Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan bảo đảm an ninh môi trường biển
An ninh môi trường biển được bảo đảm bởi hoạt
động của nhiều cơ quan có thẩm quyền. Trong pháp
luật hiện hành có đưa ra trách nhiệm của các cơ quan từ
Chính phủ đến UBND các Cấp, các Bộ, Ngành trong
kiểm soát ô nhiễm môi trường biển. Tuy nhiên, diễn
biến gia tăng ô nhiễm môi trường biển trong thời gian
qua đã cho thấy sự yếu kém trong quản lý môi trường
biển, bộc lộ nhiều bất cập, chồng chéo, thiếu vắng liên
kết phối hợp giữa các ban ngành. Do đó, cần xây dựng
các quy chế tạo thống nhất hành động cho các cơ quan
hữu quan. Ngoài ra cũng cần đầu tư tài chính, nguồn
lực, trang thiết bị và đào tạo kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ cho các lực lượng chấp pháp như cảnh sát
biển, kiểm ngư, hải quan, bộ đội biên phòng cửa khẩu
trong bảo đảm an ninh môi trường biển. Các lực lượng
chức năng cần sử dụng nguồn nhân lực hợp lý, nâng
cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ đảm nhận
công tác chuyên trách về bảo đảm an ninh môi trường
biển, ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu khoa học công
nghệ trong giám sát, cảnh báo khí hậu thiên tai cũng
như trong việc phát hiện, xử lý sớm các tội xâm phạm
an ninh môi trường biển.
Phát triển bền vững các hoạt động du lịch,
kinh tế ven bờ
Để phát triển các hoạt động du lịch - kinh tế ven
bờ bền vững trong mối quan hệ với an ninh môi
trường biển, cần: (1) xây dựng quy hoạch và đầu tư
phát triển du lịch biển một cách thống nhất, có sự
liên kết giữa địa phương ven biển nhằm khai thác tối
đa hiệu quả các nguồn lực đầu tư, cơ sở hạ tầng phục
vụ du lịch biển; (2) đa dạng hoá, chuyên biệt hóa các
sản phẩm và dịch vụ du lịch biển thân thiện môi
trường; (3) sử dụng sự tiến bộ của công nghệ trong
nuôi trồng thủy hải sản nhằm xử lý, giảm thiểu các
chất thải từ khu vực này ra biển, nhân rộng các mô
hình nuôi đa dạng như tôm sú kết hợp với các loại cá
khác để môi trường nuôi bền vững, hạn chế dịch
bệnh; (4) tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bằng
nguồn quỹ ngân sách nhà nước cho các vùng nuôi,
phát triển khai thác thủy sản xa bờ; (5) ổn định đời
sống cho ngư dân yên tâm bám biển, ưu tiên dùng
những biện pháp đánh bắt thân thiện cho môi trường.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo đảm an ninh môi trường biển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
107 SỐ 64 (11-2020)
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM AN NINH
MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM
IMPROVE THE POLICIES AND LEGAL REGULATIONS
TO ENHANCE THE MARINE ENVIRONMENT SECURITY IN VIETNAM
NGUYỄN MẠNH CƯỜNG, LƯƠNG THỊ KIM DUNG*
Khoa Hàng hải, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
*Email liên hệ: dungltk.hh@vimaru.edu.vn
Tóm tắt
Hơn 70% diện tích bề mặt trái đất được bao bọc
bởi biển và đại dương nên biển là một bộ phận
quan trọng trong cấu thành môi trường sống của
con người. Biển không chỉ là môi trường cho hoạt
động giao thông thương mại, khai thác du lịch mà
còn cung cấp nguồn sống cho con người thông
qua nguồn lợi thủy hải sản và trữ lượng tài
nguyên thiên nhiên dồi dào. Đối với Việt Nam -
một quốc gia có chiều dài bờ biển dọc theo chiều
dài đất nước thì biển lại càng có vai trò quan
trọng trong chiến lược hướng ra biển, làm giàu từ
biển. Tuy nhiên, trong bối cảnh chuyển đổi kinh
tế, sinh thái, xã hội mạnh mẽ của Việt Nam hiện
nay, an ninh môi trường biển đang bị đe dọa bởi
nhiều hiểm họa. Bài viết tập trung vào việc nhận
diện các hiểm họa an ninh môi trường biển Việt
Nam, phân tích cơ chế, chính sách, pháp luật Việt
Nam về an ninh môi trường biển và đề xuất một
số giải pháp hữu hiệu cho tăng cường bảo đảm an
ninh môi trường biển Việt Nam.
Từ khóa: An ninh, môi trường biển.
Abstract
As more than 70% of the earth's surface area is
surrounded by seas and oceans, the sea is an
important part of the human habitat. The sea
provides not only an environment for commercial
transportation and tourism activities but also
aquatic resources and abundant natural resources.
For Vietnam which is a country with a coastline
along the length of the country, the sea plays an
important role in the strategy to help Vietnam
enrich from the sea. However, in the current context
of Vietnam's strong economic, ecological and
social transformation, the marine environment
security is being threatened. The paper focuses on
identifying threats to Vietnam's marine environment
security, analyzing Vietnam's mechanisms, policies
and laws on marine environment security and
proposing some effective solutions to enhance the
marine environment security.
Keywords: Security, marine environment.
1. Đặt vấn đề
Hoạt động của con người ngày càng tác động tiêu
cực tới môi trường biển và bảo đảm an ninh môi
trường biển trở thành chủ đề được nhiều học giả nước
ngoài đề cập tới, tiêu biểu như bài Is the Environment
a National Security Issue? của tác giả Marc A. Levy
đăng trên tạp chí Interational Security [9], bài
Maritime environmental security của tác giả Dario
Matika, Slavko Barić đăng trên tạp chí Scientific
Journal of Maritime Research [4], bài Indian Ocean
maritime security: energy, environmental and climate
challenges của tác giả Brahma Chellaney đăng trên
tạp chí Journal of the Indian Ocean Region [3]. Điểm
chung là hầu hết, các bài viết chỉ đề cập tới an ninh
môi trường biển tại một vùng biển, một đại dương hay
chính sách an ninh môi trường biển của một quốc gia
không phải là Việt Nam. Nghiên cứu về an ninh môi
trường biển Việt Nam chưa nhận được nhiều sự quan
tâm của các học giả trong nước, với không nhiều bài
viết, tiêu biểu có thể kể đến như bài “Pháp luật về an
ninh môi trường biển Việt Nam trước yêu cầu cấp
bách cần hoàn thiện” của TS. Nguyễn Lan Nguyên
đăng trên tạp chí Công Thương [8] hay “Tác động của
an ninh môi trường Biển Đông đối với chiến lược phát
triển bền vững của các quốc gia Đông Nam Á” của tác
giả Nguyễn Mậu Hùng [5], “Vì đại dương xanh: vấn
đề an ninh môi trường biển ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Mạnh Dũng đăng trong kỷ yếu tọa đàm quốc
tế về an ninh môi trường năm 2019 [1]. Do đó, nghiên
cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về an ninh môi
trường biển Việt Nam, nhận diện các hiểm họa để làm
cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính
sách, pháp luật về bảo đảm an ninh môi trường biển
Việt Nam là cần thiết.
2. Khái niệm an ninh môi trường biển
Với tư cách là một bộ phận thuộc phạm trù an
ninh phi truyền thống, vấn đề an ninh môi trường
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
108 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
ngày càng nhận được sự chú ý của cộng đồng quốc
tế trong bối cảnh tác động rõ nét của ô nhiễm, biến
đổi khí hậu, đói nghèo, thiên tai, dịch bệnh, cạn kiệt
tài nguyên, Trong nỗ lực xây dựng một định nghĩa
đầy đủ về an ninh môi trường, Liên hợp quốc đưa ra
quan điểm an ninh môi trường là sự cân bằng ổn
định của các yếu tố cấu thành môi trường nhằm đảm
bảo cho điều kiện sống và phát triển của con người
và các giống loài khác đang sinh sống trong môi
trường đó [2].
Theo cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ, an ninh
môi trường là sự chủ động giảm thiểu các mối đe dọa
của con người đến chức năng sinh quyển và các thành
phần khác của môi trường. Trong pháp luật Nga, an
ninh môi trường được định nghĩa là bảo vệ môi trường
và các lợi ích quan trọng của con người khỏi những
tác động tiêu cực phát sinh từ hoạt động kinh tế, các
thảm họa tự nhiên hay nhân tạo [10]. Tại điều 2 Luật
bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2014, có đưa ra
định nghĩa: “an ninh môi trường là việc bảo đảm
không có tác động lớn của môi trường đến sự ổn định
chính trị, xã hội và phát triển kinh tế của quốc gia”.
Biển là một bộ phận cấu thành của môi trường,
do đó, an ninh môi trường biển là một phần trong
tổng thể khái niệm an ninh môi trường, có gắn bó
chặt chẽ với vấn đề về biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi
trường, suy giảm hệ sinh thái,... Theo quan điểm của
tác giả Nguyễn Mạnh Dũng, an ninh môi trường biển
là mọi hoạt động liên quan đến biển đều không ảnh
hưởng lớn đến sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội,
đảm bảo sự phát triển ổn định bền vững của quốc gia
và toàn cầu [1].
Mặc dù hiện chưa có định nghĩa chính thức về an
ninh môi trường biển trong sự nghiên cứu của các
học giả nhưng qua những phân tích lý luận về an
ninh môi trường, theo quan điểm của nhóm tác giả
trong bài viết này, an ninh môi trường biển là việc
giảm thiểu các mối hiểm họa do tác động của con
người và tự nhiên đến môi trường biển nhằm duy trì
trạng thái ổn định của môi trường biển, góp phần
đảm bảo phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của
quốc gia.
Cũng cần có sự phân biệt giữa an ninh môi trường
biển với ô nhiễm môi trường biển. Tại khoản 4 điều 1
Công ước Luật biển năm 1982 có đưa ra khái niệm, “ô
nhiễm môi trường biển là việc con người trực tiếp
hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào
môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó
gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn
hại đến nguồn lợi sinh vật, đến hệ động vật, hệ thực
vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây
trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt
hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp
khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương
diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm
của biển”. Có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường biển, có thể là nguyên nhân tự nhiên (do sự bào
mòn, sạt lở núi đồi, phun trào của núi lửa, triều cường
nước dâng cao vào sâu gây ô nhiễm các dòng sông,)
hoặc nguyên nhân do con người (như xả thải rác, nước
thải từ hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, từ khai
thác dầu và sự cố dầu tràn trên biển). Ô nhiễm môi
trường biển làm mất trạng thái ổn định, cân bằng của
môi trường biển và do đó, trở thành hiểm họa an ninh
môi trường biển.
An ninh môi trường biển cũng có sự phân biệt
với an toàn hàng hải. Trong báo cáo năm 2008 của
Tổng thư ký Liên hợp quốc gửi tới Hội đồng Liên
hợp quốc với tiêu đề “Đại dương và luật của biển” có
nêu rõ “an toàn hàng hải là những giải pháp phòng
ngừa và giảm thiểu tới mức thấp nhất các tai nạn xảy
ra trên biển”. Như vậy, hệ lụy của mất an toàn hàng
hải khi xảy ra tai nạn hàng hải như sự cố tràn dầu
hay hàng hóa nguy hiểm vận chuyển từ tàu tràn ra
biển sẽ đe dọa tới trạng thái ổn định của môi trường
biển, trở thành hiểm họa an ninh môi trường biển.
3. Nhận diện các hiểm họa an ninh môi
trường biển Việt Nam
Hiểm hoạ là những sự kiện, sự cố hay hiện tượng
không bình thường có thể xảy ra bất cứ lúc nào, có
khả năng đe dọa đến tính mạng, tài sản và đời sống
của con người. Nguồn gốc của hiểm họa có thể đến
từ tự nhiên (bão lụt, động đất,) hoặc do hoạt động
của con người gây ra (ô nhiễm môi trường, rò rỉ chất
độc hại,). Đối với môi trường biển, các hiểm họa
đe dọa an ninh được hiểu là những sự cố gây ra bởi
tự nhiên hay hoạt động của con người, gây mất ổn
định, phá vỡ trạng thái cân bằng của môi trường biển.
Có thể nhận diện một số hiểm họa chính đang hiện
hữu đe dọa an ninh môi trường biển Việt Nam gồm:
3.1. Hoạt động vận tải biển
Sự phát triển của ngành vận tải biển đã đóng góp
một vị trí quan trọng đối với Việt Nam trong phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, hệ thống cảng biển ngày càng mở
rộng quy mô tiếp nhận lượng lớn tàu cập cảng đã trở
thành hiểm họa, chiếm đến 18% trong việc gây ô
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
109 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
nhiễm môi trường biển mà đặc biệt phải kể đến các sự
cố, tai nạn hàng hải. Mặc dù tai nạn hàng hải đã được
kiểm soát, giảm dần từ 60 vụ năm 2011, xuống còn 16
vụ vào năm 2018 và chưa đến 10 vụ được ghi nhận
năm 2019 nhưng các vụ đâm va, chìm đắm tàu lớn,
gây thiệt hại cho tính mạng, tài sản và ô nhiễm nghiêm
trọng môi trường biển lại gia tăng [6]. Đặc biệt sau
đâm va kéo theo sự cố tràn dầu, sự cố vỡ đường ống,
sự cố khi tàu chở hóa chất là nguyên nhân gây ô
nhiễm nặng nề môi trường biển.
Bên cạnh đó việc xả rác và nước thải sinh hoạt từ
tàu xuống biển, xả thải nước dằn tàu xử lý chưa tốt,
sử dụng sơn hà chống độc, thải phế liệu từ nạo vét
luồng lạch và xây dựng cảng, phá dỡ tàu biển,
cũng đang là những hiểm họa hiện hữu đe dọa an
ninh môi trường biển Việt Nam.
3.2. Biến đổi khí hậu
Theo đánh giá của các chuyên gia thì Việt Nam là
quốc gia xếp thứ bảy về rủi ro khí hậu dài hạn trên
thế giới. Biến đổi khí hậu đe dọa nghiêm trọng an
ninh môi trường biển, làm suy giảm và thu hẹp diện
tích hệ sinh thái vùng bờ, đặc biệt là diện tích rừng
ngập mặn. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới,
khoảng 17% diện tích sẽ bị ngập nếu đạt ngưỡng 5m
mực nước biển dâng thêm. Biến đổi khí hậu cùng
hiện tượng El-Nino đã dẫn đến hiện tượng “tẩy trắng
san hô”, bùng phát động thực vật phù du, làm thay
đổi môi trường theo chiều hướng bất lợi cho sự phát
triển của thảm cỏ biển, tăng chiều hướng axit hóa đại
dương dẫn tới tàn phá nhiều hệ sinh thái biển.
3.3. Hoạt động du lịch, kinh tế ven bờ và rác
thải ra biển
Lợi thế tiềm năng của đường bờ biển trải dài với
125 bãi tắm, 2.273 đảo ven bờ giúp ngành du lịch
đóng góp vị trí quan trọng trong phát triển đất nước.
Tuy nhiên, việc buông lỏng quản lý phát triển du lịch
khiến nhiều cảnh quan đặc sắc, hệ sinh thái biển tổn
thương, kèm theo một lượng lớn nước thải, rác thải
từ hoạt động du lịch trở thành hiểm họa của an ninh
môi trường biển.
Phát triển hoạt động kinh tế ven bờ trong đó có
nuôi trồng thủy sản với các chất thải, nước thải, hóa
chất, thuốc thú y thủy sản được xả ra biển đang là
hiểm họa báo động đe dọa môi trường biển. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, hiện cả nước có 1.126,2
nghìn ha nuôi trồng thủy hải sản. Bình quân 1ha nuôi
tôm xả ra khoảng 5 tấn chất thải rắn và hàng nghìn
m3 nước thải/năm thì với tổng diện tích trên 600.000
ha nuôi tôm, hàng năm xả ra gần 3 triệu tấn chất thải
rắn ra môi trường biển. Ngoài ra, khoảng hơn 70%
lượng rác thải từ đất liền ra biển cũng đang trở thành
một hiểm họa an ninh môi trường biển đặt trong bối
cảnh phát triển mạnh mẽ của các đô thị và cụm công
nghiệp (riêng các đô thị ven biển ước tính đã thải
14,12 triệu tấn rác hàng năm ra biển) [6].
3.4. Khai thác quá mức tài nguyên, sinh vật
biển
Biển Việt Nam có sự đa dạng sinh học với 1.600 loài
giáp xác, 2.500 loài sò trai, 2.030 loài cá và rất nhiều
loài chim biển [7]. Ngoài ra, biển Việt Nam còn có
các hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, rạn san hô,
hệ sinh thái đảo, bờ đá, cồn cát. Tuy nhiên, tình trạng
khai thác cạn kiệt với nhiều phương pháp tận diệt đã
làm cạn kiệt trữ lượng nguồn lợi thủy sản mà theo
chuyên gia, hiện trên 120 loài sinh vật biển cần đưa
vào Sách đỏ để bảo tồn. Chỉ một vụ nổ bom chai có
thể giết chết san hô trong vòng bán kính 0,5 - 1,5m,
để san hô ở chỗ đó phục hồi thì mất khoảng 5 - 10
năm [7]. Từ năm 2002, Viện Tài nguyên Thế giới đã
cảnh báo khoảng 80% rạn san hô ở vùng biển Việt
Nam nằm trong tình trạng rủi ro và nếu không có
hành động tích cực thì biển Việt Nam sẽ trở thành
“thủy mạc” không còn rạn san hô và cũng không còn
tôm cá nữa.
3.5. Các hiểm họa xuyên biên giới trong khu
vực Biển Đông
Hiểm họa xuyên biên giới được hiểu là những
hiểm họa mà tác động của nó có ảnh hưởng tới ít
nhất từ hai quốc gia trở lên. Chiếm gần 30% diện
tích Biển Đông, Việt Nam là một trong những quốc
gia chịu nhiều nguy cơ đối với các hiểm họa xuyên
biên giới đe dọa an ninh môi trường biển. Cấu trúc
tam giác san hô lớn hơn 500 loài và trữ lượng nguồn
thủy sản của hơn 3.000 loài sinh vật ngoài khơi biển
Đông là một phần di sản chung nhân loại. Tuy nhiên
hoạt động xây dựng cải tạo, bồi đắp các thực thể
nhân tạo của Trung Quốc trong thời gian qua đã chôn
vùi vĩnh viễn nhiều vùng san hô quanh khu vực. Việc
nạo vét sâu lớp cạn cát, sỏi đá trong xây dựng khiến
san hô phải mất hàng ngàn năm để phục hồi. Theo số
liệu thống kê của TS. John W. MCManus, đã có gần
12.000ha rạn san hô bị hủy diệt, gây thiệt hại trên 4 tỉ
USD mỗi năm [7]. Ngoài ra, sự cố tràn dầu xuyên
biên giới, chuyên chở chất thải trái phép, sự di
chuyển của các sinh vật ngoại lai theo hoàn lưu xâm
nhập vào biển Việt Nam cũng là những hiểm họa của
an ninh môi trường biển Việt Nam.
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
110 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
4. Pháp luật Việt Nam về an ninh môi trường
biển
Nhận thức được vai trò của an ninh môi trường,
đặc biệt là an ninh môi trường biển đối với sự phát
triển đất nước, Việt Nam đã trở thành thành viên của
nhiều văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng như: Công
ước Ramsar năm 1971, Công ước của UNESCO năm
1972, Công ước MARPOL 73/78, Công ước Luật
biển năm 1982, Công ước về đa dạng sinh học năm
1992, Ngoài ra, Quốc hội Việt Nam cũng thông
qua nhiều luật như: Luật Biển năm 2012, Luật Bảo
vệ môi trường năm 2014, Bộ luật Hàng hải năm
2015, Luật Tài nguyên, biển và hải đảo năm 2015
làm nền tảng cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo đảm
an ninh môi trường biển Việt Nam.
4.1. Quy định bảo vệ môi trường biển trong
hoạt động hàng hải
Việt Nam có trên 1.700 tàu vận tải, cùng với số
lượng tàu cá khoảng 130.000 tàu, tương ứng với
lượng nhiên liệu xăng dầu tiêu thụ khoảng gần 4
triệu tấn/năm. Có thể nói, đây chính là nguồn gây ra
ô nhiễm môi trường biển. Điều 35 Luật Biển Việt
Nam quy định rõ trách nhiệm của tàu thuyền, tổ chức,
cá nhân trong việc ngăn ngừa và hạn chế tối đa thiệt
hại có thể xảy ra cho môi trường biển khi vận chuyển,
bốc dỡ các loại hàng hóa, thiết bị có khả năng gây
hại. Cũng theo quy định tại điều 105 Bộ luật Hàng
hải Việt Nam, tàu biển chuyên dùng để vận chuyển
dầu mỏ, chế phẩm từ dầu mỏ hoặc hàng hóa nguy
hiểm khác bắt buộc phải có bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ tàu về ô nhiễm môi trường. Trên thực
tế, tất cả các loại tàu tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho môi
trường biển (như tàu chạy bằng năng lượng hạt
nhân,) khi cập cảng đều yêu cầu phải có bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ tàu về ô nhiễm môi
trường cũng như hợp đồng ký kết với các lực lượng
ứng phó sự cố môi trường để đảm bảo có đủ năng
lực ứng phó khi tàu xảy ra sự cố. Ngoài ra, Điều 50
của Luật BVMT và điều 45 của Luật tài nguyên, biển
và hải đảo năm có yêu cầu: “nước thải từ tàu thuyền,
giàn khoan, giàn khai thác dầu khí và các công trình,
thiết bị khác trên biển; bùn dầu và bùn chứa hợp chất
độc hại trong thăm dò, khai thác dầu khí, nước dằn
tàu, nước súc, rửa tàu, nước la canh phải được xử lý
đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường trước khi thải ra
biển”. Việc quản lý chặt chẽ các chất thải rắn phát
sinh từ tàu thuyền, từ các công trình trên biển, xử lý
bùn nạo vét luồng hàng hải, thu gom, phân loại, vận
chuyển và xử lý các chất thải trôi nổi trên biển và
ven bờ cũng là một yêu cầu bắt buộc trong bảo đảm
an ninh môi trường biển.Các cảng biển phải có hệ
thống tiếp nhận và xử lý chất thải sinh hoạt, dầu cặn
từ các phương tiện trên biển.
Một bước tiến mới trong bảo đảm an ninh môi
trường biển là việc Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
Kế hoạch thực hiện các phụ lục III, IV, V và VI của
Công ước MARPOL 1978 mà Việt Nam là thành viên.
Theo kế hoạch này, từ năm 2016 đến năm 2020,
Chính phủ thực hiện rà soát, hoàn thiện hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về ngăn ngừa ô nhiễm môi
trường do tàu gây ra và quản lý chất thải phát sinh từ
tàu trong hoạt động hàng hải, hoạt động thăm dò, khai
thác dầu khí ngoài khơi. Từ năm 2016 đến năm 2030,
Chính Phủ sẽ nghiên cứu cơ chế, chính sách đầu tư
xây dựng, nâng cấp các hệ thống tiếp nhận chất thải
tại các cảng biển theo quy định của Phụ lục III, IV, V
và VI của Công ước MARPOL; nghiên cứu, triển khai
áp dụng các trang thiết bị kiểm tra, kiểm soát chất thải
phát sinh từ tàu biển.
4.2. Quy định về ứng phó khắc phục sự cố tràn
dầu, hóa chất độc trên biển
Luật Tài nguyên, biển, đảo dành hẳn chương VI
với 15 điều quy định về vấn đề này. Luật khẳng định
“ứng phó, khắc phục sự cố tràn dầu, hóa chất độc
trên biển là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức và
cá nhân”. Việc ứng phó với sự cố phải được phân cấp
để đảm bảo sự thống nhất cũng như phù hợp với
trách nhiệm của các cơ quan như Ủy ban quốc gia
tìm kiếm cứu nạn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ
Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, chủ cơ sở gây ra sự
cố trong công tác ứng phó, khắc phục sự cố tràn dầu,
hóa chất độc trên biển. Luật cũng quy định rõ đối với
các phương tiện gây sự cố, bên cạnh nghĩa vụ phải
bồi thường thiệt hại thì phải áp dụng các biện pháp
nhằm làm sạch môi trường biển, trả lại hiện trạng
ban đầu. Những quy định này góp phần nâng cao ý
thức tuân thủ của các cá nhân, tổ chức trong bảo vệ
an ninh môi trường biển Việt nam.
Trong Luật bảo vệ môi trường năm 2014 tại Điều
112 quy định về trách nhiệm của từng đối tượng
trong khắc phục sự cố môi trường nói chung, bao
gồm cả sự cố tràn dầu trên biển.
Quy chế hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu ban
hành kèm theo Quyết định số 02/2013/QĐ-TTg ngày
14/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
111 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
“khắc phục hậu quả sự cố tràn dầu là các hoạt động
nhằm làm sạch đất, nước, hệ sinh thái khu vực bị
nhiễm dầu và các biện pháp hạn chế thiệt hại, phục
hồi môi sinh, môi trường sau sự cố tràn dầu”. Tuy
nhiên, trong Quy chế không có quy định cụ thể nào
về hoạt động này mặc dù Chương 4 có tiêu đề “Khắc
phục và giải quyết hậu quả sự cố tràn dầu”. Khắc
phục khiếm khuyết này, ngày 26/12/2018 Bộ Tài
nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số
33/2018/TT-BTNMT quy định quy trình khắc phục
hậu quả sự cố tràn dầu trên biển, hướng dẫn các địa
phương đánh giá mức độ tổn thương, ô nhiễm và yêu
cầu bồi thường sau sự cố. Thủ tướng Chính Phủ cũng
ban hành Quyết định 133/QĐ-TTg 2020 ngày
17/01/2020 về Kế hoạch quốc gia ứng phó sự cố tràn
dầu. Trong bản kế hoạch có dự kiến một số tình
huống sự cố tràn dầu và phân công rõ chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan chức năng trong công tác
phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố tràn dầu.
4.3. Quy định kiểm soát nguồn ô nhiễm từ đất
liền ra biển
Luật BVMT có quy định bảo vệ an ninh môi
trường biển trước hệ lụy từ phát triển du lịch sinh
thái kinh tế ven bờ. Điều 77 của Luật BVMT yêu cầu
cá nhân, tổ chức: “khi khai thác hoạt động du lịch
phải thực hiện các biện pháp lắp đặt, bố trí đủ và hợp
lý công trình vệ sinh, thiết bị thu gom chất thải, bố trí
nhân lực làm vệ sinh môi trường” nhằm hạn chế
giảm lượng rác thải từ hoạt động du lịch ra biển.
Riêng đối với các cá nhân, tổ chức nuôi trồng
thủy sản bắt buộc phải áp dụng các biện pháp xử lý
dịch bệnh, các giải pháp khoa học trong xử lý rác
thải. Thực tiễn nuôi trồng thủy sản cho thấy, khi xảy
ra dịch bệnh nếu không được xử lý đúng cách sẽ gây
ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển. Đối với các
cá nhân, tổ chức khi tiến hành “hoạt động thăm dò,
khai thác và chế biến khoáng sảnphải có nghĩa vụ thu
gom, xử lý nước thải, chất thải rắn, khí thải độc hại
và chịu sự giám sát của các cơ quan chức năng trong
bảo vệ môi trường biển”.
Ngoài ra, tại Điều 45, Điều 46 của Luật Tài
nguyên, biển và hải đảo cũng đưa ra yêu cầu áp dụng
các biện pháp xử lý chất xả thải từ hoạt động sản
xuất, hoạt động khai thác khoáng sản dưới sự giám
sát của cơ quan có thẩm quyền trong bảo vệ môi
trường biển. Nếu các cá nhân, tổ chức thực hiện
đúng các yêu cầu này sẽ góp phần giảm thiểu các tác
động từ nguồn rác thải từ đất liền đổ ra biển. Tuy
nhiên, thực tiễn thi hành cho thấy các quy định trên
không phát huy hiệu quả do chưa xây dựng một hệ
thống các yêu cầu về quy chuẩn kỹ thuật môi trường
phù hợp đối với chất thải trước khi đổ ra biển.
4.4. Quy định ứng phó với biến đổi khí hậu
Ứng phó với biến đổi khí hậu là trách nhiệm của
toàn xã hội, được khẳng định rõ trong Luật bảo vệ
môi trường. Một số biện pháp hữu hiệu được đưa ra
trong Luật bảo vệ môi trường có thể kể đến như
kiểm soát khí thải và các chất độc hại, sử dụng
nguồn năng lượng sạch an toàn cho môi trường,phát
triển các ngành khoa học và ứng dụng khoa học,
công nghệ trong xử lý rác thải.
4.5. Quy định kiểm soát nguồn ô nhiễm từ đất
liền ra biển
Quy định trách nhiệm của các cơ quan trong bảo
đảm an ninh môi trường biển.
Hệ thống các cơ quan bảo đảm an ninh môi
trường biển không được xác định riêng trong một
văn bản pháp luật, tuy nhiên, có thể hiểu hệ thống
các cơ quan này nằm trong hệ thống các cơ quan
quản lí nhà nước về môi trường, trong đó, Chính phủ
thống nhất quản lí nhà nước về bảo đảm an ninh môi
trường biển trên phạm vi cả nước, Ủy ban nhân dân
các cấp chỉ đạo, tổ chức thực hiện, tuyên truyền giáo
dục pháp luật và bảo đảm an ninh môi trường biển
trong phạm vi địa phương. Hệ thống các cơ quan có
thẩm quyền chuyên môn bao gồm; Hải quân nhân
dân, Quân đội nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ bảo
vệ các đảo; Bộ đội biên phòng Việt Nam; Cảnh sát
nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ tuần tra trên biển;
Các lực lượng hải quan, y tế, kiểm dịch làm nhiệm
vụ kiểm soát từng mặt công tác của ngành mình.
5. Đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luậtvề
bảo đảm an ninh môi trường biển Việt Nam
5.1. Hoàn thiện chính sách Chiến lược quốc
gia về an ninh môi trường biển Việt Nam
An ninh môi trường biển có mối quan hệ mật thiết
với an ninh quốc gia, do đó, ban hành Chiến lược quốc
gia về an ninh môi trường biển là cần thiết cho việc
thiết lập các thiết chế, hoàn thiện pháp luật và thực thi
có hiệu quả pháp luật về an ninh môi trường biển.
Nội dung bản Chiến lược quốc gia về an ninh
môi trường biển cần phải: (1) thể hiện tầm nhìn toàn
diện về an ninh môi trường biển, trong đó nêu rõ các
sáng kiến quốc tế cũng như trách nhiệm của quốc gia
trong bảo đảm an ninh môi trường biển, nhận định
lợi ích, vai trò quan trọng của an ninh môi trường
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
112 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
biển đối với sự phát triển đất nước; (2) nhận diện và
đánh giá các hiểm họa an ninh môi trường biển Việt
Nam; (3) xác định mục tiêu và kế hoạch hành động
cụ thể qua hệ thống các giải pháp như xây dựng pháp
luật, đào tạo nguồn nhân lực, huy động nguồn tài
chính, tăng cường hợp tác quốc tế, nhằm đảm bảo
tăng cường an ninh môi trường biển Việt Nam.
Việc hoàn thiện chính sách này nếu được thực
hiện sẽ mang lại tính khả thi và hiệu quả cao bởi khi
an ninh môi trường biển được đặt lên phạm trù của
an ninh quốc gia sẽ là cơ sở để các cơ quan thực thi
triển khai, huy động nguồn nhân lực, vật lực cho bảo
đảm an ninh môi trường biển.
5.2.Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo đảm
an ninh môi trường biển
Mặc dù pháp luật Việt Nam về đảm bảo an ninh
môi trường biển đã tương đối đầy đủ nhưng còn tồn
tại nhiều bất cập trong thực tiễn thi hành và cần hoàn
thiện theo hướng:
Thứ nhất, cần ban hành phụ lục các ngành sản
xuất, các lĩnh vực kinh doanh ít gây ô nhiễm môi
trường biển từ đó, có những chính sách ưu đãi riêng
về thuế, về hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ thủ tục vay vốn để
thu hút các doanh nghiệp đầu tư, góp phần bảo đảm
an ninh môi trường biển.
Thứ hai: hoàn thiện pháp luật về Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia đối với các chất xả thải. Hiện hệ thống
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia chung đối với chất xả
thải có sự không thống nhất với quy chuẩn kỹ thuật
đối với từng chất xả thải đặc thù (như nước thải từ
chế biến thép, chế biến tinh bột sắn, chế biến thủy
sản, chăn nuôi, bột giấy, thuốc dệt nhuộm..). Ví dụ,
quy chuẩn kỹ thuật chung yêu cầu nước thải phải
đảm bảo 33 chỉ tiêu thì quy chuẩn kỹ thuật đặc thù
về sản xuất thép chỉ quy định 24 chỉ tiêu và sản xuất
giấy chỉ có 8 chỉ tiêu phải đảm bảo trước khi xả thải
ra môi trường. Vì vậy, cần phải tiến hành rà soát, sửa
đổi, bổ sung các quy chuẩn đã ban hành cho thống
nhất và phù hợp với tình hình thực tiễn theo hướng
quy chuẩn áp dụng riêng phải yêu cầu cao hơn quy
chuẩn chung, có tính đến yếu tố phù hợp với các quy
chuẩn của quốc tế và các quốc gia khác.
Thứ ba: trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã
có quy định về quan trắc môi trường, thông tin về tình
hình môi trường, thanh tra, kiểm tra ô nhiễm môi
trường, nhưng chưa quy định cụ thể về phát hiện ô
nhiễm môi trường biển. Luật Tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo 2015 quy định cụ thể hơn, nhưng vẫn
thiếu các yếu tố như nguồn nhân lực, tài chính, cơ sở
vật chất, khoa học công nghệ đặc biệt công nghệ 4.0
nhằm bảo đảm phát hiện ô nhiễm môi trường biển. Do
đó cần bổ sung thêm các quy định nhằm phát hiện kịp
thời nguồn gây ô nhiễm môi trường biển cũng như các
phương pháp đánh giá mức độ thiệt hại mà nguồn ô
nhiễm gây ra cho môi trường biển.
Thứ tư: mặc dù đã có quy định về kiểm soát các
nguồn chất thải ra biển từ đất liền được ghi nhận tại
Điều 43 của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải
đảo nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ điều tra, thống
kê, đánh giá, phân loại ô nhiễm do nguồn phát thải từ
đất liền. Thực trạng xả thải rác nhựa quá lớn của Việt
Nam trong thời gian qua cho thấy cần bổ sung thêm
các quy định cụ thể hơn trong pháp luật môi trường
để kiểm soát chất thải nhựa trên biển.
Thứ năm: việc thực thi các biện pháp nhằm hạn chế,
kiểm soát ô nhiễm môi trường biển có liên quan đến
luật môi trường và các luật chuyên ngành trên đất liền.
Nhằm đảm bảo quá trình kiểm soát ô nhiễm biển được
thực thi một cách thống nhất cần bổ sung thêm trong
Luật bảo vệ môi trường và các luật chuyên ngành trên
đất liền các quy định về kiểm soát ô nhiễm rác thải phát
sinh từ đất liền ra biển cho phù hợp với Điều 43 của
Luật Tài nguyên Môi trường biển và hải đảo.
Thứ sáu: cần tăng nặng trách nhiệm pháp lý với
nhiều hình phạt nghiêm khắc hơn đối với hành vi
xâm hại an ninh môi trường biển. Hiện nay, chế tài
xử lý các hành vi vi phạm bao gồm trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.
Trên thực tế, số vụ việc bị xử phạt hành chính rất ít
và hiệu quả chưa cao. Trách nhiệm dân sự mờ nhạt,
khó khăn trong giải quyết bồi thường khi chưa xác
định được chính xác thiệt hại đối với môi trường
biển. Thực tiễn cho thấy có rất nhiều doanh nghiệp
gây ô nhiễm nặng nề cho an ninh môi trường biển
như vụ Vedan, vụ Formossa Hà Tĩnh, nhưng chế
tài xử phạt và yêu cầu bồi thường thiệt hại chưa cao.
Chưa có pháp nhân thương mại, tổ chức, cá nhân nào
bị xử lý hình sự về hành vi gây ô nhiễm môi trường
dù trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 có quy
định. Do đó, cần hoàn thiện các quy định tại điều
182, điều 185 Bộ luật hình sự Việt Nam, đồng thời
bổ sung thêm các quy định về phòng phòng tội phạm
và vi phạm pháp luật về môi trường liên quan đến
yếu tố nước ngoài. Bổ sung thêm thẩm quyền điều
tra theo Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự và thẩm
quyền tạm giữ người, tang vật, phương tiện vi phạm
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
113 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
hành chính theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính,
tăng thẩm quyền xử phạt cho lực lượng Cảnh sát
phòng chống tội phạm về ô nhiễm môi trường.
Thứ bảy: Cần sớm nghiên cứu xây dựng Luật
biến đổi khí hậu để triển khai phù hợp trong điều
kiện Việt Nam. Đây cũng là xu hướng của các quốc
gia trên thế giới.
5.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan bảo đảm an ninh môi trường biển
An ninh môi trường biển được bảo đảm bởi hoạt
động của nhiều cơ quan có thẩm quyền. Trong pháp
luật hiện hành có đưa ra trách nhiệm của các cơ quan từ
Chính phủ đến UBND các Cấp, các Bộ, Ngành trong
kiểm soát ô nhiễm môi trường biển. Tuy nhiên, diễn
biến gia tăng ô nhiễm môi trường biển trong thời gian
qua đã cho thấy sự yếu kém trong quản lý môi trường
biển, bộc lộ nhiều bất cập, chồng chéo, thiếu vắng liên
kết phối hợp giữa các ban ngành. Do đó, cần xây dựng
các quy chế tạo thống nhất hành động cho các cơ quan
hữu quan. Ngoài ra cũng cần đầu tư tài chính, nguồn
lực, trang thiết bị và đào tạo kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ cho các lực lượng chấp pháp như cảnh sát
biển, kiểm ngư, hải quan, bộ đội biên phòng cửa khẩu
trong bảo đảm an ninh môi trường biển. Các lực lượng
chức năng cần sử dụng nguồn nhân lực hợp lý, nâng
cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ đảm nhận
công tác chuyên trách về bảo đảm an ninh môi trường
biển, ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu khoa học công
nghệ trong giám sát, cảnh báo khí hậu thiên tai cũng
như trong việc phát hiện, xử lý sớm các tội xâm phạm
an ninh môi trường biển.
5.4. Phát triển bền vững các hoạt động du lịch,
kinh tế ven bờ
Để phát triển các hoạt động du lịch - kinh tế ven
bờ bền vững trong mối quan hệ với an ninh môi
trường biển, cần: (1) xây dựng quy hoạch và đầu tư
phát triển du lịch biển một cách thống nhất, có sự
liên kết giữa địa phương ven biển nhằm khai thác tối
đa hiệu quả các nguồn lực đầu tư, cơ sở hạ tầng phục
vụ du lịch biển; (2) đa dạng hoá, chuyên biệt hóa các
sản phẩm và dịch vụ du lịch biển thân thiện môi
trường; (3) sử dụng sự tiến bộ của công nghệ trong
nuôi trồng thủy hải sản nhằm xử lý, giảm thiểu các
chất thải từ khu vực này ra biển, nhân rộng các mô
hình nuôi đa dạng như tôm sú kết hợp với các loại cá
khác để môi trường nuôi bền vững, hạn chế dịch
bệnh; (4) tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bằng
nguồn quỹ ngân sách nhà nước cho các vùng nuôi,
phát triển khai thác thủy sản xa bờ; (5) ổn định đời
sống cho ngư dân yên tâm bám biển, ưu tiên dùng
những biện pháp đánh bắt thân thiện cho môi trường.
6. Kết luận
Phát triển kinh tế biển bền vững với đảm bảo an
ninh môi trường biển đã trở thành xu thế tất yếu của
Việt Nam. Việc nhận diện các hiểm họa đối với an
ninh môi trường biển là cấp bách giúp cho các nhà
hoạch định chính sách, các nhà lập pháp Việt Nam có
những giải pháp xây dựng pháp luật và ưu tiên nguồn
lực cho phòng ngừa, ứng phó với từng hiểm họa.
Nhóm tác giả hy vọng rằng thông qua việc phân tích
các quy định của pháp luật đồng thời đề xuất những
giải pháp, kiến nghị được nêu trong bài báo sẽ góp
phần nhỏ bé trong việc tăng cường bảo đảm an ninh
môi trường biển Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Mạnh Dũng “Vì đại dương xanh: vấn đề
an ninh môi trường biển ở Việt Nam”, Kỷ yếu hội
thảo quốc tế “An ninh môi trường ở khu vực
Đông Nam Á trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế,
sinh thái và xã hội”, năm 2019.
[2] Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (1994),
Báo cáo Phát triển Con người,
tnamesesummary.pdf,
[3] Brahma Chellaney , Indian Ocean maritime
security: energy, environmental and climate
challenges, Journal of the India Ocean Region
Volum6, Issue 2, Climate Change and the Indian
OceanRegion. 2010.
[4] Dario Matika, Slavko Barić, Scientific, Maritime
environmental security, Journal of Maritime
Research 30, pp.19-27 © Faculty of Maritime
Studies Rijeka, 2016.
[5] Nguyễn Mậu Hùng, Tác động của an ninh môi
trường Biển Đông đối với chiến lược phát triển
bền vững của các quốc gia Đông Nam Á, Kỷ yếu
hội thảo quốc tế “An ninh môi trường ở khu vực
Đông Nam Á trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế,
sinh thái và xã hội”, năm 2019.
[6] https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=717.
[7] John W. MCManus, “Offshore Coral Reef
Damage, Overfishing, and Paths to Peace in the
South China Sea”, The Seaminar Document of
the International Confence: Environmental and
maritime security for a blue South China Sea,
Haiphong City, Vietnam, October 2016.
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
114 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
[8] Nguyễn Lan Nguyên, “Pháp luật về an ninh môi
trường biển Việt Nam trước yêu cầu cấp bách
cần hoàn thiện” tạp chí Công Thương.
at-ve-an-ninh-moi-truong-bien-viet-nam-truoc-ye
u-cau-cap-bach-can-hoan-thien-63510.htm
[9] Marc A Levy, Is the Environment a National
Security Issue?, Interational Security Vol.20.
No2, the MIT Press, pp.35-62. 1995.
[10] Richard H. Ullman, Redefining Security in
International Security, The MIT Press, 1983.
Ngày nhận bài: 21/04/2020
Ngày nhận bản sửa lần 01: 22/05/2020
Ngày nhận bản sửa lần 02: 15/06/2020
Ngày duyệt đăng: 20/06/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_chinh_sach_phap_luat_ve_bao_dam_an_ninh_moi_truon.pdf