Những quy định về quyền hưởng dụng
và quyền bề mặt trong BLDS năm 2015 đã
mở ra những khả năng và tạo ra hiệu quả
điều chỉnh cao hơn của pháp luật dân sự,
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong giao
lưu dân sự liên quan đến bất động sản, trong
đó có đất đai.
Những quy định về quyền hưởng dụng
và quyền bề mặt tạo ra quyền của người
không phải là chủ sở hữu đất đai, bất động
sản khác có quyền sử dụng các loại tài sản
này trong xây dựng các vật kiến trúc, các
hệ thống giao thông, trồng trọt cây cối,
đồng thời những quy định này cũng tạo
điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong
quan hệ tài sản một cách có hiệu quả, tránh
lãng phí vì tài sản được khai thác tối đa, do
không tuyệt đối hóa quyền sở hữu tài sản.
BLDS năm 2015 đã khắc phục được những
khiếm khuyết trong BLDS năm 2005, là có
những quy định về quyền hưởng dụng và
quyền bề mặt
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 424 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong tố tụng dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOAÂN THIÏÅN CAÁC QUY ÀÕNH CUÃA PHAÁP LUÊÅT VÏÌ TRAÁCH NHIÏÅM
BÖÌI THÛÚÂNG CUÃA NHAÂ NÛÚÁC TRONG TÖË TUÅNG DÊN SÛÅ
LươNg DANh TùNg*
35
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
* ThS, Luật sư Công ty luật hợp danh Đông Nam Á - Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.
1. Các kết quả quan trọng đạt được khi
thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước
Việc Quốc hội ban hành Luật TNBT của
Nhà nước năm 2010 có ý nghĩa sâu sắc,
khẳng định chính sách của Đảng và Nhà
nước trong thực hiện các mục tiêu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Trong đó, có quyền được bồi
thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà
nước gây ra khi thi hành công vụ, góp phần
nâng cao ý thức, trách nhiệm trong thực thi
công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức ở
nước ta hiện nay.
Sau hơn 6 năm thi hành, về cơ bản Luật
TNBT của Nhà nước năm 2010 đã đi vào
cuộc sống, đáp ứng yêu cầu và mục tiêu tạo
cơ chế khả thi để người bị thiệt hại thực hiện
quyền yêu cầu bồi thường; bảo đảm sự ổn
định của hoạt động công vụ, giải quyết hài
hòa lợi ích giữa Nhà nước, cơ quan nhà
nước, người thi hành công vụ với cá nhân,
tổ chức, doanh nghiệp bị thiệt hại. Thông
qua việc thực hiện công tác bồi thường nhà
nước, công chức nhà nước tiếp tục có sự
chuyển biến về ý thức trách nhiệm trong thi
hành công vụ, nhận thức sâu sắc hơn về ý
nghĩa, vai trò của pháp luật về TNBT của
Nhà nước, qua đó, nâng cao trách nhiệm
trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân theo
tinh thần: để tránh phát sinh TNBT nhà nước
thì không có hành vi trái pháp luật trong thi
hành công vụ. Người bị thiệt hại thuận lợi
hơn trong thực hiện quyền yêu cầu bồi
Luật Trách nhiệm bồi thường (TNBT) của Nhà nước năm 2010 là văn bản pháp luật
quan trọng để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có căn cứ pháp lý thực hiện
TNBT của mình đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây
ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án. Tuy nhiên, do Luật
TNBT của Nhà nước năm 2010 được xây dựng trên cơ sở phù hợp với Hiến pháp
năm 1992, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005; phù hợp với khả năng ngân sách nhà
nước, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức, điều kiện làm việc và
thực thi công vụ thời kỳ trước năm 2010, do vậy, đến nay đã bộc lộ một số khiếm
khuyết cần được sửa đổi, bổ sung.
36
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
thường trong cả ba lĩnh vực quản lý hành
chính, tố tụng và thi hành án1. Một số trường
hợp điển hình về thực hiện TNBT của Nhà
nước có thể kể đến như:
- Tháng 8/2015, Tòa án nhân dân
(TAND) thành phố Thái Bình đã tuyên án sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Lương Ngọc Phi, nguyên Giám đốc Công ty
Khai thác chế biến nông hải sản xuất khẩu
Hòa Bình khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh
Thái Bình phải bồi thường thiệt hại cho ông
Phi số tiền hơn 22,9 tỷ đồng do TAND tỉnh
Thái Bình tuyên phạt ông Phi 17 năm tù
giam oan sai2.
- Tháng 9/2015, TAND cấp cao tại Hà
Nội đã chi trả 7,2 tỷ đồng tiền bồi thường
oan sai cho ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc
Giang do ông Chấn bị ngồi tù oan trong 10
năm3.
Tại Hội nghị tổng kết 6 năm thực hiện
Luật TNBT của Nhà nước năm 2010 ngày
07/01/2016, Bộ Tư pháp đã thống kê số
lượng đơn khởi kiện yêu cầu TAND các cấp
thụ lý, xét xử giải quyết bồi thường dân sự
là 51 vụ án dân sự về bồi thường nhà nước.
Đây là các vụ việc những người bị thiệt hại
không đồng ý với quyết định giải quyết bồi
thường của cơ quan có TNBT và khởi kiện
ra TAND. Đến thời điểm ngày 07/01/2016,
TAND các cấp đã giải quyết xong 39 vụ
việc, số tiền bồi thường là 32,5 tỷ đồng, còn
12 vụ việc vẫn đang tiếp tục giải quyết4.
Trong suốt 6 năm, TAND các cấp mới
chỉ thụ lý giải quyết 51 vụ việc dân sự về bồi
thường nhà nước trên địa bàn cả nước là con
số quá ít ỏi. Riêng trong lĩnh vực tố tụng dân
sự (TTDS) chưa được Ban Tổ chức Hội nghị
tổng kết cụ thể. Có ý kiến cho rằng, một
trong những nguyên nhân dẫn đến việc các
cơ quan nhà nước không giải quyết bồi
thường thiệt hại được nhiều là do một bộ
phận người dân chưa biết về TNBT của Nhà
nước hoặc không hiểu rõ các quy định về
TNBT của Nhà nước nên không hoàn thành
được các thủ tục cần thiết, hoặc gửi đơn yêu
cầu bồi thường không đúng cơ quan có
TNBT nhà nước. Đây là ý kiến chủ quan,
bởi ngay các quy định trong Luật TNBT của
Nhà nước năm 2010 cũng đang có những
khiếm khuyết và không thống nhất với Hiến
pháp năm 2013, đặc biệt sẽ không thống
nhất với Bộ luật TTDS năm 20155, Bộ luật
Dân sự (BLDS) năm 20156.
2. một số hạn chế và kiến nghị hoàn thiện
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước
2.1. Quy định giới hạn trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước trong tố tụng dân sự
đã giới hạn quyền dân sự của người bị
thiệt hại
Điều 2 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật.
2. Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
1 Nguồn:
2 Nguồn:
20151016103518509.htm.
3 Nguồn:
4
5 Bộ luật TTDS năm 2015 được Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2017.
6 BLDS năm 2015 được Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2017.
37
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng”.
Như vậy, BLDS năm 2015 đã nhắc lại
quy định tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013
rất rõ ràng: quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo luật và trong những trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng. Tuy nhiên, các quy
định của Luật TNBT của Nhà nước năm
2010 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi
hành Luật trong lĩnh vực TTDS lại giới hạn
phạm vi bồi thường nhà nước đối với công
dân, như vậy đã có sự hạn chế quyền con
người, quyền công dân, trái với quy định của
Hiến pháp năm 2013, không thống nhất với
quy định của BLDS năm 2015.
Điều 28 Luật TNBT của Nhà nước năm
2010 quy định về phạm vi TNBT trong hoạt
động TTDS, tố tụng hành chính:
“Nhà nước có TNBT thiệt hại do hành
vi trái pháp luật của người tiến hành TTDS,
tố tụng hành chính gây ra trong các trường
hợp sau đây:
1. Tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp
(BPKC) tạm thời;
2. Áp dụng BPKC tạm thời khác với
BPKC tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ
chức có yêu cầu;
3. Áp dụng BPKC tạm thời vượt quá
yêu cầu áp dụng BPKC tạm thời của cá
nhân, cơ quan, tổ chức;
4. Ra bản án, quyết định mà biết rõ là
trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ
vụ án”.
Theo nội dung Điều 28 Luật TNBT của
Nhà nước năm 2010 thì những hành vi trái
pháp luật của người tiến hành TTDS gây ra
chỉ trong những trường hợp đã liệt kê trên
thì Nhà nước mới có TNBT cho người bị
thiệt hại. Nói cách khác là những trường hợp
không nằm trong quy định tại Điều 28 Luật
TNBT của Nhà nước năm 2010 thì sẽ không
được bồi thường. Giới hạn phạm vi TNBT
của Nhà nước trong hoạt động TTDS quy
định tại Điều 28 Luật TNBT của Nhà nước
năm 2010 đã thể hiện những bất cập sau:
Thứ nhất, quy định về TNBT của Nhà
nước do hành vi trái pháp luật của người tiến
hành TTDS gây ra khi áp dụng BPKC tạm
thời chưa bao quát hết được những thiệt hại
có thể xảy ra trên thực tế, mà nguyên nhân
xuất phát từ người tiến hành hoạt động
TTDS.
Điều 28 Luật TNBT của Nhà nước năm
2010 đã liệt kê lại các trường hợp Tòa án
phải bồi thường khi áp dụng BPKC tạm thời
được quy định tại khoản 2 Điều 101 Bộ luật
TTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm
2011) quy định về trách nhiệm do áp dụng
BPKC tạm thời không đúng. Việc Tòa án áp
dụng BPKC tạm thời sai thì phải có TNBT
thiệt hại cho người bị thiệt hại do bị áp dụng
BPKC tạm thời sai là đương nhiên. Tuy
nhiên, do Điều 101 Bộ luật TTDS không có
quy định trách nhiệm của Tòa án trong
trường hợp người tiến hành hoạt động
TTDS không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
BPKC tạm thời của đương sự, trong khi tại
Điều 124 Bộ luật TTDS lại có quy định về
việc đương sự có quyền khiếu nại với Chánh
án Tòa án đang giải quyết vụ án việc Thẩm
phán không ra quyết định áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ BPKC tạm thời.
Để Luật TNBT của Nhà nước năm 2010
được thi hành tốt trong lĩnh vực TTDS,
Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 18/9/2012
của TAND tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp được ban hành hướng
dẫn thực hiện TNBT của Nhà nước trong
hoạt động TTDS (Thông tư số 01). Điều 2
Thông tư số 01 đã hướng dẫn các trường
hợp Tòa án có TNBT, đồng thời hướng dẫn
rõ thêm việc Tòa án tự mình áp dụng BPKC
tạm thời trong 02 loại việc cụ thể:
1. Người đã tiến hành tố tụng tự mình
ra quyết định áp dụng BPKC tạm thời không
38
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 Bộ luật
TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2011.
2. Người đã tiến hành tố tụng tự mình
ra các quyết định áp dụng BPKC tạm thời
thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 Bộ luật
TTDS khi không có đủ các điều kiện quy
định tại các Điều 103, 104, 105, 106, 107 Bộ
luật TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2011.
Như vậy, trong hoạt động TTDS, việc
Tòa án áp dụng không đúng điều luật hoặc
có điều luật để áp dụng nhưng không đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật thì đều
phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Tuy nhiên, cả Luật TNBT của Nhà nước
năm 2010 và Thông tư số 01 đều không nêu
trường hợp Tòa án không áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ BPKC tạm thời theo yêu cầu của
đương sự mà dẫn tới hậu quả gây thiệt hại
đến quyền lợi của họ hoặc người thứ ba,
hoặc làm mất khả năng thi hành án dân sự
mà không phải bồi thường là một thiếu sót,
vì hành vi này của người tiến hành tố tụng
cũng gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền
và lợi ích chính đáng của đương sự tham gia
tố tụng.
Để đảm bảo quyền lợi của đương sự
tham gia tố tụng, Bộ luật TTDS năm 2015
đã kịp thời bổ sung quy định: Tòa án phải
bồi thường thiệt hại cho người tham gia tố
tụng đã có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng
BPKC tạm thời hợp lệ, có căn cứ pháp luật
nhưng vì Tòa án chậm trễ ra quyết định áp
dụng BPKC tạm thời hoặc vì lý do không
chính đáng mà không áp dụng BPKC tạm
thời dẫn tới gây thiệt hại đến quyền lợi của
đương sự có yêu cầu. Quy định này đã đảm
bảo tốt hơn quyền lợi của người tham gia tố
tụng, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý quan
trọng để mở rộng phạm vi TNBT của Nhà
nước trong hoạt động TTDS.
Để phù hợp với quy định của Hiến pháp
năm 2013, Bộ luật TTDS năm 2015 và
BLDS năm 2015, Quốc hội cần nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung Điều 28 Luật TNBT của
Nhà nước năm 2010. Có như vậy mới kịp
thời đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của người tham gia tố tụng, người thứ ba bị
thiệt hại trong hoạt động TTDS.
Thứ hai, quy định tại khoản 4 Điều 28
Luật TNBT của Nhà nước năm 2010 về việc
Nhà nước có TNBT thiệt hại do hành vi của
người tiến hành TTDS gây ra khi ra bản án,
quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc
cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án cũng chưa bao
quát được những hành vi của người tiến
hành tố tụng có thể gây ra thiệt hại cho
người tham gia tố tụng hoặc người thứ ba.
Một trong những căn cứ xác lập quyền
dân sự được quy định tại Điều 8 BLDS năm
2015 là: “7. Bị thiệt hại do hành vi trái pháp
luật”. Theo tinh thần của quy định này thì
người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật
đương nhiên có quyền yêu cầu người có
hành vi trái pháp luật phải có TNBT những
thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người
này gây ra.
Trong quá trình thực thi công vụ, người
tiến hành tố tụng có hành vi cố ý ra bản án,
quyết định trái pháp luật hoặc người tiến
hành tố tụng có hành vi cố ý làm sai lệch hồ
sơ vụ án, và do đó họ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự thì có cơ sở để TAND có
thẩm quyền ban hành văn bản xác định hành
vi trái pháp luật của người đã tiến hành tố
tụng, văn bản này là một trong hai điều kiện
để người bị thiệt hại yêu cầu Tòa án bồi
thường thiệt hại. Tuy nhiên, nếu người đã
tiến hành tố tụng có hành vi trái pháp luật
nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, cũng không bị xử lý kỷ luật theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức thì
sẽ rất khó xác định hành vi của người đã tiến
hành tố tụng trái pháp luật hay không.
Mặt khác, khoản 4 Điều 28 Luật TNBT
39
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
của Nhà nước năm 2010 quy định gộp cả hai
hành vi của người đã tiến hành TTDS là ra
bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp
luật là chưa hợp lý. Việc ra bản án của Tòa
án thì chỉ có thể do Hội đồng xét xử có thẩm
quyền xét xử ban hành, cũng có nghĩa là bản
án do tập thể những người tiến hành tố tụng
quyết định. Đối với quyết định của Tòa án
thì có thể do một Thẩm phán (tức người đã
tiến hành TTDS) ban hành hoặc do Hội
đồng xét xử ban hành.
Trong hoạt động TTDS, có nhiều loại
quyết định do TAND có thẩm quyền thụ lý
vụ việc dân sự ban hành như: Quyết định trả
lại đơn khởi kiện, Quyết định định giá tài sản
có tranh chấp hoặc có yêu cầu bồi thường tài
sản, Quyết định không chấp nhận yêu cầu
phản tố của bị đơn, Quyết định giải quyết
khiếu nại trong TTDS, Quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự đều có khả
năng gây thiệt hại cho đương sự, người thứ
ba. Ví dụ: Thẩm phán ra quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ kiện dân sự mà không có lý
do chính đáng, dẫn đến vụ kiện kéo dài, gây
ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của
đương sự. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy
định đương sự bị thiệt hại có quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại trong trường hợp này. Vì
vậy, khi luật không quy định tách bạch hình
thức các quyết định nằm trong phạm vi
TNBT của Nhà nước, sẽ hạn chế quyền lợi
hợp pháp của công dân, đồng thời gây khó
khăn, lúng túng cho cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc xác định hành vi trái pháp
luật của người đã tiến hành TTDS.
2.2. Quy định giải quyết yêu cầu bồi
thường tại Tòa án chưa bảo đảm quyền
khởi kiện của người bị thiệt hại
Khoản 1 Điều 22 Luật TNBT của Nhà
nước năm 2010 quy định: “1. Trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn ra quyết
định giải quyết bồi thường quy định tại Điều
20 của Luật này mà cơ quan có TNBT
không ra quyết định hoặc kể từ ngày người
bị hại nhận được quyết định nhưng không
đồng ý thì người bị thiệt hại có quyền khởi
kiện ra Tòa án có thẩm quyền theo quy định
tại Điều 23 của Luật này để yêu cầu giải
quyết bồi thường”. Các quy định của Luật
TNBT của Nhà nước năm 2010 về thủ tục
giải quyết bồi thường bắt buộc người bị thiệt
hại phải thực hiện theo trình tự, thủ tục kéo
dài. Trước tiên phải khiếu nại đến người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét,
kết luận hành vi trái pháp luật của người thi
hành công vụ; tiếp theo phải gửi đơn yêu cầu
bồi thường (kèm theo tài liệu) đến cơ quan
có TNBT; nếu trong thời hạn 100 ngày, cơ
quan có TNBT không ra quyết định giải
quyết bồi thường hoặc người bị thiệt hại
không đồng ý với quyết định bồi thường thì
mới có quyền khởi kiện ra Tòa án yêu cầu
giải quyết bồi thường. Có thể hiểu rằng, khi
chưa có quyết định giải quyết khiếu nại của
người có thẩm quyền thì người bị thiệt hại
chưa thể khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải
quyết bồi thường. Thời hạn để cơ quan nhà
nước có TNBT thiệt hại giải quyết yêu cầu
bồi thường thiệt hại trong Luật TNBT của
Nhà nước năm 2010 quá dài và buộc người
bị thiệt hại khi đi đòi quyền lợi chính đáng
của mình phải qua nhiều giai đoạn khiếu nại,
tố tụng, trong khi chính người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại cũng đồng thời
là người lãnh đạo cơ quan nhà nước có trách
nhiệm giải quyết yêu cầu bồi thường.
Mặt khác, khi người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại xem xét, kết luận hành vi
trái pháp luật của người thi hành công vụ
không giải quyết khiếu nại hoặc kéo dài thời
gian giải quyết khiếu nại thì quyền lợi chính
đáng của người bị thiệt hại lại tiếp tục bị
xâm phạm lần nữa. Mặc dù Luật TNBT của
Nhà nước năm 2010 có quy định về việc áp
dụng thời hạn về giải quyết khiếu nại, tố cáo
để buộc người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại phải xem xét, kết luận bằng văn
bản về hành vi trái pháp luật của người thi
(Xem tiÕp trang 52)
VÏÌ QUYÏÌN HÛÚÃNG DUÅNG VAÂ QUYÏÌN BÏÌ MÙÅT
PhùNg TruNg TậP*
* PGS,TS. Trường Đại học Luật Hà Nội.
40
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
1. Quyền hưởng dụng
Quyền hưởng dụng được quy định tại
mục 2, Chương XIV từ Điều 257 đến Điều
266 trong Bộ Luật Dân sự (BLDS) năm
2015. Điều 257 quy định: “Quyền hưởng
dụng là quyền của chủ thể được khai thác
công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với
tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác
trong một thời hạn nhất định”. Căn cứ xác
lập quyền hưởng dụng (Điều 258): “Quyền
hưởng dụng được xác lập theo quy định của
luật, theo thỏa thuận hoặc theo di chúc”.
Các quy định tại Điều 257 và Điều 258
BLDS năm 2015, không chỉ đã tạo ra khả
năng thực hiện các quyền dân sự của chủ sở
hữu, mà còn là điều kiện cho các chủ thể
không phải là chủ sở hữu khai thác tài sản.
Quy định về quyền hưởng dụng là quy định
đáp ứng được kịp thời nhu cầu của chủ thể
và là một biện pháp tiết kiệm trong việc khai
thác tài sản, mà không phải khi nào cũng
phải thông qua các hợp đồng thuê, mượn.
Quy định này giúp giảm được rất nhiều
những chi phí về tài sản và thời gian. Chủ
thể có quyền hưởng dụng khai thác công
dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức trên tài sản
tương tự như chủ sở hữu, trong một thời hạn
nhất định.
Căn cứ xác lập quyền hưởng dụng là do
luật định hoặc do chủ sở hữu tài sản để lại
di chúc sau khi qua đời.
Do luật định về quyền hưởng dụng
trong trường hợp vợ hoặc chồng chết trước,
người vợ hoặc người chồng còn sống có
quyền quản lý tài sản của người đã chết là
di sản thừa kế chưa chia và hưởng hoa lợi,
lợi tức từ việc khai thác tài sản này hoặc sử
dụng phần nhà là di sản thừa kế chưa chia
của người chồng hoặc của người vợ quá cố.
Quy định về căn cứ xác lập quyền
hưởng dụng theo di chúc là một cải cách căn
bản trong việc khai thác tài sản của người đã
chết bằng hưởng dụng, mà không phải là
người được chuyển giao tài sản và quyền sở
hữu tài sản theo thừa kế. Quy định về căn cứ
xác lập quyền hưởng dụng theo di chúc đã
tạo ra khả năng duy trì khối di sản của người
chết để lại và bảo đảm quyền của những
người thừa kế theo pháp luật, khi người
hưởng dụng đầu tiên qua đời hoặc hết thời
hạn hưởng dụng tối đa theo luật định là 30
năm. Chủ thể hưởng dụng có thể là cá nhân,
41
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
có thể là pháp nhân. Theo quy định tại khoản
2 Điều 260 BLDS năm 2015 thì người
hưởng dụng có quyền cho thuê quyền hưởng
dụng. Quy định này nhằm khai thác triệt để
tài sản là đối tượng hưởng dụng, tránh lãng
phí trong trường hợp người hưởng dụng
không có nhu cầu hoăc không khai thác hết
giá trị kinh tế của tài sản hưởng dụng. Quy
định này phù hợp với đời sống trong xã hội
phát triển nền kinh tế thị trường, đặc biệt đối
với việc khai thác những tư liệu sản xuất
trong sản xuất, kinh doanh mà tài sản là sản
nghiệp như các nhà máy, hệ thống dây
chuyền trong sản xuất hàng hóa và các tư
liệu sản xuất khác.
Quy định về quyền hưởng dụng tài sản
trong BLDS năm 2015 là một cải cách trong
tư duy lập pháp tại Việt Nam, kể từ năm
1945 đến nay.
BLDS năm 2005 chưa có quy định về
quyền hưởng dụng tài sản một cách cụ thể,
cho nên BLDS năm 2015 quy định về quyền
hưởng dụng là kịp thời và thật sự cần thiết.
Quyền hưởng dụng được hiểu là một yếu tố
của quyền sở hữu cho nên quyền này có thể
là đối tượng của giao dịch dân sự, và phổ biến
nhất là trong giao dịch mà người hưởng dụng
được quyền thu lợi từ việc hưởng dụng đó.
Hưởng dụng là quyền của người không
phải là chủ sở hữu của tài sản, nhưng có
quyền hưởng dụng các lợi ích do tài sản
mang lại trên căn cứ hợp đồng hoặc do pháp
luật quy định.
Trước đây, Bộ An Nam giản yếu năm
1883 đã phỏng theo luật của Cộng hoà Pháp
cùng thời kỳ đó nên Điều 384 quy định:
Người cha được quyền hưởng dụng pháp
định đối với tài sản riêng của con cho đến
khi người con 18 tuổi (người mẹ chỉ được
hưởng dụng tài sản của con sau khi người
cha chết với điều kiện người mẹ không kết
hôn với người khác - không tái giá). Khi
người con đến 18 tuổi, người cha được
hưởng dụng phải ghi chép về các khoản hoa
lợi phát sinh từ tài sản của người con. Nếu
chi phí nuôi dưỡng người con này vẫn còn
thừa, thì khoản dư thừa này người cha có
nghĩa vụ trả lại cho người con. Trong Bộ
Dân luật Trung kỳ (1936) và Dân luật Bắc
kỳ (1931) đều không có quy định về hưởng
dụng tài sản của con chưa đến 18 tuổi. Bởi
vì, theo quy định của pháp luật dân sự Trung
Kỳ và Bắc Kỳ thì các con còn ở chung với
cha, mẹ không có quyền có tài sản riêng, trừ
trường hợp các con đã trưởng thành và đã
thoát quyền khỏi người cha, người mẹ theo
phương thức “kiến giả nhất phận”.
Quyền hưởng dụng còn được quy định
trong trường hợp người chồng chết trước
người vợ. Theo quy định trong Dân luật Bắc
kỳ và Dân luật Trung kỳ thì sau khi người
chồng chết, người vợ goá có các quyền:
- Hưởng toàn quyền sở hữu tài sản của
người chồng nếu bên nhà chồng không còn
bất kỳ người thừa kế nào và quyền hưởng
dụng hoa lợi do toàn bộ di sản của người
chồng để lại sau khi chết. Người vợ có
quyền hưởng dụng tất cả tài sản của người
chồng để lại, chỉ trừ hương hỏa (Án lệ Nam
phần không công nhận người đàn bà có tài
sản riêng, do vậy người vợ góa có toàn
quyền hưởng dụng đối với tất cả tài sản do
người chồng để lại).
Về quyền hưởng dụng là quyền của
người không phải là chủ sở hữu tài sản
nhưng có quyền thu lợi dựa trên cơ sở thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định, thì theo quy
định tại Điều 577 Trung Kỳ hộ luật, quyền
hưởng dụng thu lợi có thể không có điều
kiện, có kỳ hạn, có thể có điều kiện. Theo
quy định tại Điều 578 Trung Kỳ hộ luật thì
quyền hưởng dụng được xác lập có thể có
kỳ hạn, có thể không có kỳ hạn hoặc có điều
kiện, nhưng tối đa đến hết cuộc đời người
hưởng dụng. Riêng đối với quyền hưởng
dụng được lập ra có kỳ hạn hay cho một
42
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
pháp nhân hưởng dụng, thì thời hạn tối đa
không quá 30 năm. Người hưởng dụng theo
quy định tại Điều 587 Trung Kỳ hộ luật còn
có quyền cho thuê, cho mượn tài sản mà
mình có quyền hưởng dụng. Ngược lại,
người hưởng dụng không có quyền yêu cầu
chủ sở hữu của tài sản mà mình hưởng dụng
phải hoàn trả một khoản tiền với lý do người
hưởng dụng đã chi phí làm tăng giá trị của
tài sản mà mình hưởng dụng (Điều 591).
Trong Dân luật Bắc kỳ, quyền hưởng
dụng cũng được xác lập trên cơ sở luật định
hoặc theo thỏa thuận (Điều 557). Quyền
hưởng dụng có thể vô điều kiện, hay có thời
hạn. Quyền hưởng dụng được xác lập có
điều kiện hoặc có thời hạn nhưng tối đa cũng
không vượt quá cuộc đời người hưởng dụng.
Theo Điều 559 Dân luật Bắc kỳ, thì người
hưởng dụng có quyền được hưởng tất cả hoa
lợi do việc sử dụng tài sản mang lại. Điều
571 quy định, người hưởng dụng không có
quyền yêu cầu chủ sở hữu tài sản do mình
hưởng dụng đền bù trong trường hợp người
hưởng dụng có công hoặc chi phí làm tăng
giá trị của tài sản do mình hưởng dụng.
Về quyền hưởng dụng, theo tính chất là
quan hệ vật quyền, Bộ Dân luật năm 1972
của Việt Nam Cộng hòa (chế độ Sài Gòn
trước năm 1975) cũng có quy định về quyền
dụng ích. Điều 417 quy định: “Quyền dụng
ích là một vật quyền cho phép hưởng dụng
và thu lợi một tài sản thuộc quyền sở hữu
của người khác trong một thời gian không
quá đời sống của người thụ hưởng, với trách
vụ giữ nguyên tài sản ấy”, và: “Người dụng
ích được hưởng mọi hoa lợi, dù là hoa lợi tự
nhiên, canh tác hay dân sự” (Điều 420).
Quyền của người dụng ích cũng tương tự
như quyền của chủ sở hữu tài sản trong quan
hệ về quyền địa dịch. Điều 425 quy định:
“Người dụng ích hưởng quyền địa dịch và
mọi quyền lợi liên quan đến bất động sản
dụng ích, y như chủ sở hữu”. Quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu và của người dụng
ích được quy định tại Điều 430: “Sở hữu chủ
không được phép có hành vi gì phương hại
đến quyền lợi của người dụng ích.
Về phần người dụng ích, cũng không
thể đòi bồi hoàn gì về những tu bổ đã làm
trong thời gian dụng ích dù những tu bổ này
làm cho giá trị tài sản gia tăng, khi mãn kết
quyền dụng ích.
Tuy nhiên, người dụng ích hoặc thừa kế
được quyền tháo dỡ những đồ trang trí đã
được gắn vào nơi dụng ích, nhưng những
nơi ấy phải được chỉnh lập lại như cũ”. Theo
quy định tại Điều 438, thì quyền dụng ích
chấm dứt trong trường hợp:
- Người dụng ích chết;
- Quyền dụng ích và quyền sở hữu được
xác lập ở một chủ thể;
- Tài sản dụng ích bị tiêu hủy;
- Người dụng ích không hưởng dụng tài
tài sản mình có quyền dụng ích trong thời
gian 20 năm.
Về quyền của người không phải là chủ
sở hữu tài sản nhưng lại có quyền hưởng
dụng tài sản của người khác theo quy định
của pháp luật hoặc theo thỏa thuận được quy
định trong Dân luật Bắc kỳ năm 1931, Dân
luật Trung kỳ năm 1936 và Bộ Dân luật Sài
Gòn năm 1972, để nhằm làm rõ một vấn đề
là quyền hưởng dụng hay còn gọi là quyền
dụng ích là nhu cầu của quan hệ vật quyền;
nó phát sinh một cách khách quan trong xã
hội và đã được các BLDS ở nước ta dưới
thời thực dân - phong kiến và trước năm
1975 ở miền Nam Việt Nam đều có những
quy định điều chỉnh quan hệ quyền hưởng
dụng. Tuy nhiên, BLDS năm 1995 và BLDS
năm 2005 của Cộng hoà XHCN Việt Nam
đã không có một quy định nào về quyền
hưởng dụng. Nguyên nhân của sự thiếu vắng
quy định này là cách đặt vấn đề và quan
điểm lập pháp chỉ nhằm quy định về quyền
sở hữu, coi quyền sở hữu như một quyền
43
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
năng tối cao. Về thực chất, quyền sở hữu tài
sản cũng chỉ có vai trò là một thành tố của
quan hệ vật quyền mà thôi. Vì vậy, nhiều
yếu tố có liên quan đến quyền sở hữu đã
không được chú ý và đề cập, chỉ tập trung
quy định về quyền sở hữu tài sản, mà không
quy định về những quan hệ khác có liên
quan đó là quan hệ vật quyền. Thực chất,
quyền bề mặt, quyền thuê dài hạn bất động
sản của người khác, quyền hưởng dụng tài
sản của người không phải là chủ sở hữu tài
sản, quyền dụng ích tài sản của người khác
và quyền địa dịch đều là những thành tố của
quan hệ vật quyền.
Khắc phục sự thiếu vắng những quy
định mang tính khách quan và phù hợp với
đời sống xã hội, BLDS năm 2015 đã quy
định về quyền hưởng dụng với 10 điều, điều
chỉnh quan hệ về quyền hưởng dụng tài sản
(từ Điều 257 đến Điều 266). Những quy
định về quyền hưởng dụng nhằm điều chỉnh
căn cứ xác lập quyền hưởng dụng do luật
định hoặc theo di chúc (Điều 258), hiệu lực
của quyền hưởng dụng được xác định,
quyền hưởng dụng được xác lập từ thời
điểm nhận chuyển giao tài sản, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan
có quy định khác (Điều 259), thời hạn
hưởng dụng dựa trên thỏa thuận của chủ sở
hữu tài sản và người hưởng dụng hoặc do
luật định nhưng tối đa đến hết cuộc đời
người hưởng dụng đầu tiên là cá nhân, đối
với người hưởng dụng là cá nhân; đối với
pháp nhân hưởng dụng đến khi pháp nhân
chấm dứt nhưng tối đa là 30 năm nếu pháp
nhân là người hưởng dụng đầu tiên. Như
vậy, thời hạn hưởng dụng tối đa đối với cá
nhân là đến thời điểm cá nhân qua đời và đối
với pháp nhân tối đa là 30 năm. Thời hạn
hưởng dụng do luật định và người hưởng
dụng có thể được chuyển giao, nhưng thời
điểm để tính thời hạn bắt đầu từ người
hưởng dụng đầu tiên.
Căn cứ vào các quy định về quyền của
người hưởng dụng (Điều 261), nghĩa vụ của
người hưởng dụng (Điều 262), quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản (Điều 263)
thì người hưởng dụng có các quyền:
- Khai thác, sử dụng tài sản và thu hoa
lợi, lợi tức;
- Yêu cầu chủ sở hữu sửa chữa tài sản
là đối tượng mình đang khai thác;
- Cho thuê quyền hưởng dụng đối với
tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng.
- Quyền hưởng hoa lợi, lợi tức trong
thời hạn khai thác tài sản là đối tượng của
quyền hưởng dụng. Đặc biệt, ngoài các
quyền trên, chủ thể hưởng dụng có nghĩa vụ
được quy định tại Điều 262 gồm: nhận tài
sản theo hiện trạng, thực hiện đăng ký nếu
có quy định; khai thác tài sản phù hợp với
công dụng, mục đích sử dụng tài sản; giữ
gìn, bảo quản tài sản như của chính mình;
bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo định kỳ và
thực hiện nghĩa vụ phù hợp với yêu cầu kỹ
thuật theo tập quán về bảo quản tài sản.
Hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu sau khi hết
thời hạn hưởng dụng.
Tương ứng với quyền và nghĩa vụ của
bên có quyền hưởng dụng, là quyền và nghĩa
vụ của chủ sở hữu tài sản theo quy định tại
Điều 263 và Điều 264 BLDS năm 2015, thì
chủ sở hữu vẫn có quyền định đoạt tài sản,
nhưng không được làm thay đổi quyền
hưởng dụng đã được xác lập. Như vậy,
quyền hưởng dụng của chủ thể không thay
đổi trong trường hợp tài sản là đối tượng của
quyền này vẫn tồn tại và có sự thay đổi về
chủ sở hữu trong các trường hợp chuyển
giao quyền sở hữu như bán, tặng cho, đổi,
để lại thừa kế tài sản. Chủ sở hữu tài sản
cũng có quyền đơn phương truất quyền
hưởng dụng trong trường hợp người hưởng
dụng vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của
mình như khai thác tài sản không đúng với
công dụng, mục đích, quản lý tài sản không
44
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
chu đáo dẫn đến tình trạng hư hỏng, xuống
cấp, hao phí Ngoài các quyền trên, chủ sở
hữu tài sản, theo quy định tại khoản 4 Điều
263 có nghĩa vụ sửa chữa tài sản để bảo đảm
không bị suy giảm đáng kể dẫn tới tài sản
không thể sử dụng được hoặc mất toàn bộ
công dụng, giá trị tài sản.
Quan hệ về quyền hưởng dụng tài sản là
một quan hệ pháp luật dân sự. Vì vậy, có các
điều kiện phát sinh, chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ của các bên chủ thể khi thời hạn
của quyền sử dụng đã hết; theo thỏa thuận
của các bên; người hưởng dụng trở thành
chủ sở hữu tài sản là đối tượng của quyền
hưởng dụng như: mua, được tặng cho, khấu
trừ nghĩa vụ dân sự, được thừa kế tài sản là
đối tượng đang hưởng dụng
Quyền hưởng dụng còn bị chấm dứt
trong trường hợp người hưởng dụng từ bỏ
hoặc không thực hiện quyền hưởng dụng
trong thời hạn do luật định hoặc tài sản là
đối tượng của quyền hưởng dụng không còn
hoặc theo quyết định của Tòa án và các căn
cứ khác do luật định.
Đối tượng của quyền hưởng dụng
không còn là trường hợp tài sản bị tiêu hủy
hoặc hưởng dụng mặt nước để khai thác
nuôi trồng thủy sản nhưng đã cạn kiệt do bị
sa mạc hóa, bị ô nhiễm nặng hoặc cây ăn
quả không còn khả năng ra hoa kết trái do
bị già cỗi, bị đổ gẫy, bị hỏa hoạn, diện tích
đồi rừng bị lở, xói mòn do mưa lũ cuốn
trôi
2. Quyền bề mặt
Quyền bề mặt được quy định từ Điều
267 đến Điều 273 BLDS năm 2015: “Quyền
bề mặt là quyền của một chủ thể đối với mặt
đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt
đất, mặt nước và lòng đất mà quyền sử dụng
đất đó thuộc về chủ thể khác”.
Về quyền bề mặt, có thể hiểu như quyền
sử dụng phần không gian trên bề mặt bất
động sản và phổ biến là đất đai để xây dựng
các công trình dân dụng hoặc công nghiệp
và sử dụng cả phần phía trên và phía dưới
mặt đất. Vì vậy, quyền bề mặt có một đặc
điểm của một vật quyền.
Bề mặt của một vật chất cần phải được
xác định về không gian ba chiều của nó.
Trong thực tế có rất nhiều sự kiện liên quan
đến việc sử dụng bề mặt của những vật kiến
trúc gắn liền với quyền sử dụng bề mặt đất
đai. Ngoài ra, còn những vật kiến trúc được
xây dựng trên bề mặt... Bề mặt còn được
hiểu theo nghĩa rộng hơn theo chiều thẳng
đứng, mặt cắt ngang và dọc của một vật kiến
trúc nhất định đang tồn tại trên mặt đất, mà
người có quyền sử dụng bề mặt đó không
phải là chủ sở hữu của tài sản.
Căn cứ xác lập quyền bề mặt theo quy
định tại Điều 268 BLDS năm 2015:
- Quyền bề mặt được xác lập theo quy
định của luật;
- Quyền bề mặt được xác lập theo thỏa
thuận, hoặc theo di chúc.
Quyền bề mặt được xác lập theo một
trong ba căn cứ trên và có hiệu lực theo quy
định tại Điều 269 BLDS năm 2015.
Theo quy định tại Điều 269, thì quyền
bề mặt có hiệu lực từ thời điểm bên có
quyền sử dụng đất chuyển giao mặt đất, mặt
nước, khoảng không trên mặt đất, mặt nước
và lòng đất cho chủ thể có quyền bề mặt (trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có
liên quan có quy định khác). Quyền bề mặt
có hiệu lực đối với mọi cá nhân, pháp nhân,
trừ trường hợp luật liên quan có quy định
khác.
Về thời hạn của quyền bề mặt: Do
quyền sử dụng đất có thời hạn nên thời hạn
của quyền bề mặt cũng được xác định theo
quy định của luật, theo thỏa thuận hoặc theo
di chúc nhưng không vượt quá thời hạn sử
dụng đất (Khoản 1 Điều 270). Nếu quyền bề
45
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
mặt đối với đất nông nghiệp để trồng cây
hàng năm, nuôi trồng thủy sản thì thời hạn
của quyền bề mặt loại đất này không quá 20
năm, thời hạn quyền bề mặt đối với đất ở là
quyền sử dụng lâu dài.
Theo quy định tại Điều 271 BLDS năm
2015 thì chủ thể của quyền bề mặt có quyền
khai thác, sử dụng mặt đất, mặt nước,
khoảng không gian trên măt đất, mặt nước
và lòng đất thuộc quyền sử dụng đất của
người khác để xây dựng công trình, trồng
cây, canh tác phù hợp với quy định pháp luật
về đất đai, xây dựng, quy hoạch, tài nguyên,
khoáng sản và quy định khác của pháp luật
có liên quan.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 271, thì
chủ thể quyền bề mặt có quyền sở hữu đối
với những tài sản được tạo lập trên đất. Tại
khoản 3, Điều 271 quy định trong trường
hợp bề mặt được chuyển giao một phần
hoặc toàn bộ thì chủ thể nhận chuyển giao
được kế thừa quyền bề mặt theo điều kiện
và trong phạm vi tương ứng.
Theo quy định tại Điều 272 thì quyền bề
mặt chấm dứt trong các trường hợp:
- Thời hạn hưởng quyền bề mặt đã hết;
- Chủ thể có quyền bề mặt và chủ thể có
quyền sử dụng đất là một. Chấm dứt quyền
bề mặt trong trường hợp này là khi người có
quyền bề mặt được chuyển giao quyền sở
hữu tài sản là đối tượng của quyền bề mặt
hoặc quyền sử dụng đất thông qua giao dịch
được tặng cho, mua bán, đổi tài sản, thừa kế
tài sản hoặc khấu trừ nghĩa vụ về tài sản;
- Chủ thể có quyền bề mặt từ bỏ quyền
của mình;
- Quyền sử dụng đất có quyền bề mặt bị
thu hồi theo quy định của Luật Đất đai;
- Theo thỏa thuận của các bên hoặc theo
quy định của luật.
Một trong những vấn đề phức tạp nhất
là việc xử lý tài sản khi quyền bề mặt chấm
dứt. Khoản 1 Điều 273 BLDS năm 2015 quy
định: “1. Khi quyền bề mặt chấm dứt, chủ
thể quyền bề mặt phải trả lại mặt đất, mặt
nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt
nước và lòng đất cho chủ thể có quyền sử
dụng đất theo thỏa thuận hoặc theo quy định
của pháp luật”. Theo quy định này, thì chủ
thể của quyền bề mặt phải xử lý tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình trước khi
quyền bề mặt chấm dứt, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác.
Trong trường hợp chủ thể quyền bề mặt
không xử lý tài sản trước khi quyền bề mặt
chấm dứt thì quyền sở hữu tài sản đó thuộc
về chủ thể có quyền sử dụng đất kể từ thời
điểm quyền bề mặt chấm dứt, trừ trường hợp
chủ thể có quyền sử dụng đất không nhận tài
sản đó. Trong trường hợp chủ thể có quyền
sử dụng đất không nhận tài sản mà phải xử
lý tài sản thì chủ thể có quyền bề mặt phải
thanh toán chi phí xử lý tài sản (Khoản 2
Điều 273).
BLDS năm 2005 có quy định về hợp
đồng thuê khoán tại Điều 501, có liên quan
đến quyền bề mặt. Tuy nhiên, hợp đồng thuê
khoán và hợp đồng thuê dài hạn không
thuộc về quyền bề mặt. Bởi vì hợp đồng
thuê khoán và hợp đồng thuê dài hạn được
xác lập theo sự thỏa thuận của bên có tài sản
và bên thuê khoán tài sản. Còn quyền bề mặt
được xác lập trên các căn cứ khác ngoài thỏa
thuận, là do luật định và theo di chúc. Điều
502 BLDS năm 2005 quy định về đối tượng
của hợp đồng thuê khoán liên quan đến
quyền sử dụng bề mặt như mặt nước chưa
khai thác. Khi đã xác định được đối tượng
của quyền bề mặt, thì việc xác định quyền
và nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản và quyền
và nghĩa vụ của người có quyền bề mặt
không còn là vấn đề phức tạp nữa. Theo đó,
khi giải quyết tranh chấp liên quan đến bề
mặt thì Tòa án có căn cứ để áp dụng và luật
sư bảo vệ quyền và lợi ích của thân chủ có
cơ sở pháp lý để viện dẫn, lập luận.
46
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Tuy nhiên, khi đề cập đến quyền bề mặt
thì sự cần thiết phải làm rõ những vấn đề có
liên quan:
- Quyền sử dụng bề mặt có thời hạn như
thế nào đối với mặt nước?
- Bề mặt của bất động sản được sử dụng
vào mục đích canh tác hay xây dựng? Xây
dựng công trình kiến trúc kiên cố hay bán
kiên cố trên bề mặt đất đai, mặt nước?
Trên thực tế hiện nay, nếu pháp luật quy
định về quyền bề mặt liên quan đến đất đai
sẽ có nhiều vấn đề cần phải được giải quyết
bằng pháp luật tương ứng.
Thứ nhất, đất đai, rừng núi, sông hồ
thuộc sở hữu của Nhà nước theo quy định
của Hiến pháp. Như vậy, nếu một cá nhân
hay tổ chức có quyền sử dụng đất do thuê
của Nhà nước lại xây dựng các công trình
kiến trúc trên diện tích đất thuê và sau đó cá
nhân, tổ chức này lại chuyển giao quyền sở
hữu đối với vật kiến trúc đó cho chủ thể
khác thông qua hợp đồng mua bán, đến khi
hết thời hạn sử dụng bề mặt, nhưng vật kiến
trúc thuộc quyền sở hữu của người mua, thì
quyền của người mua đối với bề mặt như thế
nào? Cũng tương tự như vậy, người sử dụng
mặt nước thông qua hợp đồng hay luật định
đã xây dựng bến cảng, cầu tàu nhưng khi hết
hạn sử dụng mặt nước thì các vật được xây
dựng như cầu, cảng, cầu tàu được giải quyết
như thế nào? Những vấn đề này cần được
hướng dẫn cách giải quyết.
Thứ hai, cách nay không lâu, nhiều
người đã có quan điểm là chỉ cho phép sở
hữu có thời hạn đối với căn hộ chung cư.
Quan điểm này vừa trái với nguyên tắc bảo
vệ quyền sở hữu nhà ở, vừa tạo điều kiện
cho nhà đầu tư xây dựng khu chung cư có
thể không mấy quan tâm đến chất lượng
công trình được bán cho người mua vì
người mua này chỉ có quyền sở hữu có thời
hạn. Nếu có quy định như vậy, thì sẽ có một
loạt nhà chung cư kém chất lượng được xây
dựng và quyền dân sự của người mua căn
hộ chung cư đó sẽ bị tước đoạt và thậm chí,
giá mua còn đắt hơn số tiền chi ra để thuê
nhà! Chúng tôi hoàn toàn không đồng tình
với quan điểm sở hữu có thời hạn, vì bản
chất của quyền sở hữu là tuyệt đối và vô
thời hạn khi tài sản là khách thể của quyền
đó vẫn tồn tại.
Quy định về quyền hưởng dụng và
quyền bề mặt không chỉ là vấn đề thay đổi
câu chữ hay cách gọi trong quan hệ tài sản,
mà quy định này tuân thủ phương pháp khoa
học biện chứng để xác định các thành tố
trong quan hệ vật quyền, mà quyền sở hữu
tài sản chỉ với vai trò là một thành tố trong
quan hệ đó. Quan hệ về quyền hưởng dụng
và quyền bề mặt trong BLDS năm 2015 là
một bước tiến trong hoạt động lập pháp ở
Việt Nam.
Những quy định về quyền hưởng dụng
và quyền bề mặt trong BLDS năm 2015 đã
mở ra những khả năng và tạo ra hiệu quả
điều chỉnh cao hơn của pháp luật dân sự,
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong giao
lưu dân sự liên quan đến bất động sản, trong
đó có đất đai.
Những quy định về quyền hưởng dụng
và quyền bề mặt tạo ra quyền của người
không phải là chủ sở hữu đất đai, bất động
sản khác có quyền sử dụng các loại tài sản
này trong xây dựng các vật kiến trúc, các
hệ thống giao thông, trồng trọt cây cối,
đồng thời những quy định này cũng tạo
điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong
quan hệ tài sản một cách có hiệu quả, tránh
lãng phí vì tài sản được khai thác tối đa, do
không tuyệt đối hóa quyền sở hữu tài sản.
BLDS năm 2015 đã khắc phục được những
khiếm khuyết trong BLDS năm 2005, là có
những quy định về quyền hưởng dụng và
quyền bề mặt n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_cac_quy_dinh_cua_phap_luat_ve_trach_nhiem_boi_thu.pdf