Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh; khởi nghiệp sáng tạo và tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị

Đối tượng hỗ trợ của chương trình là các DNNVV thuộc CLKN được xác định là khâu yếu nhất trong chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực quốc gia. Thông qua các chính sách hỗ trợ cho đối tượng DNNVV thuộc cụm này sẽ tác động tích cực tới chuỗi, làm gia tăng giá trị vượt trội của sản phẩm (về giá cả, chất lượng), góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, của nền kinh tế. Nội dung hỗ trợ của chương trình bao gồm: đào tạo, nâng cao nhận thức và lợi ích về việc phát triển liên kết, hình thành CLKN; hỗ trợ tư vấn, thông tin về chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành cho các doanh nghiệp trong chuỗi, cụm . Cụ thể, Điều 19 Luật Hỗ trợ DNNVV quy định như sau: “1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị trong lĩnh vực sản xuất, chế biến được hỗ trợ nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: a) Tạo ra sản phẩm có lợi thế cạnh tranh về chất lượng và giá thành; b) Có đổi mới sáng tạo về quy trình công nghệ, vật liệu, linh kiện, máy móc, thiết bị. 2. Nội dung hỗ trợ bao gồm: a) Đào tạo chuyên sâu về công nghệ, kỹ thuật sản xuất; tư vấn về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng, chiến lược phát triển sản phẩm theo cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; b) Cung cấp thông tin về nhu cầu kết nối, sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; c) Hỗ trợ phát triển thương hiệu, mở rộng thị trường sản phẩm của cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; d) Hỗ trợ sản xuất thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; đ) Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách cấp bù lãi suất đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng”.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 163 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh; khởi nghiệp sáng tạo và tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 35 HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CHUYỂN ĐỔI TỪ HỘ KINH DOANH; KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO VÀ THAM GIA CỤM LIÊN KẾT NGÀNH, CHUỖI GIÁ TRỊ Nguyễn Thị Lệ Quyên1 Tóm tắt: Ngoài các nội dung hỗ trợ chung cho tất cả các DNNVV trong nền kinh tế (hỗ trợ tín dụng, thông tin tư vấn, đào tạo, mặt bằng sản xuất, thị trường), Luật Hỗ trợ DNNVV còn thiết kế các nội dung hỗ trợ theo mục tiêu, có trọng điểm, trong đó tập trung vào nhóm các DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh, DNNVV khởi nghiệp sáng tạo và DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Các DNNVV này ngoài việc hưởng các hỗ trợ chung từ Điều 8 đến Điều 15 còn được hưởng các hỗ trợ quy định từ Điều 15 đến Điều 20 nếu đáp ứng các tiêu chí, điều kiện quy định trong Luật. Bài viết này phân tích các biện pháp hỗ trợ theo mục tiêu. Từ khóa: Biện pháp hỗ trợ theo mục tiêu, Hộ kinh doanh, Khởi nghiệp sáng tạo, Cụm liên kết ngành, Chuỗi giá trị. Nhận bài: 01/8/2017; Hoàn thành biên tập:15/8/2017; Duyệt đăng: 05/9/2017 Abstract: Besides general support for all SMEs in the economy (support of fund, consultancy information, training, place of production, market), the Law on Supporting SMEs designs contents of support under items, main points in the way of changing growth model and economic restructure, focusing on group of SMEs transformed from household doing business, SMEs with creative start-up and SMEs taking part in intersector cluster, chain of value. These SMEs, besides enjoying general support from article 8 to article 15 will enjoy supports regulated from article 15 to article 20 if they meet criteria, conditions regulated in the law. This article analyzes methods of support under items. Keywords: method of support under items, household doing business, creative start up, intersector cluster, chain of value. Date of receiving: 01/8/2017; Date of editing:15/8/2017; Date of publish approval: 05/9/2017 1. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được chuyển đổi từ hộ kinh doanh Theo thống kê, tính đến cuối năm 2015, cả nước có khoảng 3,4 triệu hộ kinh doanh đã được cấp mã số thuế, trong đó có khoảng hơn 2 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo đánh giá chung, sở dĩ các hộ kinh doanh không muốn chuyển thành doanh nghiệp là vì đang được thực hiện cơ chế thuế khoán (quy định tại Thông tư số 92/2015/TT-BTC) là cơ chế đơn giản, dễ dàng hơn so với thủ tục đóng thuế khi trở thành doanh nghiệp; không phải đóng bảo hiểm cho người lao động Đây là khu vực kinh tế có tiềm năng, đóng góp lớn cho nền kinh tế. Nhà nước cần có các chính sách để khuyến khích đối tượng này từ khu vực kinh tế phi chính thức sang khu vực kinh tế chính thức, hạch toán minh bạch và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Nhận thức rõ vấn đề này, tại Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao thực hiện nhiệm vụ “Xây dựng cơ chế tạo điều kiện, hỗ trợ và khuyến khích hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi và đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp”. Do hiện tại các hộ kinh doanh hoạt động theo mô hình gia đình, quy trình, trình tự quản trị thiếu chuyên nghiệp, thiếu minh bạch, mang nặng tính truyền thống, dựa trên kinh nghiệm cá nhân là chính, do đó hiệu quả hoạt động chưa 1 Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 36 cao. Nhằm khuyến khích các hộ chuyển sang đăng ký hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, cần phải có chính sách hỗ trợ tư vấn miễn phí về hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp, miễn các lệ phí đăng ký doanh nghiệp, lệ phí môn bài trong một số năm đầu hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Ngoài ra, các hộ này khi chuyển đổi hoạt động theo mô hình doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ tư vấn, đào tạo miễn phí về thuế, kế toán, được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệpCụ thể, Điều 16 Luật Hỗ trợ DNNVVquy định như sau: “1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được hỗ trợ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Trước khi thành lập doanh nghiệp, hộ kinh doanh đã đăng ký và hoạt động theo quy định của pháp luật; b) Hộ kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục ít nhất là 01 năm tính đến ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu. 2. Nội dung hỗ trợ bao gồm: a) Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp; b) Miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp và phí cung cấp thông tin doanh nghiệp lần đầu; miễn phí thẩm định, phí, lệ phí cấp phép kinh doanh lần đầu đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; miễn lệ phí môn bài trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; c) Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về các thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; d) Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp; đ) Miễn, giảm tiền sử dụng đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai. 3. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần được thành lập trên cơ sở chuyển đổi từ hộ kinh doanh, chủ hộ kinh doanh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ chưa thanh toán của hộ kinh doanh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo quy định của pháp luật. 4. Hộ kinh doanh chấm dứt hoạt động kể từ thời điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”. 2. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo Như đã phân tích ở trên, Việt Nam đang chuyển đổi mô hình từ phát triển dựa vào các yếu tố mang tính chất sáng tạo của con người. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (hay còn gọi là startup), doanh nghiệp đổi mới sáng tạo đã và đang khẳng định tiềm năng phát triển trong thời gian gần đây. Doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV chính là nơi khởi nguồn đổi mới sáng tạo trong kinh doanh và cũng chính là cầu nối đưa các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ vào thực tiễn cuộc sống. Năng lực cạnh tranh quốc gia nằm ở chính doanh nghiệp và được thể hiện qua khả năng cạnh tranh về chất lượng và giá cả của sản phẩm. Sự khác biệt về chất lượng và giá cả sản phẩm đến từ chính năng lực sáng tạo của các doanh nghiệp, trong đó yếu tố công nghệ là then chốt. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã làm chủ được công nghệ và sản xuất thành công những sản phẩm đổi mới sáng tạo có giá trị kinh tế lớn, giúp giải quyết các thách thức quốc gia về năng lượng và môi trường. Xuất phát từ những lý do nêu trên, nội dung hỗ trợ DNNVV đổi mới sáng tạo được thiết kế nhằm thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trên cơ sở hình thành và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo bền vững và thân thiện; qua đó, khuyến khích các DNNVV hiện thực hóa các ý tưởng mới, phát triển và thương mại hóa sản phẩm có tính sáng tạo, ứng dụng cao, ưu việt về giá cả và chất lượng, tạo giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 37 tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Nội dung hỗ trợ chủ yếu đối hoạt động này bao gồm: Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại các cơ sở kỹ thuật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ tham gia các cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung dành cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ, thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn đo lường chất lượng; hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạocụ thể Điều 17 Luật Hỗ trợ DNNVV quy định: “1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được hỗ trợ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Có thời gian hoạt động không quá 05 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; b) Chưa thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối với công ty cổ phần. 2. Nội dung hỗ trợ bao gồm: a) Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung; hướng dẫn thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới; b) Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng; c) Hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo; d) Hỗ trợ thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ; đ) Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách cấp bù lãi suất đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng”. Để có thể khởi nghiệp thành công thì vấn đề vốn luôn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ một Start-up nào. Tuy nhiên, với bản chất rủi ro lớn của các Start-up thì các kênh huy động vốn truyền thống như vay vốn ngân hàng hầu như là không thể, vì vậy việc gọi vốn đầu tư cho Start- up là rất quan trọng. Đầu tư mạo hiểm vào Startup chính là cung cấp nguồn lực để nuôi dưỡng thành công các ý tưởng đổi mới sáng tạo. Chính vì đặc thù đó, trên thế giới, Chính phủ các nước thường có chính sách khuyến khích thành lập các tổ chức đầu tư cho khởi nghiệp, đưa ra các chính sách hỗ trợ hoạt động đầu tư cho khởi nghiệp; hỗ trợ miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp khởi nghiệp; hỗ trợ vốn mồi, vốn đối ứng, hoặc cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp nhằm giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư tư nhân. Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam thường huy động vốn từ các nhà đầu tư cá nhân, tổ chức chuyên đầu tư vào khởi nghiệp, thậm chí đầu tư vào các cá nhân/ nhóm cá nhân chưa thành lập doanh nghiệp mà mới chỉ đang phát triển sản phẩm, dịch vụ. Các khoản đầu tư này không lớn, khoảng từ 5.000 - 50.000 USD thông qua hình thức cùng thành lập, hoặc góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp khởi nghiệp, và nhà đầu tư có vai trò như một cổ đông; thành viên góp vốn theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Qua khảo sát thực tiễn cho thấy, hiện có nhiều nhà đầu tư cá nhân trong và ngoài nước có nhu cầu góp vốn hình thành quỹ đầu tư khởi nghiệp. Tuy nhiên, do thị trường đầu tư khởi nghiệp ở Việt Nam còn khá mới mẻ, khung pháp lý và các chính sách thuế hiện tại chưa đủ để có thể khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư cho khởi nghiệp. Vì vậy, nhằm tạo tiền đề cho các hoạt động đầu tư khởi nghiệp, Luật quy định khuyến khích khu vực tư nhân hình thành các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo bằng nguồn vốn của tư nhân để đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Ngoài ra, học hỏi kinh nghiệm một số nước như Singapore, Mỹ, Isarel, Ấn Độ, Luật quy HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 38 định các địa phương tuỳ theo điều kiện của mình có thể tham gia cùng với các quỹ đầu tư khởi nghiệp của tư nhân với tính chất như nguồn vốn mồi để đầu tư vào các DNNVV khởi nghiệp sáng tạo, đưa các ý tưởng, sản phẩm, mô hình kinh doanh mới độc đáo ra thị trường để đón đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo của khu vực tư nhân được hình thành từ vốn góp hợp pháp của các nhà đầu tư với mục đích đầu tư vào các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân khởi nghiệp đổi mới sáng tạo theo quy định của Luật này và theo điều lệ tổ chức và hoạt động của quỹ. Ngoài ra, bên cạnh mặt bằng sản xuất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cụm công nghiệp, hiện nay, nhiều nhà đầu tư đã thực hiện đầu tư kinh doanh các khu làm việc chung (co-working space) để tạo không gian làm việc chung cho các DNNVV, đặc biệt là các doanh nghiệp mới khởi sự, quy mô hoạt động còn nhỏ, số lượng nhân sự chưa nhiều nên nhu cầu sử dụng mặt bằng chưa lớn. Tuy nhiên, các DNNVV, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ lại cần một không gian sáng tạo với những tiện ích riêng biệt đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp này. Mô hình các khu làm việc chung như Dreamplex, Saigon Work, Saigon Coworking, Toong, v.v hiện nay đang thu hút rất nhiều các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp mới khởi nghiệp. Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư kinh doanh các khu làm việc chung và cơ sở ươm tạo cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, Luật Hỗ trợ DNNVV đưa ra các chính sách hỗ trợ cụ thể đối với các nhà đầu tư khu làm việc chung và cơ sở ươm tạo cho doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Điều 18 Luật Hỗ trợ DNNVV quy định về Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo với một số nội dung chủ yếu sau đây: “1. Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được hình thành từ vốn góp của các nhà đầu tư để đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. 2. Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo đầu tư thông qua hình thức góp vốn thành lập, mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo nhưng không quá 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp sau khi nhận đầu tư. 3. Nhà đầu tư tư nhân góp vốn vào quỹ phải có điều kiện tài chính và chịu trách nhiệm về vốn góp của mình, không vi phạm pháp luật. 4. Căn cứ điều kiện ngân sách, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định tham gia cùng quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo để đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách địa phương không quá 30% tổng vốn đầu tư mà doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo huy động được từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được lựa chọn và phải chuyển nhượng vốn đầu tư cho nhà đầu tư tư nhân trong thời hạn 05 năm kể từ thời điểm góp vốn đầu tư”. 3. Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị Hiện nay, một trong những hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam khiến các nhà hoạch định chính sách đau đầu là mối liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam, trong khi đây lại là điều cốt yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh và đổi mới công nghệ. Đặc biệt, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp sản xuất với các cơ sở khoa học, công nghệ, đào tạo; để nâng cao sức cạnh tranh, từng bước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trước yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, áp lực hội nhập với những luật chơi mới trong thời gian tới đòi hỏi phải cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi giá trị, chuyển dịch lên mắt xích có giá trị gia tăng cao hơn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong giai đoạn đầu, để thúc đẩy hình thành các cụm liên kết ngành (CLKN) cần thực hiện các hoạt động chung nhằm xây dựng lòng tin và sự gắn kết giữa các doanh nghiệp “tiềm năng” của CLKN. Tại Việt Nam, trong giai đoạn 2009-2012, với sự hỗ trợ của Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) đã triển khai thí điểm Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 39 Dự án “Phát triển CLKN”. Quá trình triển khai thí điểm Dự án này khẳng định thêm luận điểm “Xây dựng lòng tin” là bước căn bản để thúc đẩy hình thành mô hình các CLKN ở Việt Nam. “Xây dựng lòng tin” được bắt đầu bởi những hành động chung, mang tính nhóm, thông qua các hoạt động thực tiễn như đào tạo, tư vấn, nâng cao nhận thức, phát triển thương hiệu, các ưu đãi gián tiếp khác như thuế, thủ tục hải quan từ đó, lòng tin và cơ hội chia sẻ thông tin được hình thành và gia tăng khả năng tương tác giữa các doanh nghiệp tiềm năng của cụm. Tiếp theo, lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau gia tăng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp (tổ chức trong cụm) tìm kiếm các cơ hội phối hợp, hợp tác nhằm khai thác những lợi ích từ các mối quan hệ có được dựa trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi bổ trợ cho nhau, hợp tác dựa trên nguyên tắc cạnh tranh cùng phát triển. Mục tiêu của nội dung hỗ trợ này trong Luật Hỗ trợ DNNVV là nhằm thúc đẩy hình thành liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp và các tổ chức khác nhằm giúp doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, hình thành và phát triển các CLKN sản phẩm có lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, tạo ra chuỗi giá trị gia tăng cao và bền vững cho các sản phẩm chủ lực quốc gia, khắc phục được tính nhỏ lẻ, thiếu liên kết, rời rạc của các DNNVV. Đối tượng hỗ trợ của chương trình là các DNNVV thuộc CLKN được xác định là khâu yếu nhất trong chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực quốc gia. Thông qua các chính sách hỗ trợ cho đối tượng DNNVV thuộc cụm này sẽ tác động tích cực tới chuỗi, làm gia tăng giá trị vượt trội của sản phẩm (về giá cả, chất lượng), góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, của nền kinh tế. Nội dung hỗ trợ của chương trình bao gồm: đào tạo, nâng cao nhận thức và lợi ích về việc phát triển liên kết, hình thành CLKN; hỗ trợ tư vấn, thông tin về chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành cho các doanh nghiệp trong chuỗi, cụm. Cụ thể, Điều 19 Luật Hỗ trợ DNNVV quy định như sau: “1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị trong lĩnh vực sản xuất, chế biến được hỗ trợ nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: a) Tạo ra sản phẩm có lợi thế cạnh tranh về chất lượng và giá thành; b) Có đổi mới sáng tạo về quy trình công nghệ, vật liệu, linh kiện, máy móc, thiết bị. 2. Nội dung hỗ trợ bao gồm: a) Đào tạo chuyên sâu về công nghệ, kỹ thuật sản xuất; tư vấn về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng, chiến lược phát triển sản phẩm theo cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; b) Cung cấp thông tin về nhu cầu kết nối, sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; c) Hỗ trợ phát triển thương hiệu, mở rộng thị trường sản phẩm của cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; d) Hỗ trợ sản xuất thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; đ) Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách cấp bù lãi suất đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng”. Kết luận: Thứ nhất, Luật Hỗ trợ DNNVV đã dành một phần rất quan trọng “Mục 2 Chương II” để ghi nhận các biện pháp hỗ trợ mang tính đặc thù riêng cho một số DNNVV hoạt động trong một số lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh mà Nhà nước cần khuyến khích phát triển. Đây có thể được coi là một thành công rất lớn của Luật này. Thứ hai, cũng như phần quy định về các biện pháp hỗ trợ chung (mục 1 Chương II) các biệp pháp hỗ trợ riêng cũng còn mang tính chất chung, chưa có tính cụ thể. Điều này, tuy không đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của các DNNVV nhưng lại phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, đặc biệt là tình hình tài chính hiện nay của Nhà nước ta. (Xem tiếp trang 45)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfho_tro_doanh_nghiep_nho_va_vua_chuyen_doi_tu_ho_kinh_doanh_k.pdf
Tài liệu liên quan