Thứ nhất, cần khẩn trương sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật CGCN năm 2006
nhằm thúc đẩy hoạt động CGCN, tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đổi mới
công nghệ, góp phần phát triển thị trường
công nghệ cũng như hội nhập kinh tế quốc
tế; đồng thời, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước đối với hoạt động CGCN. Việc sửa
đổi, bổ sungLuật CGCN cần tập trung vào
các nội dung sau:
- Bổ sung các quy định về CGCN trong
nước, trong đó nghiên cứu kỹ quyền sở hữu
và quyền sử dụng đối với kết quả nghiên cứu
có sử dụng nguồn vốn nhà nước, quy định
về CGCN từ kết quả nghiên cứu sử dụng
vốn ngân sách nhà nước;
- Bổ sung quy định về CGCN từ Việt
Nam ra nước ngoài và sửa đổi một số quy
định về CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam,
nhất là việc CGCN từ các dự án FDI cho các
doanh nghiệp trong nước;
- Sửa đổi, bổ sung quy định về cơ chế
phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa
phương trong quá trình quản lý công nghệ
và CGCN; sửa đổi quy định về phân cấp
quản lý hoạt động CGCN; sửa đổi để tăng
cường công tác hậu kiểm trong quản lý công
nghệ và CGCN;
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện chính sách và pháp luật về chuyển giao công nghệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÑNH SAÁCH
HOAÂN THIÏÅN CHÑNH SAÁCH VAÂ PHAÁP LUÊÅT
VÏÌ CHUYÏÍN GIAO CÖNG NGHÏÅ
PHạM CHí TruNg*
* TS, Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Văn phòng Quốc hội.
1 Văn kiện Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam, phần Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020
(năm 2011) tr. 15.
1. Hệ thống chính sách, pháp luật liên
quan đến chuyển giao công nghệ
Hệ thống văn bản có liên quan trực tiếp
và gián tiếp đến CGCN rất đồ sộ. Cụ thể, có
tới 13 bộ luật, luật liên quan trực tiếp và 311
văn bản nghị định, thông tư hướng dẫn,
trong đó quan trọng nhất là Luật CGCN
được Quốc hội khóa XI ban hành năm 2006,
kỳ họp thứ 10. Đây là đạo luật chuyên ngành
điều chỉnh hoạt động CGCN, tạo môi trường
pháp lý thuận lợi để thúc đẩy việc đổi mới
công nghệ, phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Cũng từ năm 2006 đến nay, Quốc hội,
Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã
ban hành, sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản
quy phạm pháp luật (VBQPPL), trong đó có
các quy định điều chỉnh hoạt động CGCN
như Luật Khoa học và Công nghệ
(KH&CN), Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT),
Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Công
nghệ cao, Luật Sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
nước ta giai đoạn 2011-2020 đã xác định1:
“Xây dựng và thực hiện chương trình đổi
mới công nghệ quốc gia, có chính sách
khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu công
nghệ hiện đại, trước hết là đối với những
ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn; ưu tiên
phát triển công nghệ cao”.
Quyết định số 1244/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 25/7/2011 về phê
duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ
Trong thời gian qua, hệ thống chính sách và pháp luật về chuyển giao công
nghệ (CGCN) đã tạo nền tảng cơ bản cho hoạt động quản lý nhà nước về
CGCN, cũng như hình thành hành lang pháp lý quan trọng để phát triển,
điều chỉnh các quan hệ và hoạt động CGCN của các doanh nghiệp và tổ
chức trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong việc
ban hành chính sách và pháp luật liên quan tới chuyển giao công nghệ, do
vậy, cần phải có các giải pháp hoàn thiện.
34
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
35
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
CHÑNH SAÁCH
KH&CN chủ yếu giai đoạn 2011-2015 nhấn
mạnh: “Hình thành hệ thống các tổ chức
dịch vụ, tư vấn, môi giới CGCN; các tổ chức
xúc tiến chuyển giao, thương mại hóa công
nghệ, hỗ trợ thực thi bảo hộ quyền SHTT,
khai thác, sử dụng sáng chế trong các trường
đại học, viện nghiên cứu. Tổ chức hoạt động
có hiệu quả, nâng cao giá trị thực của các
chợ công nghệ, thiết bị và sàn giao dịch
công nghệ”.
Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày
11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Chiến lược phát triển KH&CN giai
đoạn 2011-2020 cũng nhấn mạnh: “Phát
triển hệ thống các tổ chức dịch vụ CGCN,
các chợ công nghệ và thiết bị. Bảo đảm thực
thi pháp luật về SHTT, khai thác và sử dụng
có hiệu quả các sáng chế. Tổ chức triển lãm
giới thiệu các thành tựu đổi mới và sáng tạo
KH&CN”.
2. Một số hạn chế trong việc ban hành
chính sách, pháp luật liên quan tới
chuyển giao công nghệ
Văn bản pháp luật còn trùng lắp, chồng
chéo, nhiều kẽ hở
Chương V Luật CGCN năm 2006 có quy
định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước đối với hoạt động CGCN. Theo đó, Luật
phân cấp quản lý hoạt động CGCN cho từng
cơ quan như: trách nhiệm của Bộ KH&CN
(Điều 52), trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang
bộ (Điều 53), trách nhiệm của UBND các cấp
(Điều 54). Để quản lý hoạt động CGCN, các
cơ quan này phải ban hành nhiều VBQPPL.
Vì thế, hoạt động CGCN chịu sự điều chỉnh
của rất nhiều VBQPPL ở nhiều cấp, trong
nhiều lĩnh vực liên quan như: KH&CN, nông
nghiệp và phát triển nông thôn, kinh tế, kế
hoạch và đầu tư, xây dựng gây khó khăn
trong quá trình thực hiện.
Khoản 1 Điều 25 Luật CGCN năm 2006
quy định: “Các bên tham gia giao kết hợp
đồng CGCN có quyền đăng ký hợp đồng
CGCN tại cơ quan quản lý nhà nước về
KH&CN có thẩm quyền làm cơ sở để được
hưởng các ưu đãi theo quy định của luật này
và các quy định khác của pháp luật có liên
quan”. Như vậy, nếu không cần thiết, doanh
nghiệp thực hiện dự án có nội dung CGCN
sẽ không phải đăng ký hợp đồng CGCN.
Về thẩm tra các dự án đầu tư, khoản 1
Điều 47 Luật Đầu tư năm 2005 quy định:
“Đối với dự án đầu tư trong nước, các dự án
có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô vốn
đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên và
dự án thuộc Danh mục dự án đầu tư có điều
kiện thì phải thực hiện thủ tục thẩm tra để
được cấp Giấy chứng nhận đầu tư”. Như
vậy, những dự án đầu tư dưới 300 tỷ, không
nằm trong danh mục hạn chế đầu tư đều
không thuộc diện bắt buộc phải làm thủ tục
cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Do đó, những
dự án này sẽ không phải làm thủ tục thẩm
tra công nghệ. Với điều kiện thực tiễn hiện
nay, doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, nên
hầu hết các dự án đầu tư dưới 300 tỷ đều có
hiện tượng doanh nghiệp nhập, CGCN cũ
hoặc lạc hậu, không đáp ứng được các tiêu
chuẩn về môi trường. Đây cũng là một kẽ
hở của chính sách và pháp luật ở nước ta
trong công tác quản lý CGCN.
Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Đầu tư năm 2005, đã quy định không rõ
ràng về thẩm tra công nghệ đối với các dự
án đầu tư. Điểm b, khoản 1, Điều 45 về Hồ
sơ thẩm tra quy định: “Giải trình kinh tế -
kỹ thuật bao gồm các nội dung chủ yếu: mục
tiêu, quy mô, địa điểm đầu tư, vốn đầu tư,
tiến độ thực hiện dự án, nhu cầu sử dụng đất;
giải pháp công nghệ và giải pháp về môi
trường”. Tuy nhiên, tại khoản 3, Điều 45,
không có nội dung thẩm tra công nghệ mà
chỉ có các nội dung về sự phù hợp với quy
hoạch, nhu cầu sử dụng đất, tiến độ thực
hiện dự án và giải pháp về môi trường.
Chính vì vậy, tại các địa phương, thường là
36
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
CHÑNH SAÁCH
các Sở Kế hoạch và Đầu tư triển khai thực
hiện theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP
trước, sau đó mới chuyển cho Sở KH&CN
thẩm tra công nghệ. Vì vậy, hầu hết các dự
án đầu tư tại các địa phương, khi chuyển qua
bước thẩm tra công nghệ đều đã được cấp
Giấy chứng nhận đầu tư, ngược lại với
Thông tư số 10/2009/TT-BKHCN ngày
24/9/2009 của Bộ KH&CN về Hướng dẫn
thẩm tra công nghệ các dự án đầu tư.
Điểm b khoản 1, Điều 32 Luật Đầu tư
năm 2014, về thẩm quyền quyết định chủ
trương đầu tư của UBND cấp tỉnh có quy
định: “Dự án có sử dụng công nghệ thuộc
Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao
theo quy định của pháp luật về CGCN”.
Trong khi đó, điểm e, khoản 6, Điều 33 Luật
Đầu tư năm 2014 quy định về hồ sơ, trình tự,
thủ tục quyết định chủ trương đầu tư của
UBND cấp tỉnh: “Đánh giá về công nghệ sử
dụng trong dự án đầu tư đối với dự án quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 32 của Luật
này”. Như vậy, nếu quy định chỉ dự án có sử
dụng các công nghệ thuộc Danh mục công
nghệ hạn chế chuyển giao theo quy định về
pháp luật CGCN mới được đánh giá, thẩm
định thì sẽ rất bất cập. Bởi, nhiều dự án có sử
dụng công nghệ khác không nằm trong danh
mục hạn chế chuyển giao sẽ không được
đánh giá, thẩm định xem trình độ công nghệ
của dự án đó ở mức nào, cao hay thấp, có gây
tác động xấu tới môi trường hay không?
Văn bản pháp luật ban hành chưa kịp
thời và đồng bộ
Mặc dù đã ban hành nhiều chính sách,
pháp luật để điều chỉnh hoạt động CGCN,
nhưng một số văn bản vẫn chưa được ban
hành kịp thời và đồng bộ, có tình trạng luật chờ
nghị định, nghị định chờ thông tư. Đơn cử:
Luật CGCN ban hành ngày 29/11/2006
nhưng tới ngày 31/12/2008, Chính phủ mới
được ban hành Nghị định số 113/2008/NĐ-
CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật CGCN; tương tự,
Thông tư số 10/2009/TT-BKHCN của Bộ
KH&CN về hướng dẫn thẩm tra công nghệ
các dự án đầu tư tới ngày 24/4/2009 mới ban
hành; Quyết định số 1244/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN chủ
yếu giai đoạn 2011 - 2015, nhưng tới
25/7/2011 mới được ban hành là quá chậm.;
Thông tư số 20/2014/TT-BKHCN ngày
15/7/2014 quy định việc nhập khẩu máy
móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua
sử dụng đã được Bộ KH&CN ban hành
ngày 15/7/2014. Tuy nhiên, Thông tư này
đã ngừng hiệu lực thi hành theo Quyết định
số 2279/QĐ-BKHCN ngày 29/8/2014 của
Bộ trưởng Bộ KH&CN. Cho tới ngày
13/11/2015, Bộ KH&CN mới ban hành
Thông tư số 23/2015/TT-BKHCN để thay
thế cho Thông tư số 20/2014/TT-BKHCN
và từ ngày 01/7/2016, thông tư này mới có
hiệu lực. Như vậy, suốt trong thời gian dài,
một khoảng trống pháp luật đã tồn tại trong
lĩnh vực nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây
chuyền công nghệ đã qua sử dụng.
Nhiều quy định trong văn bản pháp luật
có nội dung khó khả thi
Tại khoản 1 Điều 6, Nghị định
số133/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của
Chính phủ về hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều của Luật CGCN có nội dung:
“Hợp đồng CGCN không bắt buộc phải
đăng ký”, do đó, các doanh nghiệp khi
nhập công nghệ về để sản xuất, kinh doanh
đã không đăng ký với đơn vị quản lý tại địa
bàn, nên việc quản lý công nghệ được
chuyển giao đã không khả thi.
Về Nghị định số 49/2009/NĐ-CP ngày
21/5/2009 của Chính phủ quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong hoạt động CGCN
và Thông tư số 04/2010/TT-BKHCN của Bộ
KH&CN hướng dẫn thực hiện một số điều
của Nghị định số 49/2009/NĐ-CP thì theo
báo cáo của các địa phương và bộ ngành, hầu
như chưa có trường hợp nào vi phạm trong
CGCN bị xử phạt vi phạm hành chính.
37
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
CHÑNH SAÁCH
2 Báo cáo công tác thi hành Luật CGCN và đánh giá thực trạng hoạt động CGCN - Bộ KH&CN, tháng 12/2016.
Thông tư số 35/2012/TT- BKHCN ngày
16/12/2012 của Bộ KH&CN hướng dẫn chế
độ Báo cáo thống kê cơ sở về CGCN. Tuy
nhiên, việc báo cáo thống kê này tại các
doanh nghiệp và các tổ chức KH&CN trong
cả nước còn ít được thực hiện. Đơn cử như
tại tỉnh Thừa Thiên Huế, qua khảo sát phát
phiếu (mẫu phiếu kèm theo thông tư số
35/2012/TT- BKHCN) tới 100 doanh nghiệp
và tổ chức KH&CN trên địa bàn tỉnh năm
2012 thì chỉ có 01 doanh nghiệp và 01 tổ
chức KH&CN có hoạt động CGCN.
Như vậy, trong thời gian vừa qua, công
tác tạo lập, xây dựng chính sách và hệ thống
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ và thúc
đẩy hoạt động CGCN ở nước ta vẫn còn
những tồn tại và bất cập.
3. Những tồn tại trong việc thực thi pháp
luật về chuyển giao công nghệ
Quá trình thực thi chính sách, pháp luật
về CGCN để phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế ở nước ta đã bộc lộ một số
tồn tại như sau:
Về đăng ký và cấp giấy đăng ký hợp
đồng CGCN
Qua số liệu từ Bộ KH&CN cho thấy,
sau 8 năm thực hiện Luật CGCN, Bộ
KH&CN mới chỉ cấp Giấy chứng nhận đăng
ký cho gần 300 hợp đồng CGCN (Bảng 1),
trong đó có tới 252 hợp đồng CGCN thuộc
các dự án FDI, chỉ có khoảng 40 hợp đồng
CGCN là CGCN độc lập, trong đó có 11 hợp
đồng của cơ quan, Tổng công ty Nhà nước.
(xem Bảng 1)
Trên thực tế, các hoạt động CGCN được
thực hiện còn lớn hơn con số hợp đồng
CGCN đã đăng ký trên đây rất nhiều.
Nguyên nhân của việc còn ít các hợp đồng
CGCN được đăng ký chủ yếu là:
Thứ nhất, trong Luật CGCN năm 2006
quy định các tổ chức, cá nhân có quyền tự
nguyện đăng ký hợp đồng CGCN, không bắt
38
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
CHÑNH SAÁCH
3 Báo cáo công tác thi hành Luật CGCN và đánh giá thực trạng hoạt động CGCN - Bộ KH&CN, tháng 12/2016.
4 Như trên.
buộc đăng ký. Các chủ dự án đầu tư thường
lồng ghép với hợp đồng kinh tế mua sắm
thiết bị mà không tiến hành ký kết hợp đồng
CGCN riêng. Thêm vào đó, có chính sách
ưu đãi từ việc đăng ký, nhưng trên thực tế
không có ưu đãi cụ thể. Do vậy, các tổ chức,
cá nhân không được hưởng lợi gì từ việc
đăng ký hợp đồng CGCN.
Thứ hai, mặc dù thủ tục đăng ký hợp
đồng CGCN hiện nay cũng đơn giản nhưng
lại chưa triển khai việc đăng ký trực tuyến,
do đó vẫn chưa tạo điều kiện tối ưu cho tổ
chức, cá nhân khi đăng ký hợp đồng CGCN.
Các doanh nghiệp FDI đăng ký hợp
đồng CGCN chủ yếu là để thực hiện các
hoạt động CGCN giữa các công ty mẹ ở
nước ngoài với công ty con ở Việt Nam
nhằm mục đích đưa chi phí CGCN vào sản
xuất để giảm lợi nhuận và giảm thuế. Bởi,
về nguyên tắc, giá trị công nghệ chuyển giao
trong hợp đồng vẫn được tính vào vốn đầu
tư và hạch toán chi phí CGCN vào chi phí
thực tế của doanh nghiệp, nhưng thực tế
triển khai hoạt động CGCN như thế nào thì
chưa quản lý được. Bằng cách này, doanh
nghiệp có thể khai tăng vốn đầu tư để tăng
chi phí, chuyển giá nhằm trốn thuế.
Như vậy, công tác đăng ký và cấp giấy
chứng nhận đăng ký hợp đồng CGCN trong
thời gian qua còn nhiều tồn tại và bất cập, chưa
phù hợp và chưa theo kịp với thực tiễn của tình
hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Các quy định đối với CGCN trong nước
Theo Bộ KH&CN, từ năm 2007 đến
nay, trong tổng số 300 hợp đồng CGCN
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký, chỉ có
19 hợp đồng CGCN trong nước3. Điều này
cho thấy các viện nghiên cứu, các tổ chức,
cá nhân khi tiến hành các hoạt động CGCN
vẫn chưa thực sự quan tâm đến việc đăng ký
hợp đồng CGCN.
Như vậy, Luật CGCN năm 2006 mới
chú trọng đến các hoạt động CGCN từ nước
ngoài vào Việt Nam, còn CGCN trong nước,
đặc biệt là chuyển giao kết quả nghiên cứu
giữa các viện, trường với doanh nghiệp chưa
được đặt ra một cách chi tiết và cụ thể. Hơn
nữa, việc chuyển giao và lan tỏa công nghệ
giữa các dự án FDI tới các doanh nghiệp
trong nước còn chưa đạt được như kỳ vọng;
tỷ lệ nội địa hóa thấp, nền công nghiệp hỗ
trợ chưa được phát triển xứng tầm. Trong
khi đó, các hoạt động này hiện nay đang rất
cần có chính sách và hành lang pháp lý cụ
thể để khuyến khích, thúc đẩy.
Các quy định đối với CGCN từ Việt
Nam ra nước ngoài
Những năm vừa qua, làn sóng đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam tăng mạnh. Tính đến hết năm
2015, có khoảng 900 dự án của các doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ra 70 quốc gia và
vùng lãnh thổ, với tổng vốn đầu tư của nhà
đầu tư Việt Nam đạt trên 21 tỷ đô la Mỹ4.
Đầu tư gắn liền với công nghệ, nên mặc
dù Việt Nam là nước đang phát triển nhưng
một số công nghệ trong nước nghiên cứu và
ứng dụng đã được quốc tế quan tâm và đánh
giá cao. Tuy nhiên, trong Luật CGCN năm
2006 chưa quy định rõ và chi tiết về việc
CGCN ra nước ngoài, đặc biệt đối với những
công nghệ được nghiên cứu từ ngân sách nhà
nước. Do đó, trong giai đoạn vừa qua, Bộ
KH&CN cũng như các địa phương trong cả
nước chưa có hợp đồng CGCN nào của Việt
Nam ra nước ngoài được đăng ký và cấp giấy
chứng nhận đăng ký hợp đồng CGCN.
Dịch vụ CGCN
Hoạt động của các tổ chức dịch vụ
CGCN như giám định công nghệ, đánh giá
công nghệ, định giá công nghệ góp phần
không nhỏ vào thành công của hoạt động
39
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
CHÑNH SAÁCH
5 Báo cáo số 94/BC-UBND ngày 15/4/2013 về tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về chuyển giao công nghệ trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn gửi Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
CGCN nói riêng và sự phát triển của thị
trường công nghệ nói chung. Tuy nhiên, các
tổ chức này phải là các tổ chức có đủ điều
kiện mới hoạt động tốt vì bản thân công
nghệ là một loại hàng hoá vô hình, loại hình
dịch vụ chuyển CGCN, trong đó dịch vụ
đánh giá công nghệ, dịch vụ định giá công
nghệ và dịch vụ giám định công nghệ là loại
hình dịch vụ kinh doanh có điều kiện.
Luật CGCN năm 2006 đã quy định, chỉ
có hoạt động giám định công nghệ mới là
hoạt động dịch vụ có điều kiện, còn đánh giá
công nghệ, định giá công nghệ, không
được coi là hoạt động dịch vụ có điều kiện.
Do hành lang pháp luật còn chưa quy định
rõ, vì vậy, trong thời gian qua, việc quản lý,
vận hành các tổ chức dịch vụ CGCN còn
gặp không ít những khó khăn và lung túng.
Công nghệ hạn chế chuyển giao
Luật CGCN năm 2006 có quy định việc
cấp Giấy phép CGCN đối với công nghệ
thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển
giao, tuy nhiên, thông tin từ Bộ KH&CN
cũng như các địa phương trong cả nước cho
thấy, trong thời gian qua, chúng ta cũng
chưa thẩm định một trường hợp nào.
Cơ chế phối hợp trong quá trình quản
lý công nghệ và CGCN
Do có sự chồng chéo và kẽ hở trong hệ
thống pháp luật về CGCN, nên trong thực
tế, cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN
chỉ quản lý phần ngọn, vì khi chủ đầu tư dự
án hoặc đối tác nước ngoài liên doanh hoặc
đầu tư 100% vốn tại Việt Nam nộp hồ sơ cho
cơ quan chức năng để đề nghị được cấp
Giấy chứng nhận đầu tư, nhưng các cơ quan
quản lý KH&CN rất ít khi được hỏi ý kiến.
Do đó, việc thẩm định phần công nghệ, thiết
bị, máy móc của dự án bị xem nhẹ.
Chính vì vậy, cơ quan quản lý về công
nghệ không nắm được luồng công nghệ từ
nước ngoài vào Việt Nam ngay từ khâu đầu
vào, trừ những dự án đầu tư có điều kiện và
những dự án đầu tư do Thủ tướng chấp
thuận chủ trương đầu tư. Chỉ đến khi dự án
được cấp Giấy phép đầu tư, các bên lập hợp
đồng CGCN để đăng ký với cơ quan quản
lý KH&CN, lúc đó, cơ quan quản lý về công
nghệ mới biết. Đến thời điểm này, dù là
công nghệ hiện đại hay lạc hậu thì nhà đầu
tư cũng đã được cấp Giấy chứng nhận đầu
tư rồi.
Như vậy, trong thời gian qua tại các địa
phương, cơ chế phối hợp giữa sở kế hoạch
và đầu tư, ban quản lý các khu công nghiệp,
sở KH&CN, sở công thương, cơ quan thuế,
hải quan còn chưa được rõ ràng và ăn
khớp, chủ yếu là phối hợp khi có vụ việc, cơ
chế hậu kiểm còn ít được thực hiện. Do đó,
một số công tác như việc thẩm định và cho ý
kiến về công nghệ của các dự án đầu tư còn
bị xem nhẹ. Báo cáo từ các địa phương cho
thấy5: nhiều công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi
trường đã được chuyển giao và lắp đặt tại các
dự án. Từ cuối năm 2011, Trung Quốc thông
báo sẽ loại bỏ 2.255 doanh nghiệp sử dụng
công nghệ, thiết bị và máy móc lạc hậu. Nếu
chúng ta không có những hành lang pháp lý
đủ mạnh, đặc biệt là tình trạng thẩm định các
dự án đầu tư có công nghệ đi kèm không
được đẩy mạnh thì những công nghệ lạc hậu
sẽ “chảy” vào nước ta.
Thẩm quyền ban hành 03 danh mục
công nghệ
Luật CGCN năm 2006 quy định đối với
03 Danh mục công nghệ khuyến khích
chuyển giao, Danh mục công nghệ hạn chế
chuyển giao và Danh mục công nghệ cấm
chuyển giao thuộc thẩm quyền của Thủ
tướng Chính phủ. Bộ KH&CN ban hành
Thông tư hướng dẫn tiêu chí và quy trình
xác định 03 danh mục nêu trên.
40
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
CHÑNH SAÁCH
6 Báo cáo công tác thi hành Luật CGCN và đánh giá thực trạng hoạt động CGCN - Bộ KH&CN, tháng 12/2016.
7
Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua, do
sự tiến bộ của KH&CN, sự biến đổi của
kinh tế -xã hội, khi cần phải bổ sung, cập
nhật 03 danh mục trên cho sát thực, phải
tuân thủ các quy trình ban hành văn bản quy
phạm pháp luật nên mất rất nhiều thời gian,
do đó, làm ảnh hưởng đến việc triển khai và
thực thi Luật CGCN.
Công tác quản lý hoạt động CGCN tại
địa phương
Hệ thống pháp luật mà đặc biệt là Luật
CGCN năm 2006 và các văn bản hướng dẫn
đã có, tuy nhiên, trên thực tế, công tác quản
lý hoạt động CGCN chỉ thực sự được triển
khai tại 30 địa phương trên tổng số 63
tỉnh/thành phố trong cả nước6.
Quy định về xác định giá trị tài sản vô
hình nói chung, quyền SHTT nói riêng
Hoạt động CGCN không những liên
quan trực tiếp máy móc, thiết bị mà còn liên
quan tới các loại tài sản vô hình, quyền
SHTT như: các sáng chế, phát minh, công
thức, quy trình, mô hình, kỹ năng, bí mật
kinh doanh, thương hiệu, tên thương mại,
nhãn hiệu hàng hóa, đặc điểm nhận dạng sản
phẩm, các số liệu kỹ thuật.
Đối với các nước phát triển, việc mua
bán tài sản vô hình là quyền SHTT phổ biến
từ nhiều năm nay. Ở Việt Nam, quan hệ này
đã xuất hiện và việc định giá tài sản vô hình
trong doanh nghiệp đã được áp dụng. Chẳng
hạn, trong quá trình góp vốn liên doanh,
nhãn hiệu “P/S” được định giá là 5,3 triệu
USD, nhãn hiệu “333” được định giá là 9
triệu USD7. Tuy nhiên, pháp luật nước ta
chưa có quy định về phương pháp xác định
giá trị tài sản vô hình nói chung, quyền
SHTT nói riêng. Do đó, trong thời gian vừa
qua, việc xác định giá trị tài sản vô hình và
quyền SHTT trong các hoạt động CGCN
thực sự còn nhiều vướng mắc, nhất là trong
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
4. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện
Việc hoàn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật về CGCN và thực hiện tốt những
quy định đó trong thực tiễn đang là những
đòi hỏi cấp bách đối với Việt Nam, khi mà
nền kinh tế đang thực hiện việc tái cấu trúc
và hội nhập kinh tế.
Chúng tôi kiến nghị một số giải pháp
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong
CGCN ở nước ta trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, cần khẩn trương sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật CGCN năm 2006
nhằm thúc đẩy hoạt động CGCN, tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đổi mới
công nghệ, góp phần phát triển thị trường
công nghệ cũng như hội nhập kinh tế quốc
tế; đồng thời, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước đối với hoạt động CGCN. Việc sửa
đổi, bổ sungLuật CGCN cần tập trung vào
các nội dung sau:
- Bổ sung các quy định về CGCN trong
nước, trong đó nghiên cứu kỹ quyền sở hữu
và quyền sử dụng đối với kết quả nghiên cứu
có sử dụng nguồn vốn nhà nước, quy định
về CGCN từ kết quả nghiên cứu sử dụng
vốn ngân sách nhà nước;
- Bổ sung quy định về CGCN từ Việt
Nam ra nước ngoài và sửa đổi một số quy
định về CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam,
nhất là việc CGCN từ các dự án FDI cho các
doanh nghiệp trong nước;
- Sửa đổi, bổ sung quy định về cơ chế
phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa
phương trong quá trình quản lý công nghệ
và CGCN; sửa đổi quy định về phân cấp
quản lý hoạt động CGCN; sửa đổi để tăng
cường công tác hậu kiểm trong quản lý công
nghệ và CGCN;
- Sửa đổi quy định về thẩm quyền ban
hành 03 danh mục công nghệ theo hướng
(Xem tiÕp trang 53)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_chinh_sach_va_phap_luat_ve_chuyen_giao_cong_nghe.pdf