Về hỗ trợ tín dụng, đây là hình thức hỗ
trợ cần thiết để nâng cao năng lực cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vì sự thuận lợi
trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng sẽ
giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa gia tăng
quy mô sản xuất, cũng như có khả năng đổi
mới công nghệ sản xuất, đào tạo nhân lực từ
đó tăng cường năng suất lao động và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Như vậy,
hoàn thiện hình thức hỗ trợ tín dụng có tác
động tích cực trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước
ở Việt Nam. Cụ thể là cần hoàn thiện quy
định về hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa theo hướng: không chỉ tập trung
thẩm định năng lực hiện tại của doanh
nghiệp để đảm bảo thu hồi vốn vay, mà quá
trình xét duyệt hướng đến việc giúp đỡ các
doanh nghiệp này thiết lập được dự án kinh
doanh có tính khả thi, thông qua đó giúp
nâng cao năng lực quản lý và triển khai dự
án kinh doanh của các doanh nghiệp đó.
Điều đó góp phần giúp nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
Pháp luật hỗ trợ tín dụng cần được hoàn
thiện để khuyên khích, huy động các ngân
hàng thương mại và các cá nhân, tổ chức
tham gia vào việc hỗ trợ tín dụng cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, thậm chí có thể
quy định bắt buộc các ngân hàng thương mại
thực hiện hỗ trợ tín dụng với chỉ tiêu cụ thể.
Ngoài ra, ngân hàng nhà nước cần xác định
các mức lãi suất và thời hạn tín dụng khác
nhau cho từng trường hợp cho vay, nếu là
khoản tín dụng đề hình thành tài sản cố định
(như nhà xưởng, thiết bị máy móc và chuyển
giao công nghệ) của doanh nghiệp thì cần
quy định mức lãi suất thấp và thời hạn vay
dài hơn so với trường hợp tín dụng dành cho
vốn lưu động, như vậy vừa tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đổi mới
công nghệ, cũng như đảm bảo lợi ích của
phía ngân hàng cho vay.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hỗ trợ đầu tư với việc nâng cao năng lực cạnh tranh để hội nhập kinh tế của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 1(401) - T1/202034 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
1. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
là điều kiện để thành công trong hội nhập
kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất
yếu và thực tiễn đã cho thấy hội nhập kinh
tế quốc tế là điều kiện bắt buộc để phát triển
kinh tế đối với các quốc gia đang phát triển
như Việt Nam. Quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế vừa tạo ra nhiều cơ hội lớn, đồng
thời cũng tạo ra những thách thức không nhỏ
cho các quốc gia đang phát triển. Vì vậy,
không phải quốc gia nào cũng đạt được
thành công trong quá trình hội nhập, có
những quốc gia không thể tận dụng được các
cơ hội do hội nhập kinh tế tạo ra mà ngược
lại đã phải gánh chịu thiệt hại nặng nề từ
những thách thức của quá trình hội nhập và
trở thành “những người bị bỏ lại”. Thực tế
cho thấy, nền kinh tế Việt Nam có nguy cơ
tụt hậu nếu chúng ta không có những chính
sách phát triển hợp lý để tăng cường nội lực,
tạo động lực mới cho phát triển kinh tế bền
vững. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 – 2020, trong đó xác định quan
Đào Thu Hà*
ThS. Khoa Luật, Đại học Kinh tế Quốc dân.
Tóm tắt:
Để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của nước ta hiện nay,
cần phải thực hiện nhiều chính sách kinh tế với lộ trình ưu tiên
khác nhau. Trong đó, những quy định của pháp luật về hỗ trợ
đầu tư đóng vai trò là một trong những chính sách tạo cơ sở
nâng cao năng lực cạnh tranh. Bài viết phân tích thực trạng hỗ
trợ đầu tư hiện nay và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Abstract:
It is required to carry out a series of the economic policies
with different priority roadmap to increase our national
competitiveness. In particular, the provisions of the law on
investment support play a role as one of the policies to generate
a ground to improve the national competitiveness. This article
provides analysis of the current investment supports and
proposed solutions to enhance Vietnam's national
competitiveness in the context of international economic
integration.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Hỗ trợ đầu tư, hội nhập kinh tế,
năng lực cạnh tranh.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/12/2019
Biên tập : 22/12/2019
Duyệt bài : 25/12/2019
Article Infomation:
Keywords: investment supports;
economic integration; competition
capacity; legal regulations on investment
supports.
Article History:
Received : 18 Dec. 2019
Edited : 22 Dec. 2019
Approved : 25 Dec. 2019
Hỗ trợ đầu tư với việc nâng cao năng lực
cạnH tranH để Hội nHập kinH tế của việt nam
35Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
điểm phát triển trong giai đoạn này là phải
tăng cường nội lực, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế sâu rộng và hiệu quả1. Quan điểm
này tiếp tục được nhấn mạnh tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản
Việt Nam: “Kết hợp hiệu quả ngoại lực và
nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”2. Ở đây,
tăng cường nội lực chính là nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia; nói cách khác, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia là chìa
khoá để Việt Nam tận dụng được những cơ
hội từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tạo
động lực cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Năng lực cạnh tranh quốc gia là kết
quả tương tác của nhiều yếu tố và chính sách
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, bao gồm:
nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,
nguồn lao động, trình độ quản trị doanh
nghiệp, năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, nguồn vốn đầu tư, hạ tầng xã hội, sự
ổn định của thể chế chính trị, chất lượng môi
trường kinh doanh, các chính sách tiền tệ,
chính sách bảo vệ, xúc tiến xuất nhập khẩu,
trợ cấp để thúc đẩy phát triển một số ngành
kinh tế của Chính phủ3. Tuy nhiên, ở mỗi
quốc gia, tình trạng của các yếu tố này là
khác nhau. Bởi vậy, muốn nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia thì mỗi quốc gia cần
phải có chính sách tận dụng, phát huy được
những yếu tố thuận lợi (lợi thế), xây dựng và
kích thích sự gia tăng mức độ thuận lợi của
các yếu tố không sẵn có hoặc còn đang hạn
chế, trong đó mấu chốt của vấn đề nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia là phải nâng
cao năng suất của nền kinh tế4.
Hiện nay, ở Việt Nam, năng suất lao
động cũng như hiệu quả sử dụng vốn là thấp
so với các quốc gia khác. Vì vậy, việc nâng
cao năng suất lao động sẽ là yếu tố quan
trọng để góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia. Sự gia tăng năng lực cạnh
tranh quốc gia trên cơ sở nâng cao năng suất
lao động sẽ tạo ra động lực phát triển kinh tế
bền vững. Bởi lẽ, khi đó năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong nước cũng gia
tăng, tránh được tình trạng bị lấn át ngay trên
thị trường trong nước. Doanh nghiệp trong
nước sẽ dần vươn ra cạnh tranh trên thị
trường quốc tế, tận dụng được những lợi ích
của hội nhập kinh tế, tránh không bị tụt hậu
và phụ thuộc vào các quốc gia khác.
Ở Việt Nam hiện nay, để nâng cao
năng suất lao động thì cần phải nâng cao
chất lượng của người lao động, nâng cao
trình độ quản lý doanh nghiệp, đồng thời
phải nâng cao năng lực khoa học, công nghệ
và áp dụng khoa học, công nghệ vào sản
xuất, kinh doanh. Để nâng cao năng lực cạnh
tranh cho doanh nghiệp thì ngoài việc nâng
cao năng suất lao động phải nâng cao khả
năng tiếp cận thị trường trong nước và quốc
tế của doanh nghiệp.
2. Hỗ trợ đầu tư và mối liên hệ giữa hỗ trợ
đầu tư với năng lực cạnh tranh quốc gia
Thuật ngữ “hỗ trợ đầu tư” lần đầu
được đề cập trong Luật Khuyến khích Đầu
tư trong nước năm 1994, sau đó Luật đầu tư
năm 2005, Luật Đầu tư năm 2014 kế thừa và
phát triển các quy định về hỗ trợ đầu tư. Tuy
nhiên, các văn bản luật này chỉ xác định các
hình thức hỗ trợ đầu tư mà không đưa ra
cách hiểu thế nào là hỗ trợ đầu tư. Các hình
thức hỗ trợ đầu tư được đề cập trong các văn
bản luật nêu trên là rất phong phú, nhưng tựu
chung lại, có thể nói rằng, hỗ trợ đầu tư
chính là những biện pháp được Nhà nước tạo
ra, nhằm làm giảm bớt khó khăn, tạo thuận
lợi cho quá trình đầu tư của nhà đầu tư.
Trong từng giai đoạn nhất định, căn cứ vào
1 Xem Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI năm 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2 Xem Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII năm 2016 của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3 Xem CIEM & ACI (2010), Báo cáo Năng lực cạnh tranh Việt Nam, Hà Nội.
4 Xem Delgado, Mercedes, Michael E. Porter, and Scott Stern (2012), ‘The Determinants of National
Competitiveness’, NBER Working Paper Series, No.18249.
mục đích phát triển kinh tế, Nhà nước thực
hiện các hình thức hỗ trợ đầu tư khác nhau.
Ví dụ như để thực hiện mục tiêu thu hút vốn
đầu tư, Nhà nước có thể tạo ra các hình thức
hỗ trợ đầu tư để giúp các nhà đầu tư hạn chế
khó khăn trong việc tiếp cận các yếu tố đầu
vào của sản xuất, kinh doanh (đất đai, tín
dụng, lao động), hay giúp nhà đầu tư giảm
thiểu các chi phí đầu tư, từ đó khuyến khích
đầu tư, thu hút vốn đầu tư. Như vậy, Nhà
nước hoàn toàn có thể thiết lập và sử dụng
các hình thức hỗ trợ đầu tư một cách linh
hoạt để nâng cao năng lực cạnh tranh cho
các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Như đã đề cập, điều kiện để Việt Nam
thành công trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay là phải nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia trên cơ sở nâng cao năng
suất lao động và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Những điều kiện này chỉ có
thể được đảm bảo với sự giúp sức từ phía
Nhà nước thông qua việc Nhà nước thiết lập
và thực hiện các hình thức hỗ trợ đầu tư thích
hợp. Cụ thể là, để nâng cao năng suất lao
động ở các doanh nghiệp, Nhà nước có thể
thực hiện sự hỗ trợ cho doanh nghiệp đổi
mới công nghệ sản xuất, kinh doanh, áp
dụng khoa học, kỹ thuật vào hoạt động sản
xuất; hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo
hướng, người lao động có trình độ chuyên
môn, kỹ năng cao, người quản lý doanh
nghiệp có trình độ và chuyên môn quản lý
sản xuất, kinh doanh tốt, nguồn nhân lực tri
thức về khoa học, kỹ thuật để đáp ứng nhu
cầu nghiên cứu, phát triển, đổi mới và ứng
dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, kinh
doanh... Ngoài ra, để nâng cao năng lực cạnh
tranh, Nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh
nghiệp trong việc tiếp cận và khai thác các
thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước có
thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc
khai thác, phát triển các thị trường thông qua
việc cung cấp các thông tin về thị trường
tiềm năng, tạo cơ hội để doanh nghiệp tiếp
xúc và kết nối với khách hàng, giúp các
doanh nghiệp tiếp cận các thị trường mới ở
nước ngoài thông qua hoạt động ngoại giao,
ký kết các thoả thuận thương mại với các
quốc gia đó.
Như vậy, hỗ trợ đầu tư có thể trở thành
công cụ, biện pháp để góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo ra các điều
kiện cần thiết cho sự thành công của Việt
Nam khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Thực trạng pháp luật về hỗ trợ đầu tư
tại Việt Nam
Hiện nay ở nước ta, Luật Đầu tư năm
2014 quy định về hỗ trợ đầu tư tại các Điều
19, Điều 20 và Điều 21; trong đó, Điều 19
xác định bảy hình thức hỗ trợ đầu tư và xác
định việc quy định chi tiết các hình thức hỗ
trợ đầu tư áp dụng đối với các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, các doanh nghiệp trong một số
lĩnh vực được khuyến khích thuộc trách
nhiệm của Chính phủ, còn Điều 20 và Điều
21 quy định cụ thể hơn về hình thức hỗ trợ
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật -
xã hội. Các hình thức hỗ trợ đầu tư quy định
trong Luật Đầu tư năm 2014 gồm bảy hình
thức là: 1) Hỗ trợ phát triển hệ thống kết cấu
hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và
ngoài hàng rào dự án; 2) Hỗ trợ đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực; 3) Hỗ trợ tín dụng; 4)
Hỗ trợ tiếp cận mặt bằng sản xuất, kinh
doanh; hỗ trợ di dời cơ sở sản xuất ra khỏi
nội thành, nội thị; 5) Hỗ trợ khoa học, kỹ
thuật, chuyển giao công nghệ; 6) Hỗ trợ phát
triển thị trường, cung cấp thông tin; 7) Hỗ
trợ nghiên cứu và phát triển. Nhìn chung, các
quy định về hỗ trợ đầu tư này rất ngắn gọn
và đơn giản, chỉ xác định tên gọi của các
hình thức hỗ trợ đầu tư mà không quy định
rõ về các điều kiện và cách thức thực hiện
hỗ trợ (trừ hình thức hỗ trợ phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội).
Cách quy định như vậy là rất hợp lý, tránh
sự trùng lặp và chồng chéo với các quy định
tại luật chuyên ngành, bởi hiện tại, pháp luật
chuyên ngành về giáo dục, đào tạo, quy định
về tín dụng, quy định về khoa học, công
nghệ, về chuyển giao công nghệ, về đất
đai tương ứng với các lĩnh vực hỗ trợ đầu
Số 1(401) - T1/202036 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
37Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
tư đã được bổ sung tương đối đầy đủ những
biện pháp, cách thức thực hiện hỗ trợ đầu tư.
Tóm lại, pháp luật hỗ trợ đầu tư tại Việt Nam
là tập hợp các quy định có tính đồng bộ, bao
gồm quy định xác định các hình thức hỗ trợ
đầu tư trong Luật Đầu tư năm 2014 (luật
chung) và các quy định về cách thức thực
hiện các hỗ trợ đầu tư trong các văn bản
pháp luật chuyên ngành như: Luật Khoa học
và công nghệ năm 2013, Luật Công nghệ cao
năm 2008, Luật Chuyển giao công nghệ năm
2006; Luật Giáo dục năm 2005, Luật Giáo
dục đại học năm 2012 và Luật Giáo dục nghề
nghiệp năm 2014; Luật Đất đai; Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 và các
văn bản dưới luật khác Những nội dung
pháp luật về các hình thức hỗ trợ đầu tư hiện
nay có thể khái quát như sau:
Hình thức hỗ trợ xây dựng, phát triển
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội là hình
thức hỗ trợ được thực hiện để xây dựng và
nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở phục vụ cho
tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội; theo đó,
các công trình hạ tầng kỹ thuật – xã hội
thường được xây dựng và nâng cấp thông
qua hình thức hợp đồng BT, BOT, BTO5,
nhờ thế mà hạ tầng cơ sở ở Việt Nam đã phát
triển khá nhanh chóng trong thời gian qua.
Tuy nhiên, nhiều dự án loại này đã không
phát huy được hiệu quả kinh tế - xã hội, gây
lãng phí, thất thoát tài sản nhà nước. Hình
thức hỗ trợ xây dựng, phát triển cơ sở hạ
tầng kỹ thuật - xã hội này cũng có những quy
định áp dụng riêng trong lĩnh vực nông
nghiệp và phát triển nông thôn. Các dự án
đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp được
Chính phủ hỗ trợ thông qua việc bảo lãnh
vay vốn để chủ dự án tự xây dựng mặt bằng
nhà xưởng của dự án, sau khi thực hiện xây
dựng xong Chính phủ sẽ thanh toán cho chủ
dự án số vốn vay đó và giao cho nhà đầu tư
sử dụng tài sản6. Cơ chế này có thể rủi ro,
lãng phí nếu nhà đầu tư sau khi nhận hỗ trợ
để xây dựng xong nhà xưởng nhưng không
tiếp tục triển khai thực hiện dự án.
Hình thức hỗ trợ đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực đã được thực hiện từ lâu nay,
với chính sách phát triển giáo dục là phải gắn
với nhu cầu và để phục vụ nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Luật Giáo dục năm 2005,
Luật Giáo dục đại học năm 2012 và Luật
Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 đều xác
định việc ưu tiên chi ngân sách cho giáo dục
nghề nghiệp và gia tăng chi ngân sách nhà
nước cho giáo dục đại học. Bên cạnh đó,
Nhà nước cũng huy động, khuyến khích xã
hội hoá giáo dục, đào tạo, thu hút các tổ
chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu
tư thành lập các trường giáo dục nghề nghiệp
và các trường đại học ở Việt Nam7. Nhà
nước còn có chính sách khuyến khích các tổ
chức, cá nhân thành lập các quỹ hỗ trợ đào
tạo để sử dụng vào mục đích đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực8. Các doanh nghiệp,
người sử dụng lao động cũng được khuyến
khích chủ động tổ chức đào tạo, đào tạo lại
nâng cao năng lực cho người lao động đang
làm việc với các quy định cho tính trừ các chi
phí dành cho đào tạo người lao động khi xác
định thu nhập chịu thuế9. Ngoài những quy
5 Xem Điều 20 Luật Đầu tư 2014 và Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư.
6 Xem Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
7 Xem Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá
đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường.
8 Xem Nghị định số 30/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội,
quỹ từ thiện.
9 Xem Bộ luật Lao động năm 2012 và Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 hướng dẫn thi hành Nghị
định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 quy định và hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Số 1(401) - T1/202038 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
định áp dụng chung đó, hỗ trợ về đào tạo còn
có quy định áp dụng cho nhóm doanh nghiệp
nhỏ và vừa theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa năm 2017. Các doanh nghiệp nhỏ
và vừa được cử người lao động đủ tiêu chuẩn
tham gia các khoá học về khởi sự kinh doanh;
quản trị doanh nghiệp và đào tạo nghề được
tổ chức bằng nguồn ngân sách nhà nước. Chi
phí cho khoá học có thể được miễn hoặc
giảm tối thiểu 50%10. Các dự án đầu tư trong
nông nghiệp cũng được hỗ trợ 70% kinh phí
cho đào tạo nghề11.
Hỗ trợ tín dụng là hình thức hỗ trợ để
giúp đỡ giải quyết khó khăn về vốn cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc khu vực kinh
tế tư nhân của Việt Nam. Hình thức hỗ trợ
tín dụng được thực hiện thông qua một số
quỹ tài chính đặc biệt như Quỹ phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quỹ này đứng ra
bảo lãnh tín dụng cho các nhà đầu tư được
vay vốn tín dụng từ các ngân hàng thương
mại hoặc khuyến khích các ngân hàng
thương mại cho vay12 hay khuyến khích các
quỹ của tư nhân thành lập góp vốn vào các
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo13. Tuy
nhiên, quá trình thực hiện hình thức hỗ trợ
này chưa chú trọng giúp đỡ cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa xây dựng phương án kinh
doanh khả thi và như vậy thì hiệu quả sử
dụng vốn tín dụng không cao. Ngoài ra, nội
dung quy định về hình thức hỗ trợ này cũng
chưa cho những biện pháp mạnh mẽ để huy
động các nguồn vốn ngoài ngân sách tham
gia hỗ trợ vốn cho các nhà đầu tư nhỏ và
vừa, những nhà đầu tư mới còn thiếu vốn và
cả mức độ tín nhiệm.
Hỗ trợ tiếp cận mặt bằng sản xuất,
kinh doanh được thực hiện bằng cách lập ra
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao và khu kinh tế, có sẵn các cơ sở hạ
tầng kỹ thuật – xã hội để thuận lợi cho các
nhà đầu tư thuê sử dụng thực hiện dự án14.
Luật Đất đai cũng cho phép các nhà đầu tư
có thể tiếp cận mặt bằng sản xuất, kinh
doanh trên cơ sở được Nhà nước giao đất,
hoặc cho thuê đất, hoặc được Nhà nước công
nhận quyền sử dụng đất, hoặc nhận chuyển
quyền sử dụng đất từ người sử dụng đất
khác. Theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa năm 2017, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
cũng nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn trong
việc tiếp cận mặt bằng sản xuất, cụ thể là
chính quyền cấp tỉnh phải bố trí quỹ đất
nhằm phát triển cụm công nghiệp, khu chế
biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản, hải sản tập
trung cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; và
tuỳ điều kiện ngân sách địa phương, chính
quyền cấp tỉnh có thể quyết định hỗ trợ giá
thuê mặt bằng (tối đa là 5 năm kể từ ngày
thuê mặt bằng) cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao,
cụm công nghiệp trên địa bàn.
10 Xem Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật
hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
11 Xem Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, tlđd.
12 Xem Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát
triển nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng
đầu tư của Nhà nước; Nghị định số 138/2007/NĐ-CP ngày 28/8/2007 về tổ chức và hoạt động của Quỹ
đầu tư phát triển địa phương.
13 Xem Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo.
14 Xem Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế
xuất và khu kinh tế (Nghị định này được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 164/2013/NĐ-CP và Nghị định
số 114/2015/NĐ-CP) và Nghị định số 99/2003/NĐ-CP ngày 28/8/2003 của Chính phủ ban hành Quy chế
khu công nghệ cao.
39Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
Hỗ trợ khoa học, kỹ thuật, chuyển giao
công nghệ là việc Nhà nước giúp đỡ giải
quyết những khó khăn về khoa học, kỹ thuật
cho các doanh nghiệp, dự án đầu tư thông
qua việc thành lập các tổ chức dịch vụ khoa
học và công nghệ để cung cấp dịch vụ khoa
học và công nghệ gồm: cung cấp thông tin
khoa học, công nghệ; tư vấn, đào tạo, bồi
dưỡng, phổ biến, ứng dụng thành tựu khoa
học và công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế
- xã hội; tư vấn và trợ giúp về chuyển giao
công nghệ; và phát triển thị trường chuyển
giao công nghệ15. Tuy nhiên, Luật Khoa học
và công nghệ năm 2013 chưa quy định cụ
thể, rõ ràng trách nhiệm và hình thức cung
cấp các loại dịch vụ khoa học và công nghệ
của tổ chức khoa học và công nghệ công lập,
cơ chế thực hiện sự hỗ trợ này, nên các
doanh nghiệp còn khó tiếp cận để được hỗ
trợ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có chính
sách truyền thông, phổ biến kiến thức khoa
học và công nghệ, trong đó Bộ Khoa học và
Công nghệ chịu trách nhiệm xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch hàng năm và kế
hoạch 5 năm về công tác này. Nhà nước
khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư
thực hiện hoạt động truyền thông, phổ biến
kiến thức khoa học và công nghệ. Nhà nước
cũng có chủ trương xây dựng cơ sở dữ liệu
quốc gia và thống kê về khoa học và công
nghệ để cung cấp thông tin cho các tổ chức,
cá nhân có thể yêu cầu nhằm phục vụ nghiên
cứu, đào tạo, sản xuất và kinh doanh. Đối
với các doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi
nghiệp sáng tạo, việc tra cứu, khai thác, và
cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu về sáng
chế, thông tin công nghệ, kết quả nghiên cứu
được miễn phí16. Nhìn chung, cơ chế thực
hiện các biện pháp hỗ trợ về khoa học, kỹ
thuật và chuyển giao công nghệ được thực
hiện chủ yếu bằng các Chương trình do Bộ
Khoa học và Công nghệ thực hiện như
Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia
được quy định trong Luật Chuyển giao công
nghệ năm 2006.
Hỗ trợ phát triển thị trường là sự hỗ
trợ để giải quyết khó khăn về thị trường sản
phẩm đầu ra cho các doanh nghiệp với việc
tổ chức và thực hiện Chương trình xúc tiến
thương mại quốc gia do Bộ Công thương phụ
trách thực hiện. Chương trình này gồm các
hoạt động xúc tiến thương mại như thu thập
thông tin về thị trường, khách hàng và hàng
hoá; xây dựng cơ sở dữ liệu các thị trường
xuất khẩu; tìm kiếm thị trường xuất khẩu; tổ
chức gian hàng hội chợ, triển lãm hàng hoá;
tổ chức hội nghị quốc tế ngành hàng xuất
khẩu tại Việt Nam; quảng bá thương hiệu
hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam những
hoạt động này được thực hiện theo quy định
tại Luật Quản lý ngoại thương năm 2017. Để
hỗ trợ phát triển thị trường trong nước, cuộc
vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam” đã được vận động trên toàn
quốc. Nhà nước cũng khuyến khích các tổ
chức, cá nhân chủ động thực hiện các hoạt
động xúc tiến thương mại trong nước và nước
ngoài theo quy định của Luật Thương mại
năm 2005. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa
cũng nhận được sự hỗ trợ phát triển thị trường
thông qua việc tham gia chuỗi phân phối sản
phẩm do cơ quan nhà nước hỗ trợ thiết lập.
Các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu
nhỏ còn được ưu tiên lựa chọn nhà thầu khi
tham gia đấu thầu thực hiện các hợp đồng với
Nhà nước. Các dự án nông nghiệp17 thuộc
trường hợp đặc biệt ưu đãi được hỗ trợ 50%
chi phí quảng cáo, kinh phí tham gia triển
15 Xem Luật số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013 về Khoa học và công nghệ.
16 Xem Nghị định số 11/2014/NĐ-CP ngày 18/2/2014 của Chính phủ về hoạt động thông tin khoa học và
công nghệ và Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
17 Xem Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, tlđd.
Số 1(401) - T1/202040 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
lãm hội chợ trong nước và phí tiếp cận thông
tin thị trường và phí dịch vụ từ cơ quan xúc
tiến thương mại của Nhà nước.
Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển cũng
được quy định tại Luật Khoa học và công
nghệ năm 2013. Nhà nước thực hiện hình
thức hỗ trợ nghiên cứu và phát triển cho các
doanh nghiệp, dự án đầu tư bằng cách đảm
bảo năng lực nghiên cứu và phát triển của các
tổ chức khoa học và công nghệ; đồng thời
xây dựng, phát triển được thị trường khoa
học và công nghệ. Cơ chế thực hiện hình
thức hỗ trợ này bao gồm việc Nhà nước đặt
hàng, giao nhiệm vụ khoa học, công nghệ; ưu
đãi, hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học,
công nghệ đối với các tổ chức khoa học và
công nghệ, các cá nhân hoạt động khoa học
và công nghệ. Ngoài ra, để tăng cường năng
lực nghiên cứu trong nước, Luật này cũng
đưa ra quy định về hội nhập quốc tế trong
nghiên cứu và phát triển; và quy định về việc
sử dụng ngân sách nhà nước mua sáng chế,
thiết kế, tài liệu kỹ thuật, bí quyết công nghệ
để phục vụ nghiên cứu và phát triển; phát
triển thị trường khoa học và công nghệ.
Như vậy, các hình thức hỗ trợ đầu tư ở
Việt Nam hiện nay rất đa dạng, đã bao quát
để giải quyết những khó khăn chủ yếu mà
các dự án đầu tư có thể gặp phải, từ những
khó khăn do thiếu vốn, khó tiếp cận mặt
bằng sản xuất kinh doanh, khó khăn do cơ
sở hạ tầng thiếu và không đồng bộ, khó khăn
về nguồn lao động chất lượng phù hợp; đến
những khó khăn trong tiếp cận các thông tin
chính sách pháp luật và thông tin thị
trường Việc thực hiện các hỗ trợ đầu tư sẽ
tạo ra những thuận lợi cho hoạt động của các
doanh nghiệp, các dự án, đồng thời còn giúp
các nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí cho
hoạt động đầu tư của mình. Do đó, pháp luật
về hỗ trợ đầu tư hiện nay có khả năng tăng
cường thu hút vốn đầu tư. Bên cạnh đó,
những quy định hỗ trợ đầu tư hiện nay đã
bao gồm những hỗ trợ về nghiên cứu và phát
triển, khoa học, kỹ thuật cũng như hỗ trợ về
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ
phát triển thị trường, đây cũng chính là
những hình thức hỗ trợ có thể giúp gia tăng
năng suất lao động và năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp như đã phân tích ở
phần 3. Như vậy, pháp luật về hỗ trợ đầu tư
ở Việt Nam hiện nay đã hướng tới việc tạo
ra những điều kiện để Việt Nam thành công
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy
vậy, những quy định về hỗ trợ đầu tư này còn
có hạn chế, đặc biệt là những hạn chế trong
cơ chế thực hiện hỗ trợ khiến chúng chưa
phát huy được tác động mong muốn đối với
việc nâng cao năng lực cạnh tranh và năng
suất lao động của các doanh nghiệp.
4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
về hỗ trợ đầu tư tại Việt Nam
Pháp luật về hỗ trợ đầu tư tại Việt Nam
hiện nay quy định nhiều hình thức hỗ trợ đầu
tư nhưng không phải hình thức nào cũng có
tác động trực tiếp và có hiệu quả cao trong
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp và nâng cao năng suất lao động, ví
dụ như các hỗ trợ xây dựng, phát triển hệ
thống hạ tầng kỹ thuật – xã hội, hỗ trợ tiếp
cận mặt bằng sản xuất, hơn nữa chi phí đầu
tư cho hạ tầng kỹ thuật đòi hỏi rất cao. Vậy,
hoàn thiện pháp luật hỗ trợ đầu tư gắn với
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở Việt Nam
cần tập trung vào hoàn thiện các quy định về
hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ khoa học, kỹ thuật, hỗ
trợ nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ phát triển
thị trường, hỗ trợ tín dụng.
Về hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực, các biện pháp hỗ trợ đào tạo nâng
cao tay nghề, nâng cao trình độ quản trị sản
xuất, kinh doanh hiện nay đã được đưa ra và
áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
và các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông
nghiệp, phát triển nông thôn. Nên bổ sung
thêm biện pháp hỗ trợ đào tạo về kiến thức
kỹ thuật để nâng cao khả năng tiếp cận, sử
dụng kỹ thuật và công nghệ mới cho các
doanh nghiệp, việc hỗ trợ đào tạo này sẽ tạo
ra cơ sở thuận lợi để việc hỗ trợ khoa học,
kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, và hỗ trợ
nghiên cứu, phát triển được triển khai hiệu
quả hơn. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ đào tạo
về quản trị sản xuất, kinh doanh cũng không
nên chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ cho nhóm
doanh nghiệp nhỏ và vừa mà cần thiết phải
hỗ trợ cho tất cả các doanh nghiệp trong
nước. Có thể thực hiện hỗ trợ đào tạo quản
trị sản xuất, kinh doanh cho các doanh
nghiệp trong nước thông qua các hội thảo
để giới thiệu mô hình quản trị hiệu quả, trao
đổi kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp
hoặc các khoá học chuyên sâu về quản trị
sản xuất, kinh doanh. Ngoài việc hỗ trợ đào
tạo trực tiếp để nâng cao năng lực nguồn
nhân lực đang làm việc ở các doanh nghiệp,
để phát triển nguồn nhân lực bền vững và
lâu dài, cũng phải chú trọng việc nâng cao
chất lượng của toàn thể hệ thống giáo dục
quốc dân, từ cấp tiểu học đến phổ thông
trung học, nhằm tạo ra một nền tảng kiến
thức cơ bản cho người lao động, song song
với việc nâng cao chất lượng của hệ thống
các cơ sở đào tạo nghề, cũng như chất lượng
đào tạo đại học.
Về hỗ trợ khoa học, kỹ thuật và chuyển
giao công nghệ, pháp luật trong lĩnh vực hỗ
trợ này cần bổ sung quy định xác định rõ
trách nhiệm hỗ trợ cung cấp thông tin khoa
học và công nghệ của các tổ chức dịch vụ
khoa học và công nghệ, trong đó giao nhiệm
vụ cho các tổ chức dịch vụ khoa học và công
nghệ công lập phải cung cấp thông tin miễn
phí, phải định kỳ tổ chức các hội nghị giới
thiệu thông tin về các công trình khoa học
kỹ thuật, các sản phẩm công nghệ mới trong
nước và trên thế giới cho các doanh nghiệp
trong nước, nhằm giúp các doanh nghiệp
tìm kiếm được giải pháp công nghệ, khoa
học phù hợp để áp dụng trong sản xuất, kinh
doanh, để nâng cao năng suất lao động. Về
hỗ trợ chuyển giao công nghệ, cần quy định
cụ thể đối với việc dùng ngân sách nhà nước
để mua công nghệ từ nước ngoài và phổ
biến công nghệ đó cho các doanh nghiệp
trong nước, đồng thời thúc đẩy việc chuyển
giao công nghệ giữa các tổ chức khoa học
cho các doanh nghiệp. Các tổ chức dịch vụ
khoa học và công nghệ công lập phải đóng
vai trò chính để đào tạo các kiến thức khoa
học, kỹ thuật nhằm giúp các doanh nghiệp
dễ dàng tiếp cận và sử dụng hiệu quả công
nghệ được chuyển giao. Song song với tăng
cường vai trò, trách nhiệm của tổ chức dịch
vụ khoa học và công nghệ công lập, pháp
luật trong lĩnh vực này cũng cần phải
khuyến khích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
của các tổ chức dịch vụ khoa học và công
nghệ ngoài công lập, cũng như các tổ chức
khoa học trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp
áp dụng khoa học, công nghệ vào hoạt động
sản xuất, kinh doanh.
Về hỗ trợ nghiên cứu và phát triển,
cần bổ sung các quy định của pháp luật để
thiết lập cơ chế kết nối và đẩy mạnh việc kết
nối giữa các doanh nghiệp có nhu cầu phát
triển công nghệ mới với các tổ chức khoa
học và công nghệ trong nước hoặc nước
ngoài, hợp tác trong nghiên cứu và phát
triển tạo ra những sản phẩm mới có giá trị
thương mại cao hoặc những công nghệ, kỹ
thuật mới có tính ứng dụng cao trong sản
xuất, kinh doanh.
Về hỗ trợ phát triển thị trường, bên
cạnh việc tiếp tục thực hiện tốt các hoạt động
xúc tiến thương mại, các quy định của pháp
luật trong lĩnh vực này cần thiết lập cơ chế
kết nối và thúc đẩy việc kết nối giữa các
doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở trong nước, giữa doanh nghiệp
trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài cùng ngành, lĩnh vực, để các bên
có thể chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về thị
trường, cũng có thể kết nối để các doanh
nghiệp này trở thành đối tác, khách hàng của
nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong chuỗi sản xuất,
tiêu thụ. Liên quan đến việc phát triển thị
trường, pháp luật cần hoàn thiện các quy định
về hỗ trợ cung cấp thông tin về thị trường,
xác định đầu mối cung cấp các thông tin, quy
định thống nhất cách thức cung cấp thông tin
cần thiết cho các doanh nghiệp, trong đó các
thông tin kinh tế - xã hội cần được chuẩn hoá
và công khai đầy đủ, để giúp các doanh
41Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
nghiệp dự đoán quy mô thị trường, xu hướng
phát triển thị trường, từ đó ra quyết định đầu
tư kinh doanh chính xác.
Về hỗ trợ tín dụng, đây là hình thức hỗ
trợ cần thiết để nâng cao năng lực cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vì sự thuận lợi
trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng sẽ
giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa gia tăng
quy mô sản xuất, cũng như có khả năng đổi
mới công nghệ sản xuất, đào tạo nhân lực từ
đó tăng cường năng suất lao động và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Như vậy,
hoàn thiện hình thức hỗ trợ tín dụng có tác
động tích cực trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước
ở Việt Nam. Cụ thể là cần hoàn thiện quy
định về hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa theo hướng: không chỉ tập trung
thẩm định năng lực hiện tại của doanh
nghiệp để đảm bảo thu hồi vốn vay, mà quá
trình xét duyệt hướng đến việc giúp đỡ các
doanh nghiệp này thiết lập được dự án kinh
doanh có tính khả thi, thông qua đó giúp
nâng cao năng lực quản lý và triển khai dự
án kinh doanh của các doanh nghiệp đó.
Điều đó góp phần giúp nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
Pháp luật hỗ trợ tín dụng cần được hoàn
thiện để khuyên khích, huy động các ngân
hàng thương mại và các cá nhân, tổ chức
tham gia vào việc hỗ trợ tín dụng cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, thậm chí có thể
quy định bắt buộc các ngân hàng thương mại
thực hiện hỗ trợ tín dụng với chỉ tiêu cụ thể.
Ngoài ra, ngân hàng nhà nước cần xác định
các mức lãi suất và thời hạn tín dụng khác
nhau cho từng trường hợp cho vay, nếu là
khoản tín dụng đề hình thành tài sản cố định
(như nhà xưởng, thiết bị máy móc và chuyển
giao công nghệ) của doanh nghiệp thì cần
quy định mức lãi suất thấp và thời hạn vay
dài hơn so với trường hợp tín dụng dành cho
vốn lưu động, như vậy vừa tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đổi mới
công nghệ, cũng như đảm bảo lợi ích của
phía ngân hàng cho vay.
Để đảm bảo phát huy hiệu quả của
việc hỗ trợ đầu tư, pháp luật về hỗ trợ đầu tư
nên hoàn thiện thêm ở một số vấn đề sau:
Một là cần đặt ra những yêu cầu về kết quả
kinh doanh phải đạt được đối với các doanh
nghiệp nhận được hỗ trợ, coi đó là điều kiện
để tiếp tục nhận được hỗ trợ khác, đó cũng
là cách để các doanh nghiệp phải tích cực và
nỗ lực sử dụng hiệu quả sự giúp đỡ, hỗ trợ
của Nhà nước. Hai là cần quy định phân cấp
trách nhiệm hỗ trợ đầu tư một cách cụ thể,
rõ ràng, phân cấp trách nhiệm thực hiện hỗ
trợ đầu tư cần gắn liền với phân cấp quản lý
dự án đầu tư để đảm bảo tính kịp thời, đúng
đối tượng và đảm bảo tính hiệu quả kinh tế
của hỗ trợ đầu tư, đồng thời cần xác lập cơ
chế giám sát thực hiện hỗ trợ đầu tư, để tránh
tạo ra sự tuỳ tiện trong việc áp dụng pháp
luật hỗ trợ đầu tư, và tránh hình thành lợi ích
nhóm từ việc trao quyền phê duyệt, quyết
định hỗ trợ đầu tư cho các cơ quan nhà nước.
Ba là cần xác định những lĩnh vực, ngành
kinh tế mà Việt Nam có thế mạnh để tập
trung nhiều nhất sự hỗ trợ cho các doanh
nghiệp trong nước hoạt động trong lĩnh vực
đó, nhưng cũng phải đảm bảo xây dựng môi
trường kinh doanh tự do, cạnh tranh bình
đẳng để tạo cơ hội cho tất cả các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt
động hiệu quả.
Như vậy, để hội nhập kinh tế quốc tế
thành công, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện
các chính sách phát triển kinh tế, trong đó có
pháp luật về hỗ trợ đầu tư. Pháp luật về hỗ
trợ đầu tư phải được hoàn thiện sao cho có
thể giúp tăng năng suất lao động và năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp, từ đó tăng
năng lực cạnh tranh quốc gia. Cụ thể, Việt
Nam cần phải tập trung hoàn thiện các quy
định về hỗ trợ trong lĩnh vực đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực, hỗ trợ khoa học, kỹ
thuật, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ
phát triển thị trường cũng như tiếp tục xây
dựng môi trường kinh doanh tự do, đảm bảo
sự cạnh tranh bình đẳng cho tất cả các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế n
Số 1(401) - T1/202042 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ho_tro_dau_tu_voi_viec_nang_cao_nang_luc_canh_tranh_de_hoi_n.pdf