban hành nhiều các văn bản
hướng dẫn và tập huấn để thực hiện quy
định mới về hình phạt tử hình trong BLHS
năm 2015. Riêng đối với ngành Kiểm sát
nhân dân, đã có những hướng dẫn khi
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự,
không đề nghị áp dụng hình phạt tử hình
đối với người phạm tội mà BLHS năm
2015 đã bỏ hình phạt tử hình, người đủ 75
tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
Đồng thời phối hợp với Toà án cùng cấp
rà soát đầy đủ, chính xác những trường
hợp đã tuyên hình phạt tử hình thuộc
trường hợp nêu trên và bản án đã có hiệu
lực pháp luật nhưng chưa thi hành án để
Toà án đã xét xử sơ thẩm báo cáo Chánh
án Toà án nhân dân tối cao chuyển hình
phạt tử hình thành hình phạt tù chung
thân cho người bị kết án(1).
Đối với trường hợp đã tuyên hình
phạt tử hình nhưng chưa thi hành án mà
có đủ các điều kiện quy định tại điểm c
khoản 3 Điều 40 BLHS năm 2015 (Người bị
kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận
hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp
lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối
lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng
trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm
hoặc lập công lớn) thì Viện kiểm sát cần chủ
động phối hợp với Toà án cùng cấp đã
xét xử sơ thẩm rà soát đầy đủ, chính xác
những trường hợp đã tuyên hình phạt tử
hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ
các điều kiện quy định tại điểm c khoản
3 Điều 40 BLHS năm 2015 để Toà án báo
cáo Chánh án Toà án nhân dân tối cao
chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt
tù chung thân cho người bị kết án(2).
1 Trang 37, Tài liệu thông báo nhanh nội dung Luật
số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13; Nghị quyết số
41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều
theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành
của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật
Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13,
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao tháng 07/2017.
2 Trang 37, Tài liệu thông báo nhanh nội dung Luật
số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13; Nghị quyết số
41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều
theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành
của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật
Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13,
ĐINH HOÀNG QUANG
19Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Ngoài ra, trong quá trình kiểm sát thi
hành án hình sự (tử hình, phạt tù), Viện
kiểm sát đã phối hợp với các cơ quan thi
hành án hình sự để rà soát các trường hợp
trên để đề nghị chuyển hình phạt tử hình
thành tù chung thân(1).
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên
cứu về hình phạt tử hình, chúng tôi đặt ra
một số vấn đề cần lưu ý sau:
Thứ nhất, về phạm vi không áp dụng
hình phạt tử hình
Mặc dù khoản 2 Điều 40 BLHS năm
2015 mới chỉ quy định việc không áp dụng
hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi
khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ
75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử;
nhưng khoản 3 Điều 40 BLHS năm 2015 có
quy định trường hợp người bị kết án tử hình
về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau
khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba
phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp
tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc
phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập
công lớn thì không thi hành án tử hình.
Như vậy, hoàn toàn cũng có thể hiểu
đối với người phạm tội tham ô tài sản, tội
nhận hối lộ trước khi bị xét xử mà chủ động
nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô,
nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan
chức năng trong việc phát hiện, điều tra,
xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì cũng
không bị áp dụng hình phạt tử hình. Bởi lẽ,
không thể có trường hợp chủ động nộp lại
tài sản, hợp tác tích cực, lập công lớn sau
khi bị tuyên án tử hình lại có lợi hơn so với
việc thực hiện trước khi xét xử.
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao tháng 07/2017.
1 Báo cáo Tổng kết công tác kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam và thi hành án hình sự các năm 2016; 2017
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Ngoài ra, chúng tôi đồng ý với quan
điểm cho rằng, cần xem xét việc không áp
dụng hình phạt tử hình đối với người bị
bệnh hiểm nghèo như Ung thư giai đoạn
cuối, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn
AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội bởi đây
là những căn bệnh như một bản án tử
hình đối với họ(2).
Thứ hai, về phạm vi không thi hành
án tử hình
Điều 58 Luật Thi hành án hình sự
năm 2010 quy định một trong những
trường hợp Hội đồng thi hành án tử hình
quyết định hoãn thi hành án tử hình là
“Người bị kết án thuộc trường hợp quy
định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự”.
Như vậy, cùng với việc sửa đổi BLHS thì
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 cũng
cần phải sửa đổi cho phù hợp; theo đó
một trong những trường hợp Hội đồng
thi hành án tử hình quyết định hoãn thi
hành án tử hình là “Người bị kết án thuộc
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40
Bộ luật hình sự”.
Thứ ba, trình tự xem xét đề nghị hình
phạt tử hình chuyển thành tù chung thân
Theo quy định tại khoản 4 Điều 40
BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2017) thì trong trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều 40 BLHS năm 2015 (các
trường hợp không thi hành án tử hình)
hoặc trường hợp người bị kết án tử hình
được ân giảm thì hình phạt tử hình được
chuyển thành tù chung thân.
Tuy nhiên, đối với trường hợp người
phạm tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ trước
khi bị xét xử mà chủ động nộp lại ít nhất ba
phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp
tác tích cực với cơ quan chức năng trong
2 Trang 168, Sách tham khảo “Quyền sống và hình
phạt tử hình”, Viện Chính sách Công và pháp luật –
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ...
20 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc
lập công lớn thì cũng cần có văn bản hướng
dẫn thực hiện cụ thể; trong đó cần có hướng
dẫn như thế nào là “chủ động nộp lại ít nhất
ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ”; “lập
công lớn” thì mới có thể triển khai trên thực
tế. Chúng tôi cho rằng việc xác định nộp lại
ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ phải
được xác định trên cơ sở số tài sản tham
ô, nhận hối lộ mà bản án của Tòa án xác
định; đồng thời các trường hợp “lập công
lớn” cần được giải thích thống nhất ở các
văn bản hướng dẫn chấp hành hình phạt
như: có hành động giúp cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra
tội phạm; cứu được người khác trong tình
thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản (có
giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên) của
nhà nước, tập thể, của công dân trong thiên
tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn; có những
phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá
trị được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khen thưởng hoặc xác nhận(1) (2).
Về trình tự thực hiện chuyển hình phạt
tử hình thành tù chung thân, theo khoản 2
Điều 367 BLTTHS năm 2015, khi có căn cứ
quy định tại khoản 3 Điều 40 BLHS (tức các
trường hợp không thi hành án tử hình) thì
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm không
ra quyết định thi hành án tử hình và báo
cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để
xem xét chuyển hình phạt tử hình thành tù
chung thân cho người bị kết án.
1 Mục 2 Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày
02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp
hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
2 Khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT-
BCABQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 16/08/2012 của
Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc giảm,
miễn thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam
giữ và miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế
còn lại.
Tuy nhiên, đặt ra trường hợp nếu
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm đã ra
quyết định thi hành án tử hình thì mới phát
hiện người bị kết án tử hình thuộc trường
hợp không thi hành án tử hình (phụ nữ
có thai) thì xử lý như thế nào cũng cần
có hướng dẫn cụ thể. Chúng tôi cho rằng,
trong trường hợp này Chánh án Tòa án đã
xét xử sơ thẩm ra quyết định hủy bỏ quyết
định thi hành án tử hình; báo cáo Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao để xem xét chuyển
hình phạt tử hình thành tù chung thân cho
người bị kết ánthì sẽ hợp lý cả.
Ngoài ra, cũng cần có hướng dẫn cụ
thể đối với trường hợp được chuyển từ
hình phạt tử hình thành tù chung thân thì
Tòa án có ra quyết định thi hành án phạt
tù; có tính thời hạn chấp hành án trừ đi
thời gian tạm giữ, tạm giam?(3). Trường
hợp này việc ra quyết định thi hành án
phạt tù là cần thiết, để làm căn cứ thực
hiện các hoạt động thi hành án; đồng thời
để đảm bảo công bằng cho những người
chấp hành án phạt tù thì quyết định thi
hành án phạt tù trừ đi thời gian tạm giữ,
tạm giam; điều này có ý nghĩa rất lớn
trong việc xem xét giảm thời hạn chấp
hành án đối với phạm nhân.
Thứ tư, đối với việc xem xét giảm mức
hình phạt đã tuyên đối với người bị kết
án tử hình được ân giảm xuống tù chung
thân
Theo khoản 6 Điều 63 BLHS năm
2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì
đối với người bị kết án tử hình được ân
giảm hoặc người bị kết án thuộc trường
hợp quy định tại điểm b (người đủ 75 tuổi
trở lên) hoặc điểm c (người bị kết án tử
hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ
3 Xem thêm: Đinh Hoàng Quang, Bài viết “Sửa đổi
Phần thứ năm của Bộ luật tố tụng hình sự về thi hành
bản án và quyết định của Tòa án”, Tạp chí Luật học –
Đại học Luật Hà Nội (số 12/2013).
ĐINH HOÀNG QUANG
21Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại
ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối
lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức
năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý
tội phạm hoặc lập công lớn) khoản 3 Điều
40 của BLHS thì thời gian đã chấp hành
hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25
năm và dù được giảm nhiều lần những
vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp
hành hình phạt là 30 năm.
Như vậy, điều kiện để được xét giảm
và đảm bảo thời hạn thực tế chấp hành hình
phạt đối với các trường hợp này cao hơn so
với trường hợp giảm thông thường khác.
Tuy nhiên, điều luật không quy định việc
xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
đối với trường hợp khi thi hành án tử hình
thì phát hiện là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ
nuôi con dưới 36 tháng tuổi (điểm a khoản
3 Điều 40 BLHS) thì hình phạt tử hình được
chuyển thành tù chung thân (khoản 4 Điều
40 BLHS). Vậy trong trường hợp này thì xét
giảm thời hạn chấp hành án cũng giống như
trường hợp trên hay được xem xét như đối
với người bị kết án tù chung thân? Trường
hợp này nên chăng cũng xem xét giống như
các trường hợp được ân giảm từ tử hình
xuống tù chung thân, tức là thời gian đã
chấp hành hình phạt để được xét giảm lần
đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần
những vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế
chấp hành hình phạt là 30 năm; bởi lẽ, về
bản chất đây cũng là trường hợp ân giảm từ
tử hình xuống chung thân.
Ngoài ra, hiện nay, Thông tư liên tịch
số 02/2013/TTLT-BCA-BQP- TANDTC –
VKSNDTC ngày 15/05/2013 của Bộ Công
an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn
chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân đã
có nhiều những quy định cũ, chưa đảm bảo
thực hiện theo các quy định mới của BLHS
năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Do đó, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm
có văn bản thay thế để hướng dẫn việc xét
giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với
phạm nhân; trong đó đặc biệt lưu ý đối với
các trường hợp bị kết án tử hình nhưng
được chuyển xuống tù chung thân.
Thứ năm, vấn đề áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh đối với người bị kết
án tử hình chờ thi hành án.
Liên quan đến việc thi hành án tử
hình thì một vấn đề cần được đặt ra là có
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
đối với người bị kết án tử hình chờ thi
hành án. Về nguyên tắc khi có căn cứ cho
rằng người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội không có năng lực trách nhiệm
hình sự thì tùy từng giai đoạn tố tụng, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải
trưng cầu giám định pháp y tâm thần;
và căn cứ kết luận giám định pháp y tâm
thần, Viện kiểm sát quyết định áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai
đoạn điều tra, truy tố; Tòa án quyết định
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
trong giai đoạn xét xử và thi hành án(1).
Tuy nhiên, nếu đối chiếu với quy định
của BLHS thì tại khoản 2, 3 Điều 49 BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
chỉ mới quy định bắt buộc chữa bệnh đối
với trường hợp người phạm tội trước khi
bị kết án đã mắc bệnh tới mức khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành
vi của mình và trường hợp người đang
chấp hành hình phạt tù thì có thể quyết
định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên
khoa để bắt buộc chữa bệnh; còn không
quy định đối với người bị kết án tử hình
đang chờ thi hành án và người đang chấp
hành các hình phạt khác. Điều này là bất
(Xem tiếp trang 13)
1 Điều 447 BLTTHS năm 2015.
NGÔ TRUNG HÒA
13Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Vật chứng quan trọng phải chụp ảnh
vật chứng tại nơi phát hiện cùng với bị
can hoặc đại diện cho bị can hoặc người
có liên quan.
Năm là, khi thu thập và bảo quản vật
chứng, cần tuân thủ đúng quy định của
BLTTHS năm 2015 tại khoản 1 Điều 90
như sau:
- Đối với vật chứng cần được niêm
phong thì phải niêm phong ngay sau khi
thu thập (áp dụng đối với các vật chứng
là: công cụ, phương tiện gây án trong các
vụ trọng án; các vật chứng có ý nghĩa xác
định tội danh và khung hình phạt; các vật
chứng có giá trị cao dễ bị thay đổi, đánh
tráo; vật chứng không xác định được ngay
giá trị, số lượng, trọng lượng, tính chất).
- Đối với vật chứng là tiền, vàng, bạc,
kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ phải được
giám định ngay sau khi thu thập và phải
chuyển ngay để bảo quản tại ngân hàng
hoặc các cơ quan chuyên trách khác.
- Đối với vật chứng không thể đưa về
cơ quan tiến hành tố tụng để bảo quản thì
cơ quan tiến hành tố tụng giao vật chứng
đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp
pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích
của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ
quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản.
- Đối với vật chứng là hàng hóa mau
hỏng hoặc khó bảo quản thì cơ quan có
thẩm quyền quyết định bán theo quy
định của pháp luật và chuyển tiền đến tài
khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền
tại kho bạc nhà nước để quản lý.
Tóm lại, từ việc nghiên cứu, phân tích
làm rõ một số bất cập, sai sót trong quá
trình thu thập vật chứng của các cơ quan
tiến hành tố tụng trong thời gian qua,
chúng tôi nêu lên một số vấn đề cần lưu
ý khi tiến hành thu thập vật chứng theo
đúng quy định của BLTTHS năm 2015,
góp phần hạn chế các vướng mắc, phục
vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
đạt hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu của
tiến trình cải tư pháp hiện nay./.
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH...
(Tiếp theo trang 21)
hợp lý, bởi lẽ các trường hợp bị mắc bệnh
tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình ở trước
giai đoạn thi hành án (điều tra, truy tố,
xét xử) thì có thể được áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh nhưng sau khi bản án
tử hình có hiệu lực pháp luật thì không
áp dụng bắt buộc chữa bệnh đối với họ.
Ngoài ra, họ là người không có khả năng
nhận thức, khả năng hiểu một cách đúng
đắn nên không thể đưa người này ra thi
hành án tử hình (1). Do đó, khoản 3 Điều
1 Bài viết “Bệnh tâm thần và hình phạt tử hình” của
tác giả Christopher Slobogin trong sách (Trang 304,
Sách Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng
hình sự, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2011).
49 BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2017) cần sửa đổi thành: “Đối
với người phạm tội trong khi có năng lực
trách nhiệm hình sự nhưng sau khi bị kết
án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành
vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám
định pháp y, giám định pháp y tâm thần,
Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một
cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc
chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, nếu không
có lý do khác để miễn chấp hành hình
phạt, thì người đó tiếp tục chấp hành hình
phạt” thì mới đảm bảo sự công bằng
đối với người phạm tội./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hinh_phat_tu_hinh_theo_quy_dinh_cua_bo_luat_hinh_su_nam_2015.pdf