Kiến nghị hoàn thiện
Một là, cần xem xét quy định lại tiêu
chí để đánh giá “doanh nghiệp, HTX mất khả
năng thanh toán” theo hướng tăng lên thời
gian để doanh nghiệp, HTX có đủ thời gian
cần thiết thực hiện nghĩa vụ thanh toán đã
đến hạn theo yêu cầu của chủ nợ cũng như
thực hiện việc xoay vòng vốn nhằm phục vụ
cho kế hoạch kinh doanh. Theo đó, chúng
tôi kiến nghị sửa đổi: “doanh nghiệp, HTX
mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp,
HTX không thực hiện nghĩa vụ thanh toán
khoản nợ trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày
đến hạn thanh toán”.
Hai là, để bảo đảm sự thống nhất của
các văn bản pháp luật, cần sửa đổi Luật Phá
sản năm 2014 và Luật THADS năm 2008
(sửa đổi, bổ sung năm 2014) theo hướng
thống nhất về thời hạn ra quyết định thi hành
án đối với các quyết định tuyên bố phá sản
của doanh nghiệp, HTX. Theo đó, cần xác
định thời hạn ban hành quyết định tuyên bố
phá sản là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được quyết định của Tòa án giải quyết phá
sản theo tinh thần của Luật THADS năm
2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Bên cạnh
đó, để bảo đảm quyền và lợi ích của người
được thi hành án là các chủ nợ của doanh
nghiệp, HTX bị tuyên bố phá sản, Luật Phá
sản năm 2014 cần kế thừa quy định của Luật
THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014) bằng việc bổ sung thêm một trường
hợp vào Điều 123 về định giá lại tài sản khi
“Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi
có thông báo công khai về việc bán đấu giá
tài sản”.
Ba là, điểm a khoản 3 Điều 28 Luật Phá
sản năm 2014 cần được sửa đổi theo hướng
bổ sung yêu cầu thực hiện kiểm toán đối
với báo cáo tài chính của các doanh nghiệp,
HTX trong trường hợp mất khả năng thanh
toán. Theo đó, điểm a khoản 3 Điều 28 Luật
Phá sản năm 2014 được viết lại như sau: “a)
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp, HTX
trong 03 năm gần nhất. Trường hợp doanh
nghiệp, HTX được thành lập và hoạt động
chưa đủ 03 năm thì kèm theo báo cáo tài
chính của doanh nghiệp, HTX trong toàn bộ
thời gian hoạt động. Báo cáo tài chính phải
được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận”.
Bốn là, Chính phủ cần sớm sửa đổi
Nghị định số 22/2015/NĐ-CP theo hướng
bổ sung quy định về cách tính tạm ứng chi
phí phá sản cũng như thủ tục mở và quản lý
tài khoản ngân hàng của Tòa án để thực hiện
việc thu, chi khoản tiền tạm ứng chi phí phá
sản cho phù hợp với quy định pháp luật về
phá sản cũng như tài chính, kế toán
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện các quy định của luật phá sản năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014
Tóm tắt:
Luật Phá sản năm 2014 ra đời đã tạo ra khung pháp lý vững chắc
cho việc phá sản các doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, các quy
định pháp luật trong lĩnh vực này vẫn còn tồn tại một số bất cập,
gây nhiều khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp, hợp tác xã
cũng như các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc giải quyết
thủ tục phá sản. Do vậy, đặt ra vấn đề cần phải có giải pháp hoàn
thiện các quy định pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải
quyết thủ tục phá sản trong thực tiễn.
Trương Thị Quỳnh Trâm*
* ThS. Toà án nhân dân Quận 1, TP. Hồ Chí Minh.
Abstract
The 2014 Law on Bankruptcy has created a solid legal framework
for bankruptcy of businesses and cooperatives. However, the
legal provisions of bankruptcy still exist some shortcomings,
thereby causing difficulties for the bankruptcy of enterprises
and cooperatives in practice. This article provides analysis of
the shortcomings in the bankruptcy legal provisions as well as
recommendations for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: doanh nghiệp, phá sản, Luật
Phá sản năm 2014
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 09/05/2019
Biên tập : 11/06/2019
Duyệt bài : 14/06/2019
Article Infomation:
Keywords: Businesses, bankruptcy, Law
on Bankruptcy of 2014
Article History:
Received : 09 May 2019
Edited : 11 Jun 2019
Approved : 14 Jun 2019
1. Một số bất cập của Luật Phá sản
năm 2014
Thứ nhất, quy định về tiêu chí để xác
định “Doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) mất
khả năng thanh toán”
Theo quy định của Luật Phá sản năm
2014, “phá sản là tình trạng của doanh
nghiệp, HTX mất khả năng thanh toán và
bị Tòa án nhân dân (TAND) ra quyết định
1 Khoản 2 Điều 1 Luật Phá sản năm 2014.
tuyên bố phá sản”1. Quy định này cho thấy,
một doanh nghiệp, HTX tuyên bố phá sản
phải đáp ứng 02 điều kiện sau đây: (i) doanh
nghiệp, HTX mất khả năng thanh toán và
(ii) doanh nghiệp, HTX bị TAND ra quyết
định tuyên bố phá sản.
Về tiêu chí “doanh nghiệp, HTX mất
khả năng thanh toán”, Luật Phá sản năm
2014 quy định: “doanh nghiệp, HTX mất
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 13(389) T7/2019
khả năng thanh toán là doanh nghiệp, HTX
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản
nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến
hạn thanh toán”2. So sánh với Luật Phá sản
năm 2004, có thể thấy Luật Phá sản năm
2014 đã tiến bộ hơn khi thay thế quy định
“doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng
phá sản” thành “doanh nghiệp, HTX mất
khả năng thanh toán” để thể hiện đúng bản
chất của đối tượng là doanh nghiệp, HTX
có nguy cơ bị tuyên bố phá sản; đồng thời
đưa ra tiêu chí định lượng để xác định tình
trạng doanh nghiệp, HTX thay vì sử dụng
tiêu chí định tính như trước đây (doanh
nghiệp, HTX không có khả năng thanh toán
được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có
yêu cầu)3.
Tuy nhiên, trên thực tế, có không
ít doanh nghiệp, HTX lại là chủ nợ với
số tiền lớn hơn số nợ phải thanh toán cho
các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản. Các
doanh nghiệp, HTX này hoàn toàn có thiện
chí trả nợ cho các chủ nợ yêu cầu tuyên bố
phá sản. Vì lý do chưa thu hồi được tiền từ
việc xoay vòng vốn trong kinh doanh, các
doanh nghiệp, HTX này không thể thực hiện
nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn
03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán và
các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản không
đồng ý thương lượng gia hạn, theo đó đề
nghị Tòa án tuyên bố phá sản đối với doanh
nghiệp, HTX. Đặc biệt, có trường hợp chủ
nợ lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản đối với doanh nghiệp, HTX đang
gặp khó khăn tạm thời nhằm mục tiêu đẩy
doanh nghiệp, HTX vào tình trạng “bị ép
phải phá sản”. Tình trạng này đã làm ảnh
hưởng rất lớn đến uy tín và hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp, HTX, thậm chí
lại là nguyên nhân chính khiến cho doanh
2 Khoản 12 Điều 1 Luật Phá sản năm 2014.
3 Điều 3 Luật Phá sản năm 2004.
4 Nguyễn Nhật Khanh, Tính thống nhất của Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với các văn bản pháp
luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 02/2018, tr. 66.
5 Khoản 1 Điều 17 Luật Phá sản năm 2014, điểm g khoản 1 Điều 2 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
6 Khoản 1 Điều 120 Luật Phá sản năm 2014.
nghiệp, HTX làm ăn thua lỗ sau đó và phải
phá sản “thật”.
Thứ hai, quy định về thời hạn ra quyết
định thi hành án và định giá lại tài sản trong
Luật Phá sản năm 2014 chưa thống nhất
với Luật Thi hành án dân sự (THADS) năm
2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)
Khoản 1 Điều 5 Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm
2015 quy định việc xây dựng và ban hành
VBQPPL phải “bảo đảm tính hợp hiến, tính
hợp pháp và tính thống nhất của VBQPPL
trong hệ thống pháp luật”. Tính thống nhất
của hệ thống pháp luật phải được xem xét
trên cả hai phương diện hình thức và nội
dung. Về mặt hình thức, tính thống nhất thể
hiện qua cách sắp xếp, phân loại thứ bậc,
hiệu lực của các quy phạm pháp luật. Về mặt
nội dung, tính thống nhất đòi hỏi pháp luật
phải có tính nhất quán. Điều này có nghĩa
các VBQPPL trong cùng một lĩnh vực hoặc
trong những lĩnh vực khác nhau phải tạo ra
sự nhất quán trong việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội nhất định, hạn chế tình trạng các
văn bản quy định khác nhau về cùng một
vấn đề4.
Luật Phá sản năm 2014 và Luật
THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014) đều quy định cơ quan THADS là cơ
quan được giao nhiệm vụ, quyền hạn trong
việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản
của Tòa án5. Tuy nhiên, quy định về thời
hạn ra quyết định thi hành án trong các đạo
luật này lại chưa có sự thống nhất với nhau.
Cụ thể, Luật Phá sản năm 2014 quy định
trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày
ra quyết định tuyên bố phá sản, cơ quan
THADS có trách nhiệm chủ động ra quyết
định thi hành, phân công Chấp hành viên thi
hành quyết định tuyên bố phá sản6. Trong
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 13(389) T7/2019
khi đó, Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ
sung năm 2014) quy định trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết
định của Tòa án giải quyết phá sản thì Thủ
trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền chủ
động ra quyết định thi hành án và phân công
Chấp hành viên tổ chức thi hành7. Như vậy,
quy định của hai văn bản luật này về thời
hạn để cơ quan THADS ra quyết định thi
hành án đối với quyết định tuyên bố phá sản
là không thống nhất với nhau, từ đó gây ra
những khó khăn cho cơ quan THADS trong
việc ban hành quyết định thi hành án, đồng
thời là nguyên nhân làm phát sinh các khiếu
nại liên quan đến việc tuân thủ quy định về
thời hạn ra quyết định thi hành án8.
Bên cạnh đó, quy định của Luật Phá
sản năm 2014 và Luật THADS năm 2008
(sửa đổi, bổ sung năm 2014) về trường hợp
định giá lại tài sản cũng chưa thống nhất.
Theo Luật Phá sản năm 2014, định giá lại
tài sản chỉ được thực hiện trong một trường
hợp duy nhất là “khi có vi phạm nghiêm
trọng quy định tại Điều 122 của Luật này
dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản”9.
Trong khi đó, Luật THADS năm 2008 (sửa
đổi, bổ sung năm 2014) quy định 02 trường
hợp có thể định giá lại tài sản kê biên gồm:
(i) Chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng
quy định tại Điều 98 của Luật này dẫn đến
sai lệch kết quả định giá tài sản; (ii) Đương
sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông
báo công khai về việc bán đấu giá tài sản10.
Như vậy, so với Luật THADS năm 2008
(sửa đổi, bổ sung năm 2014), Luật Phá sản
năm 2014 đã thu hẹp các trường hợp định
giá lại. Việc người được thi hành án (trong
đó có các chủ nợ của doanh nghiệp, HTX bị
phá sản) không có quyền yêu cầu việc định
giá lại tài sản của doanh nghiệp, HTX bị
7 Khoản 2 Điều 36 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
8 Điều 128 Luật Phá sản năm 2014, Mục 1 Chương VI Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
9 Khoản 1 Điều 123 Luật Phá sản năm 2014.
10 Khoản 1 Điều 99 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
11 Khoản 3, 4 Điều 5 Luật Phá sản năm 2014.
12 Khoản 5 Điều 28 Luật Phá sản năm 2014.
phá sản có thể sẽ làm ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của họ trong việc được
thanh toán các khoản nợ.
Thứ ba, quy định về kiểm toán báo
cáo tài chính của doanh nghiệp, HTX trong
trường hợp doanh nghiệp, HTX mất khả
năng thanh toán nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản
Luật Phá sản năm 2014 quy định 02
trường hợp phát sinh nghĩa vụ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp,
HTX mất khả năng thanh toán: (i) Người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp, HTX
có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khi doanh nghiệp, HTX mất khả năng
thanh toán; (ii) Chủ doanh nghiệp tư nhân,
Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ
phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công
ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành
viên trở lên, chủ sở hữu công ty TNHH một
thành viên, thành viên hợp danh của công ty
hợp danh có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản khi doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán11. Để bảo đảm thực hiện quy
định này, Luật Phá sản năm 2014 quy định:
“Những người theo quy định tại khoản 3 và
khoản 4 Điều 5 của Luật này không nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp,
HTX mất khả năng thanh toán thì phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật. Trường hợp
có thiệt hại phát sinh sau thời điểm doanh
nghiệp, HTX mất khả năng thanh toán do
việc không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản gây ra thì phải bồi thường”12. Bên cạnh
đó, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày
24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư
pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia
đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, HTX
(sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 67/2015/
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 13(389) T7/2019
NĐ-CP ngày 14/8/2015) có quy định: “Phạt
tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng
đối với hành vi của Chủ doanh nghiệp tư
nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công
ty cổ phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên
của công ty TNHH hai thành viên trở lên,
chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên,
thành viên hợp danh của công ty hợp danh
hoặc người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, HTX không nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, HTX
mất khả năng thanh toán”13.
Trong số các tài liệu kèm theo đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp,
HTX rơi vào 02 trường hợp trên, Luật Phá
sản năm 2014 quy định phải có “Báo cáo
tài chính của doanh nghiệp, HTX trong 03
năm gần nhất. Trường hợp doanh nghiệp,
HTX được thành lập và hoạt động chưa đủ
03 năm thì kèm theo báo cáo tài chính của
doanh nghiệp, HTX trong toàn bộ thời gian
hoạt động”14. Đây là tài liệu bắt buộc, có vai
trò quan trọng trong quá trình tổng hợp tình
hình tài sản, vốn chủ sở hữu và nợ phải trả
cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh
doanh trong kỳ của doanh nghiệp, HTX nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nói cách
khác, qua báo cáo tài chính thì Thẩm phán
có thể nắm bắt được thực trạng tài chính của
doanh nghiệp, HTX. Tuy nhiên, Luật Phá
sản năm 2014 lại không nêu cụ thể báo cáo
tài chính có phải kiểm toán hay không?
Đối chiếu với Luật Phá sản năm 2004,
khi doanh nghiệp, HTX nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản phải nộp kèm theo đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản “Báo cáo tình hình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
HTX, trong đó giải trình nguyên nhân và
hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả
năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công
ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được
kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được
13 Điều 54 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 67/2015/NĐ-CP).
14 Điểm a khoản 3 Điều 28 Luật Phá sản năm 2014.
15 Điểm a khoản 4 Điều 15 Luật Phá sản năm 2004.
16 Phan Thị Mỹ Hạnh, Phá sản doanh nghiệp và thi hành Luật Phá sản ở Việt Nam, Tạp chí Dầu khí số 4/2018, tr. 60.
tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận”15. Quy
định báo cáo tài chính phải được kiểm toán
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
tính xác thực, khách quan của báo cáo tài
chính để dựa vào đó làm cơ sở cho việc giải
quyết thủ tục phá sản của doanh nghiệp,
HTX. Tiếc rằng, Luật Phá sản năm 2014 đã
không quy định rõ về nội dung này. Trên
thực tế, việc chấp hành các quy định về chế
độ tài chính kế toán còn yếu kém; quản lý sổ
sách, chứng từ kế toán lỏng lẻo; tình hình tài
sản và các khoản công nợ không được ghi
chép, phản ánh đầy đủ, rõ ràng; hồ sơ pháp
lý các khoản công nợ thiếu chứng cứ pháp
lý để trả nợ và thu nợ vì không được chủ nợ
và người mắc nợ đối chiếu, ảnh hưởng đến
tiến độ giải quyết phá sản cũng như việc thi
hành quyết định thanh lý tài sản của doanh
nghiệp16.
Thực tiễn giải quyết thủ tục phá sản
của Tòa án cho thấy, nếu không quy định
cụ thể việc kiểm toán báo cáo tài chính của
doanh nghiệp, HTX sẽ ảnh hưởng đến việc
xác định tính trung thực hồ sơ yêu cầu mở
thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, HTX
của Tòa án. Bởi lẽ, Tòa án không phải là cơ
quan chuyên môn để có thể xác thực các
báo cáo tài chính mà doanh nghiệp, HTX đã
nộp. Điều này gián tiếp tạo “cơ hội” cho các
doanh nghiệp, HTX cố tình thực hiện việc
phá sản một cách giả tạo nhằm trốn tránh
thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với chủ
nợ, người lao động của doanh nghiệp, HTX.
Thứ tư, quy định về tạm ứng chi phí
phá sản và mở tài khoản để nộp tiền tạm ứng
chi phí phá sản
Luật Phá sản năm 2014 quy định, trong
thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp
lệ, TAND dự tính số tiền tạm ứng chi phí
phá sản và thông báo cho người yêu cầu mở
thủ tục phá sản để nộp tạm ứng chi phí phá
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 13(389) T7/2019
sản. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được thông báo về việc nộp tạm ứng chi phí
phá sản, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản phải thực hiện việc tạm ứng chi phí
phá sản vào tài khoản do TAND mở tại ngân
hàng17. “Tạm ứng chi phí phá sản” là khoản
tiền do TAND quyết định để đăng báo, tạm
ứng chi phí quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản18.
Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014
không quy định cụ thể về cách tính tạm ứng
chi phí phá sản. Nghị định số 22/2015/NĐ-
CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ hướng
dẫn quy định về quản tài viên và hành nghề
quản lý, thanh lý tài sản chỉ bao hàm quy
định hướng dẫn về cách tính mức thù lao đối
với quản tài viên mà không có bất cứ quy
định nào hướng dẫn cách tính tạm ứng chi
phí phá sản. Bên cạnh đó, Luật Phá sản năm
2014 và Nghị định số 22/2015/NĐ-CP cũng
quy định chưa cụ thể về thủ tục mở, quản lý
tài khoản do Tòa án mở tại Ngân hàng để
thu tiền tạm ứng chi phí phá sản. Điều này
gây lúng túng cho Tòa án trong việc tổ chức
thực hiện trên thực tế, dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau như tài khoản mở tại ngân
hàng được sử dụng cho một vụ hay nhiều vụ
phá sản?
2. Kiến nghị hoàn thiện
Một là, cần xem xét quy định lại tiêu
chí để đánh giá “doanh nghiệp, HTX mất khả
năng thanh toán” theo hướng tăng lên thời
gian để doanh nghiệp, HTX có đủ thời gian
cần thiết thực hiện nghĩa vụ thanh toán đã
đến hạn theo yêu cầu của chủ nợ cũng như
thực hiện việc xoay vòng vốn nhằm phục vụ
cho kế hoạch kinh doanh. Theo đó, chúng
tôi kiến nghị sửa đổi: “doanh nghiệp, HTX
mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp,
HTX không thực hiện nghĩa vụ thanh toán
khoản nợ trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày
đến hạn thanh toán”.
Hai là, để bảo đảm sự thống nhất của
17 Điều 38 Luật Phá sản năm 2014.
18 Khoản 14 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014.
các văn bản pháp luật, cần sửa đổi Luật Phá
sản năm 2014 và Luật THADS năm 2008
(sửa đổi, bổ sung năm 2014) theo hướng
thống nhất về thời hạn ra quyết định thi hành
án đối với các quyết định tuyên bố phá sản
của doanh nghiệp, HTX. Theo đó, cần xác
định thời hạn ban hành quyết định tuyên bố
phá sản là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được quyết định của Tòa án giải quyết phá
sản theo tinh thần của Luật THADS năm
2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Bên cạnh
đó, để bảo đảm quyền và lợi ích của người
được thi hành án là các chủ nợ của doanh
nghiệp, HTX bị tuyên bố phá sản, Luật Phá
sản năm 2014 cần kế thừa quy định của Luật
THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014) bằng việc bổ sung thêm một trường
hợp vào Điều 123 về định giá lại tài sản khi
“Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi
có thông báo công khai về việc bán đấu giá
tài sản”.
Ba là, điểm a khoản 3 Điều 28 Luật Phá
sản năm 2014 cần được sửa đổi theo hướng
bổ sung yêu cầu thực hiện kiểm toán đối
với báo cáo tài chính của các doanh nghiệp,
HTX trong trường hợp mất khả năng thanh
toán. Theo đó, điểm a khoản 3 Điều 28 Luật
Phá sản năm 2014 được viết lại như sau: “a)
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp, HTX
trong 03 năm gần nhất. Trường hợp doanh
nghiệp, HTX được thành lập và hoạt động
chưa đủ 03 năm thì kèm theo báo cáo tài
chính của doanh nghiệp, HTX trong toàn bộ
thời gian hoạt động. Báo cáo tài chính phải
được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận”.
Bốn là, Chính phủ cần sớm sửa đổi
Nghị định số 22/2015/NĐ-CP theo hướng
bổ sung quy định về cách tính tạm ứng chi
phí phá sản cũng như thủ tục mở và quản lý
tài khoản ngân hàng của Tòa án để thực hiện
việc thu, chi khoản tiền tạm ứng chi phí phá
sản cho phù hợp với quy định pháp luật về
phá sản cũng như tài chính, kế toán■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
57Số 13(389) T7/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_cac_quy_dinh_cua_luat_pha_san_nam_2014.pdf