Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp - Một nội dung quan trọng trong luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, tổ chức, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các hoạt động sau đây để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa: a) Xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật; b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý để cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tư vấn pháp luật”. Trên cơ sở khoản 3 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Tư pháp cần đánh giá kết quả triển khai Nghị định số 66/2008/NĐ- CP của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để đề xuất, sửa đổi, bổ sung Nghị định này. Đồng thời, Bộ Tài chính cần phối hợp với Bộ Tư pháp nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 12/10/2010 về hướng dẫn lập dự toán, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để hướng phù hợp với thực tiễn triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực, trong đó, không còn hình thức văn bản Thông tư liên tịch mà phải ban hành dưới hình thức Thông tư hướng dẫn lập dự toán, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 171 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp - Một nội dung quan trọng trong luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 40 HỖ TRỢ PHÁP LÝ CHO DOANH NGHIỆP - MỘT NỘI DUNG QUAN TRỌNG TRONG LUẬT HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Nguyễn Thanh Tú1 Trần Minh Sơn2 Tóm tắt: Một trong những vấn đề quan trọng mà Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là phải giải quyết là vấn đề hỗ trợ pháp lý cho DNNVV. Trong thời gian qua, mặc dù không ít người cho rằng, không nên ghi nhận vấn đề này trong Luật nhưng cuối cùng, Quốc Hội đã thông qua Luật Hỗ trợ DNNVV trong đó ghi nhận 7 nhóm biện pháp cho doanh nghiệp, trong số đó có hỗ trợ pháp lý (Điều 14). Bài viết này góp phần trả lời cho câu hỏi tại sao Quốc Hội lại quyết định như vậy. Từ khóa: Nội dung hỗ trợ, Hỗ trợ pháp lý, Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành, phương án ghi nhận. Nhận bài: 01/8/2017; Hoàn thành biên tập: 15/8/2017; Duyệt đăng: 05/9/2017 Abstract: One of the most important issues of the Law on supporting SMEs is solving issues relating to support content. Over the past years, though there have been opinions that this issue should not be recognized in the the Law but finally, the National Assembly has approved the Law on Supporting SMEs recognizing 7 groups of methods for enterprises including lega support (Article 14). This article clarifies decision made by the National Assembly. Keywords: support content, legal support, inter- sectoral program of legal support, realized plan. Date of receiving: 01/8/2017; Date of editing: 15/8/2017; Date of publish approval: 05/9/2017 1. Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp – một nhiệm vụ quan trọng đã được Nhà nước ta thực hiện từ trước khi ban hành Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Trong suốt 30 năm qua, để tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa hình thành và phát triển, Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách mới, mang tính đột phá mà trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch tập trung chưa thể có được. Về cơ bản, các cơ chế, chính sách này là toàn diện, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp gia nhập thị trường, hoạt động có hiệu quả trên thị trường, cũng như trong giai đoạn rút khỏi thị trường. Sau đây là một số ví dụ chứng minh cho nỗ lực này của Nhà nước ta: năm 2016, Chính phủ đã ban hành một loạt các Chương trình/Quỹ hỗ trợ cho doanh nghiệp, trong đó phải kể đến là: “Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa” thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư với nguồn vốn là 2.000 tỷ đồng, triển khai năm 2016 là 560 tỷ đồng. Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” được phê duyệt theo Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ với tổng đầu tư đề án ước tính khoảng 2.000 tỷ đồng; Chính phủ ban hành một loạt các Nghị quyết về hỗ trợ doanh nghiệp như: Nghị quyết số 35/NQ- CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06 tháng 2 năm 2017 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020 1Tiến sĩ, Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp. 2Thạc sĩ, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Tư vấn pháp luật và Bồi dưỡng nghiệp vụ, Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp, Bộ Tư pháp. Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 41 Xuất phát từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp cũng như những bài học đắt giá mà các doanh nghiệp Việt Nam phải trả trong thực tiễn tranh chấp thương mại quốc tế, nhằm nâng cao tri thức pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật của giới doanh nhân, những năm gần đây, Chính phủ đã có sự quan tâm đặc biệt đến một nhu cầu thiết yếu của các doanh nghiệp, đó là nhu cầu về việc hỗ trợ pháp lý. Chính vì vậy, ngày 28 tháng 5 năm 2008 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (viết tắt là Nghị định số 66/2008/NĐ-CP). Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05 tháng 5 năm 2010 phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2014 (viết tắt là Chương trình 585)3. Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT/BTC-BTP ngày 12 tháng 10 năm 2010 hướng dẫn lập dự toán, thực hiện và thanh quyết toán kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (viết tắt là Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT/BTC- BTP). Một loạt các Chương trình hỗ trợ pháp lý trong phạm vi ngành, địa phương do các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã được ban hành nhằm thực hiện chủ trương nêu trên của Chính phủ4. Theo các văn bản pháp luật nêu trên thì hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là việc Nhà nước là việc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện các hoạt động do pháp luật quy định một cách miễn phí, nhằm nâng cao kiến thức pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật của doanh nghiệp. Góp phần bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong kinh doanh, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các quy định về hỗ trợ pháp lý hiện hành cho doanh nghiệp trong thời gian qua đã phần nào đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp. Tuy nhiên, qua 09 năm triển khai thực hiện Nghị định số 66/2008/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTC-BTP và các Chương trình hỗ trợ pháp lý cụ thể cho doanh nghiệp (Ví dụ Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số 585 nêu trên), cho thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì cũng bộc lộ không ít hạn chế, bất cập, vướng mắc, khó khăn, cần phải được nghiên cứu, khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở nước ta. Như vậy, trước khi ban hành Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thì ở nước ta đã tồn tại một chế định pháp luật đặc thù, đó là chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mà nòng cốt của nó là Nghị định 66/2008/ NĐ-CP. 2. Sự cần thiết phải đưa việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp vào nội dung của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Dự thảo Luật Hỗ trợ DNNVV do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì soạn thảo. Ngày 01 tháng 10 năm 2016, Chính phủ có Tờ trình số 386/TTr-CP gửi Quốc Hội về dự án Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi là dự án Luật) gồm 6 chương với 45 điều quy định về những vấn đề chung; các nội dung hỗ trợ cơ bản DNNVV; chương trình hỗ trợ trọng tâm DNNVV; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm hỗ trợ DNNVV của cơ quan, tổ chức, cá nhân; ngân sách, cơ chế phối hợp, giám sát và đánh giá hỗ trợ DNNVV và các điều khoản thi hành. Khoản 3 Điều 16 dự thảo Luật kèm theo Tờ trình Chính phủ quy định: “Nhà nước hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm nâng cao nhận thức pháp lý, ý thức pháp luật và thói quen tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp; tạo lập các điều kiện cần thiết phục vụ 3 Ngày 28 tháng 11 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2139/QĐ-TTg về việc điều chỉnh các dự án và tiếp tục thực hiện Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2014. 4 Theo Báo cáo tổng kết năm 2016 về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của Bộ Tư pháp số 42/BTP- PLDSKT ký ngày 10 tháng 2 năm 2017 thì đã có 12 Bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành Kế hoạch/Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 42 hoạt động thực thi pháp luật để giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả; phòng chống rủi ro pháp lý và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; góp phần nâng cao công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp”. Tuy nhiên, trong quá trình hoàn thiện dự thảo Luật này, đã có ý kiến cho rằng, không nên quy định chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong dự thảo Luật. Mặc dù vậy, cuối cùng thì Quốc Hội đã quyết định giữ lại nội dung này trong Luật Hỗ trợ DNNVV vì các lý do cơ bản như sau: Thứ nhất, thực tế cho thấy, một trong những điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là sự thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức pháp luật và điều này đã dẫn tới những thiệt hại không đáng có trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay. Kinh doanh là hoạt động mang tính tổng hợp. Thành công trong kinh doanh là do nhiều yếu tố quyết định, trong số các yếu tố đó thì yếu tố hiểu biết pháp luật đang ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình. Như vậy, sự hiểu biết pháp luật đã trở thành một đòi hỏi không thể thiếu được trong kinh doanh hiện nay. Các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp hoạt động tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn lại không có điều kiện để tự mình có thể nâng cao kiến thức pháp lý cho cán bộ, nhân viên của mình. Trong hoàn cảnh như vậy, Nhà nước phải có sự trợ giúp cho họ thông qua hoạt động hỗ trợ pháp lý của mình. Ngoài ra, Báo cáo của Bộ Tư pháp năm 2016 cho thấy, việc xây dựng và vận hành các trang thông tin, cơ sở dữ liệu pháp luật phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp tại các Bộ, ngành và địa phương vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Việc doanh nghiệp tiếp cận thông tin pháp lý vẫn còn gặp nhiều khó khăn: gần 60% doanh nghiệp được hỏi có ý kiến về việc khó tiếp cận thông tin pháp lý liên quan đến các biểu mẫu, thủ tục hành chính cho doanh nghiệp; gần 70% doanh nghiệp có ý kiến cho rằng, khó tiếp cận thông tin pháp lý liên quan đến quy định tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và gần 80% doanh nghiệp có than phiền về việc khó tiếp cận thông tin pháp lý liên quan đến kế hoạch và quy hoạch5. Chỉ số PCI năm 2016 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) được công bố ngày 14 tháng 3 năm 2017 tại Hà Nội cho thấy, việc thực hiện thủ tục hành chính và thủ tục pháp lý là khó khăn lớn thứ 4 mà doanh nghiệp gặp phải trong tổng thể 10 khó khăn lớn của doanh nghiệp trong năm 2016 (như tìm kiếm khách hàng; tìm kiếm nguồn vốn; tìm kiến nhân sự thích hợp; thực hiện các thủ tục hành chính, pháp lý). Ngoài ra, chỉ số PCI năm 2016 cũng cho thấy, doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ cũng ít sử dụng tư vấn pháp luật hơn do thiếu các nguồn lực để thuê các dịch vụ tư vấn pháp lý cho mình. Thứ hai, trong quá trình soạn thảo Luật Hỗ trợ DNNVV, các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp thuộc Bộ Tư pháp... nhiều tổ chức, cá nhân khác đã kiến nghị đưa chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp vào dự thảo Luật. Đặc biệt là, Hội đồng thẩm định dự án Luật6 gồm đại diện các Bộ, ngành ở Trung ương, các chuyên gia, các nhà khoa học cũng đã thống nhất quan điểm, theo đó, cần phải coi hỗ trợ pháp lý là một hoạt động độc lập, không thể thiếu trong hệ thống các hoạt động mà Nhà nước cần thực hiện nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tóm lại, rất nhiều cơ quan, tổ chức thuộc chính phủ cũng như giới doanh nghiệp đã nhất trí coi hỗ trợ pháp lý là một bộ phận cấu thành của nội dung khái niệm hỗ trợ cho doanh 5 Theo Báo cáo tổng kết năm 2016 về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của Bộ Tư pháp số 42/BTP-PLDSKT ký ngày 10 tháng 2 năm 2017. Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 43 nghiệp nhỏ và vừa. Vì vậy, không thể không có chế định hỗ trợ pháp lý trong Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thứ ba, cần đưa hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp vào Luật Hỗ trợ DNNVV để tiếp tục ghi nhận và nâng cao hơn nữa tầm quan trọng của chính sách này đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các nội dung hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã được Chính phủ quy định tại Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và được thực hiện bước đầu có hiệu quả trên thực tế, nhất là thông qua Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kèm theo Quyết định số 585/QĐ- TTg ngày 05 tháng 5 năm 2010 (giai đoạn 2010-2014) và Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 28 tháng 11 năm 2014 (giai đoạn 2015- 2020). Hiện nay, theo thống kê, có 12 bộ, ngành và hầu hết các địa phương đã ban hành Kế hoạch/Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và thực hiện có hiệu quả công tác này trên thực tế, nhận được sự phản hồi tích cực từ cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, nhất là đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Như vậy, việc đưa nội dung hỗ trợ pháp lý vào Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là nhằm luật hóa các quy định pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã được thực hiện trong thời gian qua nhưng dưới những hình thức pháp lý thấp như Nghị định và Thông tư liên tịch. Các quy định này trong Luật, dù là ít ỏi nhưng sẽ làm cơ sở pháp lý quan trọng, có tính chất nền tảng cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản dưới luật cũng như cho việc triển khai một cách có hiệu quả cơ chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam trong thời gian tới. Thứ tư, việc Luật hóa trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ pháp lý cho DNNVV là phù hợp với xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hiện nay có hai quan điểm khác nhau về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quan điểm thứ nhất, (của một số quốc gia như Đài Loan, Singapore, Úc) cho rằng, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực, các quốc gia đa số là thành viên của các tổ chức quốc tế, tham gia ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương, trong đó thể hiện rõ sự tôn trọng đối với cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, vì vậy, mọi hình thức hỗ trợ, trong đó có hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đều không thuộc trách nhiệm, nghĩa vụ của quốc gia. Như vậy, theo quan điểm này thì doanh nghiệp phải tự tìm hiểu, trang bị kiến thức pháp luật và khi có vấn đề pháp lý xảy ra trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thì phải chủ động tìm tới các văn phòng luật sư, công ty luật để ký hợp đồng dịch vụ pháp lý, qua đó mà giải quyết các tranh chấp, vướng mắc của mình. Quan điểm thứ hai, (của các quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Thái Lan, Cộng hòa Liên Bang Nga) lại cho rằng, Nhà nước cần coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là đối tượng phục vụ của mình, vì vậy, song song với những hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, khoa học công nghệ, khởi nghiệp doanh nghiệp, Nhà nước cần phải hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp này dưới nhiều hình thức khác nhau, với các nội dung khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mình. Tại Cộng hòa Pháp, năm 1978 đã ban hành Luật số 78-753 quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm trả lời chính xác mọi câu hỏi của cá nhân và doanh nghiệp có liên quan đến các quy định pháp luật7. Tại nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan... bên cạnh việc 6Dự thảo Luật đã được Hội đồng thẩm định do Bộ Tư pháp chủ trì tiến hành thẩm định và có Báo cáo thẩm định dự án Luật số 223/BC-HĐTĐ ngày 19/8/2016. Cơ quan chủ trì soạn thảo đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Hội đồng thẩm định, chỉnh lý dự thảo Luật. 7 Nguồn: Báo cáo của Chương trình hỗ trợ kỹ thuật của EC cho Việt Nam (ETV2) tại Hội thảo: “Kinh nghiệm một số nước về trợ giúp pháp luật cho doanh nghiệp và nghiên cứu vận dụng tại Bộ Tài chính” ngày 15/11/2007. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 44 hỗ trợ trực tiếp về tài chính, kỹ thuật, cơ chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đang được vận hành hiệu quả, đặt trọng tâm vào các giải pháp phòng tránh rủi ro pháp lý trong kinh doanh, hỗ trợ cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, qua đó giúp doanh nghiệp tại các quốc gia này tránh được những thua thiệt không đáng có, ngày càng khẳng định vị thế không chỉ tại thị trường nội địa mà còn cả trên thị trường quốc tế. Nhìn nhận một cách tổng quan về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây cho thấy, Đảng và Nhà nước ta đã chuyển doanh nghiệp từ đối tượng quản lý sang đối tượng phục vụ. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận những đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế nước ta8. Hiến pháp cũng đã ghi nhận các quyền tự do trong sản xuất, kinh doanh của doanh nhân (khoản 3 Điều 51 Hiến pháp năm 2013). Lần đầu tiên trong lịch sử hành pháp,Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định lấy ngày 13/10 hàng năm làm ngày doanh nhân Việt Nam. Vừa qua, Chính phủ đã ban hành một loạt các Nghị quyết để hỗ trợ doanh nghiệp như: Nghị quyết số 35/NQ- CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06 tháng 2 năm 2017 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020. Tất cả những việc làm trên của Đảng, Nhà nước ta cho thấy, Việt Nam đang thi hành một chính sách hỗ trợ tương tự như đa số các nước trên thế giới đã làm theo hướng, việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là cần thiết nhưng chỉ tập trung vào nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa - đối tượng có sự thiếu hụt về kiến thức pháp luật, năng lực cạnh tranh, cũng như về vốn, kỹ thuật, khoa học công nghệ Thứ năm, hiện nay, vai trò của các tổ chức đại diện của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, do đó rất cần sự tiếp sức của Nhà nước. Theo thống kê hiện nay của Bộ Nội vụ, Việt Nam có khoảng trên 300 hội có phạm vi hoạt động toàn quốc và hơn 2000 hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong số đó có 300 tổ chức là đại diện cho doanh nghiệp9. Các tổ chức này chủ yếu tập trung tại các trung tâm kinh tế lớn như thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hải Phòng. Chỉ riêng thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm hơn 42% trên tổng số các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp trên cả nước. Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay chỉ có hơn 30% tổ chức đại diện cho doanh nghiệp đang hoạt động tốt, số còn lại đang hoạt động cầm chừng và thực sự chưa phát huy hết vai trò của mình trong việc hỗ trợ pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các hội viên. Hiện nay, nhiều tổ chức đại diện cho doanh nghiệp đã đưa nhiệm vụ này thành nhiệm vụ hàng đầu và trọng tâm trong hoạt động của tổ chức mình như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp10, nhưng trên thực tế, hiệu quả hoạt động vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh. 8 Khoản 1 Điều 51 Hiếp pháp năm 2013 tuyên bố: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. 9 Báo cáo của Bộ Nội vụ về công tác hội năm 2016. 10 Sau khi có Nghị định số 66/2008/NĐ-CP nhiều tổ chức đại diện cho doanh nghiệp đã thành lập hoặc nâng cấp các đơn vị trực thuộc chuyên triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hội viên. Ví dụ: Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam có Trung tâm hỗ trợ pháp luật và phát triển nguồn nhân lực; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có Ban Pháp chế; Liên minh Hợp tác xã Việt Nam có Trung tâm tư vấn pháp luật; Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp có Trung tâm tư vấn pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 45 3. Nội dung chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Với những lý do nêu trên, việc ghi nhận cơ chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong Luật là rất cần thiết và quan trọng đối với cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. Vấn đề còn lại là ở chỗ nên quy định về hỗ trợ như thế nào trong Luật. Trong quá trình thực hiện công việc này đã có 2 phương án được nêu ra : + Phương án 1: Quy định một điều riêng về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và nội dung của điều luật này phải đáp ứng được hai yêu cầu đó là: (1) nêu rõ, cụ thể các hình thức (biện pháp) hỗ trợ cho doanh nghiệp như hỗ trợ về thông tin pháp lý; xây dựng tài liệu bồi dưỡng kiến thức pháp lý; giải đáp pháp luật; hỗ trợ DNNVV trong việc tham gia tố tụng dân sự, thương mại; tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp nhỏ và vừa về hoàn thiện pháp luật và xây dựng, thực hiện các Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và (2) là nêu rõ vai trò, ý nghĩa, tác dụng của hoạt động hỗ trợ pháp lý đối với các DNNVV. + Phương án 2: Không xây dựng một điều luật riêng mà chỉ cần một khoản của Điều 14 có tên gọi là Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý với nội dung gọn nhẹ, đơn giản để làm cơ sở pháp lý cho Chính Phủ hoàn thiện thêm cơ chế này trong một Nghị định riêng sẽ được ban hành để thay thế cho Nghị định 66/2008/NĐ- CP đã tỏ ra lỗi thời. Qua thảo luận, Quốc Hội đã quyết định giải quyết vấn đề này theo phương án 2 với nội dung cụ thể được quy định tại Khoản 3 Điều 14 như sau: “3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, tổ chức, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các hoạt động sau đây để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa: a) Xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật; b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý để cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tư vấn pháp luật”. Trên cơ sở khoản 3 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Tư pháp cần đánh giá kết quả triển khai Nghị định số 66/2008/NĐ- CP của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để đề xuất, sửa đổi, bổ sung Nghị định này. Đồng thời, Bộ Tài chính cần phối hợp với Bộ Tư pháp nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 12/10/2010 về hướng dẫn lập dự toán, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để hướng phù hợp với thực tiễn triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực, trong đó, không còn hình thức văn bản Thông tư liên tịch mà phải ban hành dưới hình thức Thông tư hướng dẫn lập dự toán, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp./. Thứ ba, một hạn chế có thể nêu ra liên quan đến quy định trong Luật Hỗ trợ DNNVVvề vấn đề này là các lĩnh vực kinh doanh đặc thù, cần được Nhà nước đặc biệt khuyến khích thông qua các biện pháp hỗ trợ riêng thì còn rất nhiều chứ không chỉ có trong ba lĩnh vực như trong Luật. Vì vậy, khi Nhà nước muốn hỗ trợ riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh trong các lĩnh vực này thì lại không có cơ sở pháp lý để thực hiện. Vì vậy, sẽ là tốt hơn nếu Luật Hỗ trợ DNNVVcó thêm một quy định mới, theo hướng mở để tạo cơ sở pháp lý cho Nhà nước thực hiện công tác hỗ trợ của mình đối với các ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh sẽ hình thành trong tương lai mà Nhà nước ta muốn khuyến khích phát triển bằng biện pháp hỗ trợ riêng./. HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA... (Tiếp theo trang 39)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfho_tro_phap_ly_cho_doanh_nghiep_mot_noi_dung_quan_trong_tron.pdf