Tuy nhiên, theo hồ sơ do ông Nguyễn Danh
T cung cấp, tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất ghi: Hộ gia đình ông Nguyễn Danh
T gồm các thành viên được UBND huyện Từ
Liêm công nhận quyền sử dụng đất tại Quyết
định số 1979/QĐ-UBND ngày 20/02/2005.
Ví dụ trên cho thấy, việc chuyển nhượng
của HGĐ ông Nguyễn Danh T đã được Văn
phòng đăng ký đất đai chấp thuận bằng công
văn, nhưng khi tiếp nhận hồ sơ, CCV phải xác
định được thành viên HGĐ tham gia vào hợp
đồng, giao dịch. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào sổ
hộ khẩu thì khó có thể xác định được thành
viên HGĐ ông Nguyễn Danh T. Trong trường
hợp này, CCV phải căn cứ vào Quyết định số
1979/QĐ-UBND ngày 20/02/2005 để xác định
hoặc CCV có công văn đề nghị Sở Tài nguyên
và Môi trường thành phố Hà Nội xác nhận số
lượng thành viên HGĐ ông Nguyễn Danh T tại
thời điểm lập hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận
bao gồm những thành viên nào.
Như vậy, từ thực tế trong hoạt động công
chứng liên quan đến xác định thành viên HGĐ,
tài sản chung HGĐ, chúng tôi nhận thấy nội
dung này thường được CCV xử lý theo những
hướng như sau:
Một là, CCV xác định thành viên HGĐ
theo sổ hộ khẩu trước thời điểm giao đất, cho
thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận
chuyển quyền sử dụng đất và/hoặc nhà.
Hai là, đối với trường hợp sổ hộ khẩu cấp
đổi hoặc cấp sau khi có Giấy chứng nhận, CCV
đề nghị cơ quan có thẩm quyền đã cấp sổ hộ
khẩu xác nhận số lượng thành viên HGĐ
(thường gọi là Phiếu xác nhận nhân khẩu).
Theo đó, CCV căn cứ vào sự có mặt của thành
viên HGĐ trên sổ hộ khẩu để xác định số
lượng thành viên HGĐ được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng
đất; hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất
và/hoặc nhà.
Ba là, căn cứ ghi nhận của cơ quan cấp Giấy
chứng nhận, tại phần ghi chú nhà, đất cấp theo
quyết định; bản án hoặc sổ hộ khẩu, từ đó, CCV
đối chiếu để xác định thành viên.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 188 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hộ gia đình - Góc nhìn chủ thể từ hoạt động công chứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
17
HỘ GIA ĐÌNH - GÓC NHÌN CHỦ THỂ TỪ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
Hoàng Giang Linh1
Tóm tắt: Trong quá trình hành nghề, công chứng viên phải xác định rõ chủ thể tham gia hợp
đồng, giao dịch Hộ gia đình, chủ thể quan hệ pháp luật dân sự được pháp luật chính thức thừa
nhận từ Bộ luật dân sự năm 1995 đã tạo nên nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng
pháp luật, đặc biệt là đối với hoạt động công chứng. Với quy định mới trong Bộ luật dân sự năm
2015, Hộ gia đình không còn được ghi nhận là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, nhưng một số
luật khác như: Luật Đất đai; Luật Nhà ở vẫn thừa nhận chủ thể này dẫn đến nhiều cách hiểu
và áp dụng pháp luật không thống nhất. Bài viết được tiếp cận từ góc nhìn của công chứng viên
về chủ thể đặc thù này.
Từ khóa: Công chứng, Hộ gia đình, Công chứng viên, Bộ luật dân sự
Nhận bài: 5/5/2017; Hoàn thành biên tập: 28/6/2017; Duyệt đăng: 01/8/2017
Abstract: In notarization activities, the notary must clearly identify the subject of the contract
or transaction. Meanwhile, the Households, who were formally recognized by the lawmaker
from the Civil Code in 1995 created difficulties and obstacles in the application of the law,
especially to notarization activities. In addition, after amending and supplementing the Civil
Code in 2015, lawmakers do not stipulate that Household s are civil legal subjects. On the other
hand, other laws such as the Land Law, Housing Law in which still recognize this subject. This
difference leads to many different interpretations and application of law. Thebelow article is the
perspective of the notary who directly practices notarization activities and exchanges views with
colleagues and readers interested in this particular subject.
Keywords: Notarization, Households, Notary, Civil Code
Date of receipt: 5/5/2017; Date of revision: 28/6/2017; Date of approval: 01/8/2017.
Theo Hán-Việt Từ điển thì công chứng là
“lấy quyền công mà làm chứng”2 còn tại Luật
Công chứng năm 2014 quy định “Công chứng
viên cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy
nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn pháp lý
cho các bên”3. Như vậy, có thể thấy hoạt động
công chứng là việc công chứng viên (CCV) thay
mặt nhà nước chứng nhận hợp đồng, giao dịch
theo quy định để phòng ngừa tranh chấp, góp
phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Khi thực hiện công việc, về cơ bản CCV
phải xác định hai nội dung được xem là quan
trọng nhất là (i) Chủ thể công chứng và (ii) Đối
tượng công chứng. Nếu CCV không xác định
chính xác một trong hai nội dung này thì hợp
đồng, giao dịch sẽ vô hiệu toàn bộ.
Trong hoạt động công chứng, chủ thể và
đối tượng tham gia giao dịch được căn cứ theo
Bộ luật dân sự (BLDS). Bên cạnh đó, CCV
còn căn cứ theo các luật chuyên ngành khác
như: Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Đất đai;
Luật Nhà ở; Luật Sở hữu trí tuệ; Luật Hàng
không Dân dụng Việt Nam; Bộ luật Hàng
hảiNhư vậy, CCV thực hiện công việc của
mình phải làm rõ hai yếu tố quan trọng đã nêu
ở trên. Tuy nhiên, việc xác định đúng chủ thể,
đúng đối tượng không phải lúc nào cũng dễ
dàng, đặc biệt, chủ thể tham gia công chứng
là Hộ gia đình (HGĐ) một chủ thể đặc thù có
nhiều ý kiến trái chiều ngay từ khi chính thức
được công nhận là chủ thể quan hệ pháp luật
dân sự.
1 Công chứng viên, Văn phòng công chứng Gia Khánh, thành phố Hà Nội.
2 Đào Duy Anh (1992), Hán-Việt Từ-điển, Nxb Khoa học xã hội, tr.117.
3 Điều 3, Luật Công chứng năm 2014.
18
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
1. Khái niệm chủ thể hộ gia đình
Có thể khẳng định HGĐ là một trong
những chủ thể quan hệ pháp luật dân sự nhận
được rất nhiều sự quan tâm từ phía các nhà làm
luật nói chung4 cũng như CCV trong quá trình
tác nghiệp nói riêng.
Tại BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 đã
ghi nhận khái niệm chung về chủ thể HGĐ
nhưng chưa hoàn chỉnh khi chưa xác định thời
điểm hình thành và chấm dứt chủ thể HGĐ,
đây là nguyên nhân chính gây khó khăn trong
xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của
chủ thể đặc thù này. Theo BLDS năm 2005 về
chủ thể HGĐ cơ bản không khác gì khái niệm
chủ thể HGĐ được nêu tại khoản 1, Điều 116,
BLDS năm 1995, cụ thể:
“Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản
chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động
kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể
khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh
vực này”5.
Điểm khác biệt giữa khái niệm HGĐ tại
BLDS năm 1995 so với BLDS năm 2005 là đã
bỏ quy định: “Những hộ gia đình mà đất ở
được giao cho hộ cũng là chủ thể trong quan
hệ dân sự liên quan đến đất ở đó”6, bởi Luật
Đất đai năm 2003 đã quy định khá chi tiết
quyền và nghĩa vụ chủ thể HGĐ trong quan hệ
sử dụng đất (xem Điều 113 đến Điều 116 Luật
Đất đai năm 2003).
BLDS năm 2015 đã dành trọn một
chương trong đó có bốn điều luật quy định
về chủ thể đặc thù này. Theo BLDS năm
2015, HGĐ (và Tổ hợp tác) không được coi
là chủ thể độc lập bên cạnh cá nhân và pháp
nhân, nhưng vẫn thừa nhận chủ thể này tồn
tại trong đời sống xã hội Việt Nam. Mặc dù
không thừa nhận HGĐ là chủ thể quan hệ
pháp luật, tuy nhiên, tại khoản 2, Điều 101,
BLDS năm 2015 quy định “Việc xác định
chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia
của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện
theo quy định của Luật đất đai.”(đoạn này
có phần tương tự khoản 2, Điều 116, BLDS
năm 1995). Như vậy, có thể thấy: Đối với tài
sản có giá trị lớn là đất đai, pháp luật thừa
nhận chủ thể HGĐ cũng như đưa ra khái
niệm khá rõ ràng để giải quyết bài toán về
chủ thể đặc thù này, theo đó: “Hộ gia đình sử
dụng đất là những người có quan hệ hôn
nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang
sống chung và có quyền sử dụng đất chung
tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận
chuyển quyền sử dụng đất.”7. Song một tài
sản quan trọng khác là nhà ở lại không được
quy định tại BLDS năm 2015, mặc dù tại
Luật Nhà ở năm 2014 đã khẳng định đối
tượng sở hữu nhà ở có chủ thể là HGĐ8, điều
này đã tạo thêm rắc rối đối với chủ thể đặc
thù này trong hệ thống pháp luật dân sự
Việt Nam.
Bên cạnh đó, sau thời điểm BLDS năm
2015 được thông qua dẫn đến các luật chuyên
ngành liên quan đến dân sự được xây dựng và
ban hành phù hợp với luật mới này. Tuy nhiên,
những luật cũ trước đó như Luật Đất đai và
Luật Nhà ở đã thừa nhận HGĐ là chủ thể các
quyền sở hữu, sử dụng nhà đất dẫn đến việc
luật chung (BLDS) không thừa nhận chủ thể
HGĐ nhưng một số luật chuyên ngành (Luật
Đất đai; Luật Nhà ở) lại ghi nhận chủ thể HGĐ
khiến cho việc điều chỉnh các quan hệ dân sự
4 Tại Dự thảo BLDS năm 2015 không coi Hộ gia đình (và Tổ hợp tác) là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự. Dự thảo
liên quan đến Hộ gia đình được thảo luận tại nhiều cơ quan tổ chức khác nhau, thậm chí, sau khi Quốc Hội bỏ phiếu
tán thành nhưng Dự thảo vẫn còn vấp phải phản đối và được yêu cầu xin ý kiến Bộ Chính trị - Xem thêm Bình luận
Khoa học những điểm mới Bộ luật dân sự năm 2015 của Đỗ Văn Đại, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 45.
5 Điều 106, Bộ luật dân sự năm 2005.
6 Khoản 2, Điều 116, Bộ luật dân sự năm 1995.
7 Mục 29, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013.
8 Khoản 1, Điều 7, Luật Nhà ở năm 2014.
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
19
nói chung cũng như trong lĩnh vực công chứng
nói riêng gặp nhiều khó khăn.
2. Đặc điểm chủ thể hộ gia đình
Theo khái niệm chủ thể HGĐ, từ BLDS
năm 1995; BLDS năm 2005 hoặc Luật Đất đai
năm 2013, qua các thời kỳ, chúng tôi thấy chủ
thể này có đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, pháp luật quy định về chủ thể
HGĐ nhưng không có căn cứ pháp lý xác định
thời điểm hình thành và chấm dứt như các chủ
thể quan hệ pháp luật dân sự khác9.
Thứ hai, số lượng thành viên HGĐ tối
thiểu hai người, không hạn chế số lượng tối đa.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy chủ thể HGĐ bắt
nguồn từ gia đình nên hoạt động sản xuất kinh
doanh của chủ thể này có quy mô vừa và nhỏ.
Thứ ba, có mối quan hệ về hôn nhân, huyết
thống và nuôi dưỡng, thiếu yếu tố này thì một
nhóm người với đủ các điều kiện khác cũng
không được xem là chủ thể HGĐ.
Thứ tư, HGĐ thường là chủ thể trong một
số hợp đồng, giao dịch liên quan đến các lĩnh
vực như: đất đai; nhà ở; sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp.
Thứ năm, chủ thể HGĐ phải có tài sản
chung và cùng hoạt động sản xuất kinh tế
chung, điều này thể hiện bởi các chính sách của
Nhà nước đối với HGĐ đã được thừa nhận ít
nhất từ thời kỳ đổi mới kinh tế năm 1986 cho
đến tận ngày nay. Từ tài sản chung, luật cấu
thành các phương thức xử lý, định đoạt tài sản
chung của hộ. Đối với tài sản chung do cộng
đồng sở hữu, tức là một nhóm người cùng thực
hiện quyền và nghĩa vụ của người chủ sở hữu
đối với khối tài sản chung thì sự khác nhau
giữa nhóm người có quyền sở hữu/sử dụng
chung với HGĐ là giữa các thành viên hộ luôn
luôn tồn tại mối quan hệ về hôn nhân, huyết
thống và nuôi dưỡng. Trong khi đó, nhóm
người có quyền sở hữu/sử dụng tài sản chung
thì họ có thể không tồn tại tiêu chí này.
Tại BLDS năm 2015, thành viên HGĐ độc
lập tham gia giao dịch và tự chịu trách nhiệm
cá nhân với phần quyền của mình trong khối
tài sản chung nếu đáp ứng các tiêu chí về độ
tuổi cũng như năng lực hành vi; đồng thời, bổ
sung quy định mới về sở hữu chung của các
thành viên gia đình10 nhằm tháo gỡ những khó
khăn khi áp dụng pháp luật.
Nhìn một cách tổng quát nhất, để nhận diện
chính xác chủ thể và đối tượng của hợp đồng,
giao dịch có liên quan đến HGĐ, chúng ta cần
phải khẳng định rõ thành viên nào là thành viên
HGĐ hoặc chỉ là thành viên gia đình; tài sản
nào là tài sản chung HGĐ và tài sản riêng cá
nhân là thành viên HGĐ. Khó khăn này đã tác
động không nhỏ đến việc thực hiện các quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm của HGĐ cũng như
thành viên HGĐ trong giao lưu dân sự. BLDS
năm 2015 chỉ thừa nhận hai chủ thể quan hệ
pháp luật dân sự là cá nhân và pháp nhân, tuy
nhiên, do pháp luật dân sự của chúng ta xây
dựng luật chung sau luật riêng nên dẫn đến
những vướng mắc trong quá trình áp dụng
pháp luật trong thực tiễn.
3. Định đoạt tài sản chung của Hộ gia đình
Trong hoạt động công chứng, tài sản chung
của HGĐ thông thường là quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu nhà ở11. Mặt khác, chúng tôi
nhận thấy vướng mắc liên quan đến tài sản
chung HGĐ thường xoay quanh giao dịch định
đoạt tài sản.
Theo BLDS năm 2015, định đoạt là quyền
của chủ sở hữu quy định tại Điều 192, cụ
thể:“...định đoạt là quyền chuyển giao quyền
sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng
hoặc tiêu hủy tài sản”12. Như vậy, có thể hiểu
định đoạt là hành vi của chủ thể sở hữu vật
9 Đối với cá nhân, đó là thời điểm sinh ra và kết thúc bằng cái chết, đối với pháp nhân thì có thể được hình thành
hoặc giải thể theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở ý chí của một hoặc nhiều người
sáng lập.
10 Khoản 1, Điều 212, Bộ luật dân sự năm 2015.
11 Tác giả có tham khảo một số luật liên quan đến đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản như: Luật Hàng không
Dân dụng Việt Nam, Bộ luật Hàng hải, Luật Sở hữu trí tuệ... nhưng không thấy quy định chủ thể Hộ gia đình trong
các văn bản quy phạm pháp luật này.
12 Bộ luật dân sự năm 2015 đã bổ sung hành vi tiêu dùng hoặc tiêu hủy của chủ thể vào khái niệm định đoạt tài sản.
20
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
thực hiện quyền quyết định số phận pháp lý
và số phận thực tế đối với tài sản của mình.
Tại BLDS năm 2005, định đoạt tài sản chung
HGĐ được quy định: “Việc định đoạt tài sản
là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn
của hộ gia đình phải được các thành viên từ
đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các
loại tài sản chung khác phải được đa số thành
viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”13.
Hiện nay, việc định đoạt tài sản chung HGĐ
đã có nhiều thay đổi so với BLDS năm 2005
khi quy định lại độ tuổi thành viên HGĐ cũng
như bổ sung điều khoản mới về sở hữu chung
của các thành viên gia đình. Cụ thể, theo
khoản 1, Điều 102, BLDS năm 2015 quy
định: “Việc xác định tài sản chung của các
thành viên hộ gia đình, quyền, nghĩa vụ đối
với tài sản này được xác định theo quy định
tại Điều 212 của Bộ luật này”. Tại Điều 212,
BLDS năm 2015 ghi:
“1. Tài sản của các thành viên gia đình
cùng sống chung gồm tài sản do các thành
viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và
những tài sản khác được xác lập quyền sở
hữu theo quy định của Bộ luật này và luật
khác có liên quan.
2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung của các thành viên gia đình được
thực hiện theo phương thức thỏa thuận.
Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản,
động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập
chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của
tất cả các thành viên gia đình là người thành
niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
trường hợp luật có quy định khác...”.
Điều luật trên cho thấy pháp luật đã có
những thay đổi đối với giao dịch liên quan đến
tài sản chung HGĐ, đặc biệt là nội dung liên
quan đến định đoạt, cụ thể như sau:
- BLDS năm 2005 quy định Chủ hộ được
đại diện HGĐ tham gia một số giao dịch vì lợi
ích chung của hộ14. Tại BLDS năm 2015 không
quy định Chủ hộ mà ghi nhận sự thỏa thuận
của thành viên HGĐ.
- BLDS năm 2005 quy định nội dung định
đoạt tài sản chung “có giá trị lớn” của HGĐ
phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi
trở lên đồng ý. Tuy nhiên, về tài sản, tại BLDS
năm 2015 đã sử dụng thuật ngữ “nguồn thu
nhập chủ yếu” và phải được tất cả các thành
viên HGĐ từ đủ mười tám tuổi trở lên đồng ý.
- Tại BLDS năm 2015, về nội dung định
đoạt tài sản chung HGĐ có bổ sung thêm quy
định trừ trường hợp luật có quy định khác.
Bên cạnh đó, khoản 1, Điều 102, BLDS
năm 2015 sử dụng thuật ngữ thành viên Hộ gia
đình, nhưng tại khoản 2, Điều 212, BLDS năm
2015 lại sử dụng thuật ngữ thành viên gia đình,
trong khi đó, khái niệm gia đình và khái niệm
Hộ gia đình là không giống nhau. Nhìn dưới
một góc độ so sánh, khái niệm gia đình bao
trùm lên khái niệm HGĐ và dường như, HGĐ
luôn luôn là một bộ phận cấu thành nên gia
đình. Mặc dù cùng được xây dựng dựa trên
quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng
nhưng để trở thành thành viên HGĐ, những cá
nhân này (thường) phải sống chung với nhau
trong khi yêu cầu kể trên lại không áp dụng khi
xác định thành viên của gia đình.
Từ những thay đổi nêu trên, trong thực tiễn
hành nghề công chứng, CCV cần tham chiếu
các luật khác xem có “vênh” so với khoản 2,
Điều 212, BLDS năm 2015 hay không. Tham
khảo các luật có liên quan, chúng tôi nhận thấy:
Tại khoản 2, Điều 77, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 quy định về định đoạt tài sản
riêng của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự như sau:
“Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền
định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản
là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở
hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh
doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của
cha mẹ hoặc người giám hộ”.
Tại khoản 4, Điều 21, BLDS năm 2015 quy
định về độ tuổi của người chưa thành niên thực
hiện giao dịch dân sự như sau:“Người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự
13 Khoản 2, Điều 109, Bộ luật Dân sự năm 2005.
14 Khoản 1, Điều 107, Bộ luật Dân sự năm 2005.
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
21
mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ
giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản,
động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự
khác theo quy định của luật phải được người
đại diện theo pháp luật đồng ý”.
Đối chiếu với khoản 2, Điều 212, BLDS
năm 2015, dưới góc độ công chứng liên quan
đến định đoạt tài sản chung của HGĐ, chúng
tôi nhận thấy như sau:
Độ tuổi khi tham gia giao dịch tại BLDS
năm 2015 chưa thống nhất, chưa rõ ràng ngay
trong một văn bản. Cụ thể:
Khoản 4, Điều 21, BLDS năm 2015 là sự
sửa đổi của khoản 2, Điều 20, BLDS năm
2005. Tại BLDS năm 2005 quy định người
chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa
đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự đối với “tài sản riêng”,
nhưng theo BLDS năm 2015 đã bỏ cụm từ
“tài sản riêng”.
- Khoản 2, Điều 77, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 (khoản 2, Điều 20, BLDS năm
2005) quy định về giao dịch của người chưa
thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười
tám tuổi có “tài sản riêng” thì tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch; đối với một số tài sản phải
đăng ký quyền sở hữu/sử dụng phải được
người đại diện theo pháp luật đồng ý.
- BLDS năm 2005 quy định độ tuổi người
chưa thành niên được phép tham gia một số
giao dịch có sự tương thích thể hiện tại khoản
2, Điều 20; khoản 2 Điều 109 và khoản 2,
Điều 77, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Tuy chưa thực sự rõ ràng và thiếu thống
nhất trong một số điều luật, nhưng theo BLDS
năm 2015 không thừa nhận HGĐ là chủ thể
quan hệ pháp luật, đồng thời, với quy định lại
về độ tuổi thành viên hộ, tài sản chung của hộ
đã minh chứng cho việc xác định thành viên
hộ cũng như tài sản chung HGĐ hiện nay cần
được áp dụng theo sự thay đổi của BLDS mới.
Những phân tích nêu trên cho thấy sự thay
đổi quan điểm của pháp luật đối với chủ thể
HGĐ, do đó, trong quá trình hành nghề, CCV
phải xác định đúng thành viên HGĐ và tài sản
chung HGĐ nhằm bảo đảm văn bản công
chứng có hiệu lực theo quy định của pháp luật.
Để có góc nhìn rõ ràng hơn trong quá trình áp
dụng pháp luật công chứng liên quan đến chủ
thể đặc thù này, chúng tôi xin đưa ra một số ví
dụ sau:
Hộ ông Nguyễn Văn A được nhà nước giao
đất năm 2000, tại thời điểm giao đất, hộ ông
Nguyễn Văn A có bốn thành viên là: Ông
Nguyễn Văn A và vợ là Nguyễn Thị B, hai con
là Nguyễn Văn C, sinh năm 2001 và Nguyễn
Thị D, sinh năm 2012. Năm 2017, hộ ông
Nguyễn Văn A chuyển nhượng đất cho bà Trần
Thị U.
Theo ví dụ trên, chúng tôi nhận thấy còn
nhiều cách hiểu khác nhau giữa CCV khi xác
định độ tuổi thành viên HGĐ tham gia giao
dịch như: (i) có CCV áp dụng khoản 2, Điều
212, BLDS năm 2015 khi xác định độ tuổi
thành viên hộ phải từ đủ mười tám tuổi trở
lên, do vậy, chỉ có Nguyễn Văn A và vợ là
Nguyễn Thị B tham gia ký hợp đồng, giao
dịch mà không cần có sự hiện diện của hai
con là C và D (ii) ý kiến khác, bên cạnh chủ
thể là vợ chồng A và B thì đồng thời A và B
đại diện theo pháp luật cho hai con C và D
tham gia giao dịch (iii) CCV khác lại cho
rằng, chủ thể tham gia giao dịch bên cạnh vợ
chồng A và B (A và B đại diện theo pháp luật
cho D) thì trường hợp này phải được sự đồng
ý của C do C đã đủ mười lăm tuổi nên C phải
tham gia thỏa thuận với các thành viên trong
hộ khác. Với ví dụ nêu trên, tác giả nghiêng
về ý thứ ba, vì bên cạnh việc quy định thành
viên hộ tham gia giao dịch phải là người
thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
theo khoản 2, Điều 212, BLDS năm 2015,
nhưng bên cạnh đó, bổ sung thêm quy định
trừ trường hợp luật có quy định khác, đây
cũng là đặc thù trong hoạt động công chứng
bởi CCV phải tìm mọi biện pháp nhằm bảo
đảm hợp đồng, giao dịch được an toàn, loại
bỏ mọi tranh chấp phát sinh theo đúng các
quy định của pháp luật.
Bên cạnh xác định độ tuổi của thành viên hộ
theo BLDS năm 2015 thì việc xác định tài sản
chung HGĐ hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn
22
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
do HGĐ đã tồn tại từ hơn hai mươi năm trước,
chúng ta có thể thấy điều này qua ví dụ sau:
Tháng 08 năm 1996, ông Nguyễn Văn
Nghĩa và mẹ là Trần Thị Trang lập hồ sơ kê
khai để nhà nước công nhận quyền sử dụng
đất đối với diện tích 150m2 tại huyện Từ Liêm,
thành phố Hà Nội. Tháng 09 năm 1996, ông
Nguyễn Văn Nghĩa đăng ký kết hôn với bà Lò
Linh Đan. Tháng 10 năm 1996, bà Lò Linh
Đan nhập khẩu vào gia đình ông Nguyễn Văn
Nghĩa. Tháng 12 năm 1996, UBND huyện Từ
Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, diện tích 150m2 cho Hộ gia đình bà Trần
Thị Trang.
Với ví dụ trên, xét thời điểm Giấy chứng
nhận cấp tháng 12 năm 1996 với dữ liệu thành
viên HGĐ tại sổ hộ khẩu thì dường như bà Lò
Linh Đan là thành viên HGĐ và có quyền đối
với tài sản chung HGĐ bà Trần Thị Trang.
Nhưng nếu xét thời điểm lập hồ sơ xin cấp Giấy
chứng nhận thì tài sản chung HGĐ chỉ có ông
Nghĩa và mẹ là bà Trang mà thôi. Như vậy,
trường hợp này CCV phải xác định được hai
thời điểm là (i) thời điểm lập hồ sơ xin cấp Giấy
chứng nhận và (ii) thời điểm cấp Giấy chứng
nhận, theo đó, thời điểm lập hồ sơ xin cấp Giấy
chứng nhận mới cho thấy chính xác thành viên
HGĐ nào sở hữu tài sản chung.
Một thực tế là đối với chủ thể HGĐ thì sổ
hộ khẩu thường được CCV lấy làm căn cứ để
xác định số lượng thành viên hộ, tuy nhiên,
trong quá trình hoạt động công chứng, không
phải lúc nào CCV cũng có thể sử dụng sổ hộ
khẩu làm căn cứ pháp lý xác định thành viên
hộ, chúng ta có thể thấy điều này qua ví dụ sau:
Tháng 01 năm 2017, Hộ ông Nguyễn
Danh T được Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất. Tháng 02 năm
2017, Hộ ông Nguyễn Danh T thực hiện
chuyển nhượng một phần quyền sử dụng nhà,
đất. Việc chuyển nhượng nêu trên của hộ ông
Nguyễn Danh T đã được Văn phòng đăng ký
đất đai Hà Nội- Chi nhánh quận Bắc Từ Liêm
đồng ý bằng Công văn số 2844/VPĐKĐĐHN-
CNQBTL.
Tuy nhiên, theo hồ sơ do ông Nguyễn Danh
T cung cấp, tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất ghi: Hộ gia đình ông Nguyễn Danh
T gồm các thành viên được UBND huyện Từ
Liêm công nhận quyền sử dụng đất tại Quyết
định số 1979/QĐ-UBND ngày 20/02/2005.
Ví dụ trên cho thấy, việc chuyển nhượng
của HGĐ ông Nguyễn Danh T đã được Văn
phòng đăng ký đất đai chấp thuận bằng công
văn, nhưng khi tiếp nhận hồ sơ, CCV phải xác
định được thành viên HGĐ tham gia vào hợp
đồng, giao dịch. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào sổ
hộ khẩu thì khó có thể xác định được thành
viên HGĐ ông Nguyễn Danh T. Trong trường
hợp này, CCV phải căn cứ vào Quyết định số
1979/QĐ-UBND ngày 20/02/2005 để xác định
hoặc CCV có công văn đề nghị Sở Tài nguyên
và Môi trường thành phố Hà Nội xác nhận số
lượng thành viên HGĐ ông Nguyễn Danh T tại
thời điểm lập hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận
bao gồm những thành viên nào.
Như vậy, từ thực tế trong hoạt động công
chứng liên quan đến xác định thành viên HGĐ,
tài sản chung HGĐ, chúng tôi nhận thấy nội
dung này thường được CCV xử lý theo những
hướng như sau:
Một là, CCV xác định thành viên HGĐ
theo sổ hộ khẩu trước thời điểm giao đất, cho
thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận
chuyển quyền sử dụng đất và/hoặc nhà.
Hai là, đối với trường hợp sổ hộ khẩu cấp
đổi hoặc cấp sau khi có Giấy chứng nhận, CCV
đề nghị cơ quan có thẩm quyền đã cấp sổ hộ
khẩu xác nhận số lượng thành viên HGĐ
(thường gọi là Phiếu xác nhận nhân khẩu).
Theo đó, CCV căn cứ vào sự có mặt của thành
viên HGĐ trên sổ hộ khẩu để xác định số
lượng thành viên HGĐ được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng
đất; hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất
và/hoặc nhà.
Ba là, căn cứ ghi nhận của cơ quan cấp Giấy
chứng nhận, tại phần ghi chú nhà, đất cấp theo
quyết định; bản án hoặc sổ hộ khẩu, từ đó, CCV
đối chiếu để xác định thành viên.
(Xem tiếp trang 35)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ho_gia_dinh_goc_nhin_chu_the_tu_hoat_dong_cong_chung.pdf