2.4 Hoàn thiện quy định về phân loại
khách hàng theo mức độ rủi ro
Cần bổ sung quy định cụ thể cho đối
tượng báo cáo về việc phân loại khách hàng
theo mức độ rủi ro, các tiêu chuẩn mức độ
cụ thể để xác định khách hàng có điều kiện
gì sẽ được coi là khách hàng có mức độ
rủi ro cao, khách hàng có rủi ro thấp hơn,
tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng tuân thủ
quy định pháp luật về phân loại khách hàng
theo mức độ rủi ro, góp phần nâng cao công
tác phòng, chống rửa tiền qua các tổ chức
tín dụng.
5 KYC: nhận biết khách hàng; CDD: cập nhật thông tin khách hàng
2.5 Hoàn thiện quy định về thẩm quyền,
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan
phòng, chống rửa tiền
Để đảm bảo hiệu quả quản lý trong quá
trình thực hiện pháp luật về phòng, chống
rửa tiền cũng như việc thực hiện thẩm quyền
ký kết các quy chế, biên bản ghi nhớ trao đổi
thông tin với các cơ quan phòng, chống rửa
tiền trong và ngoài nước, cần sửa đổi Luật
năm 2012 theo hướng bổ sung mở rộng chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN và
cơ quan phòng, chống rửa tiền.
2.6 Hoàn thiện quy định trách nhiệm
của tổ chức tín dụng trong hoạt động
phòng, chống rửa tiền
Nhằm nâng cao trách nhiệm của các
tổ chức tín dụng trong hoạt động phòng,
chống rửa tiền, cần luật hóa trách nhiệm của
nhân viên các tổ chức tín dụng trong công
tác phòng, chống rửa tiền. Điều này đã được
thực hiện ở một số nước như Mỹ và cộng
đồng châu Âu. Ngoài những cá nhân, pháp
nhân có hành vi rửa tiền một cách trực tiếp,
nhân viên ngân hàng vô ý hay cố ý tiếp tay
cho hành vi rửa tiền qua tổ chức tín dụng
đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 194 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện luật phòng, chống rửa tiền năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đinh Xuân Thảo*
Vũ Hồng Anh**
* PGS. TS. Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp.
** PGS. TS. Viện Nghiên cứu Lập pháp.
HOÀN THIỆN LUẬT PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN NĂM 20121
1 Bài viết có sử dụng kết quả nghiên cứu của đề tài cấp bộ: “Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền qua tổ chức
tín dụng trong điều kiện hội nhập quốc tế - Cở sở lý luận và thực tiễn” do PGS. TS. Đinh Xuân Thảo làm chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Ngày 18/6/2012, Luật Phòng, chống rửa tiền đã được Quốc hội
thông qua, đánh dấu một mốc quan trọng trong việc hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý về phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam, thể chế
hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần minh
bạch hóa nền tài chính tiền tệ quốc gia, đáp ứng nhu cầu hội nhập
quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Trải qua 5 năm thi hành, Luật
Phòng, chống rửa tiền năm 2012 bộc lộ những bất cập hạn chế nhất
định gây ảnh hưởng đến hoạt động phòng, chống rửa tiền ở nước
ta. Vì vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện Luật Phòng, chống rửa tiền
năm 2012 là rất cần thiết.
Abstract
On 18 June, 2012, the Law on Prevention of Money Laundering
was adopted by the National Assembly, which marked a milestone
in the improvement of the legal framework on money laundering
prevention and controlling in Vietnam. It is the policy of the Party
and the State of Vietnam for further transparency of the national
monetary and financial system, meeting the needs of international
integration on money laundering prevention and controlling. For
five years of its enforcement, the Law on Prevention of Money
Laundering of 2012 has revealed a number of certain limited
constraints that affect the prevention and controlling of money
laundering in our country. Therefore, it is necessary to review and
study for further improvement of the Law on Prevention of Money
Laundering of 2012.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: hoàn thiện pháp luật, Luật
Phòng, chống rửa tiền năm 2012
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 09/10/2018
Biên tập : 15/10/2018
Duyệt bài : 22/10/2018
Article Infomation:
Keywords: law improvement; Law on
Prevention of Money Laundering of
2012
Article History:
Received : 09 Oct. 2018
Edited : 15 Oct. 2018
Approved : 22 Oct. 2018
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 23(375) T12/2018
Phòng, chống rửa tiền thông qua các tổ chức tín dụng là hoạt động phát hiện ra các yếu tố cơ bản của hoạt động rửa
tiền như bản chất, mục đích, cách thức cũng
như các giai đoạn của quy trình rửa tiền, đồng
thời thực hiện nghiệp vụ, theo quy định pháp
luật, để phá vỡ liên kết trong các giai đoạn
rửa tiền. Hoạt động phòng, chống rửa tiền
thông qua các tổ chức tín dụng gồm hai giai
đoạn: giai đoạn phòng và giai đoạn chống.
Mỗi giai đoạn đều có vai trò nhất định, có
mối liên hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau,
trong đó, giai đoạn phòng ngừa thường được
thực hiện trước giai đoạn chống.
Hiểu một cách chung nhất, phòng
ngừa hiệu quả hoạt động phòng, chống rửa
tiền thông qua các tổ chức tín dụng chính là
những biện pháp được triển khai nhằm hạn
chế lượng tiền “bẩn” lớn, không cho “xâm
nhập” hay hòa trộn vào các loại nguồn vốn
“sạch” khác qua các tổ chức tín dụng. Giai
đoạn chống có thể được hình dung là giai
đoạn phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm
đối với hành vi rửa tiền thông qua các tổ
chức tín dụng. Nhận thức rõ tầm quan trọng
của pháp luật trong cuộc đấu tranh phòng,
chống rửa tiền thông qua các tổ chức tín
dụng, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật
phòng, chống rửa tiền năm 2012.
1. Kết quả đạt được và những hạn
chế của Luật Phòng, chống rửa tiền
năm 2012
Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012
(Luật năm 2012), đánh dấu một mốc quan
trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý về phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam, góp
phần minh bạch hóa nền tài chính tiền tệ
quốc gia, thể chế hoá đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu hội
nhập quốc tế và tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục
hoàn thiện các quy định pháp luật về phòng,
chống rửa tiền.
Nhằm hướng dẫn đầy đủ các biện pháp
phòng, chống rửa tiền cũng như tạo điều
kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong
quá trình thực hiện, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã ban hành các văn bản hướng
dẫn Luật như: Nghị định số 116/2013/NĐ-
CP ngày 4/10/2013 quy định chi tiết một số
điều của Luật Phòng, chống rửa tiền năm
2012; Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày
31/12/2013 hướng dẫn một số quy định về
phòng, chống rửa tiền; Thông tư 31/2014/
TT-NHNN ngày 11/11/2014, có hiệu lực từ
ngày 26/12/2014, sửa đổi và bổ sung một
số điều của Thông tư 35/2013/TT-NHNN;
Quyết định số 20/2013/QĐ-Ttg quy định
mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải
báo cáo.
Việc ban hành Luật năm 2012 đã đạt
được một số kết quả sau:
- Luật năm 2012 đã đáp ứng được nhu
cầu nâng cao công tác phòng, chống rửa tiền
và mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp
luật về phòng, chống rửa tiền so với Nghị
định số 74/2005/NĐ-CP của Chính phủ.
Việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung những
bất cập, thiếu sót của Nghị định số 74/2005/
NĐ-CP đã góp phần nâng cao hiệu quả công
tác phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam, minh
bạch hóa nền tài chính quốc gia và đáp ứng
được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Luật năm 2012 đáp ứng yêu cầu của
quá trình hội nhập quốc tế, tiến đến thực
hiện đầy đủ các chuẩn mực, cam kết quốc
tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền mà
Chính phủ Việt Nam đã ký và tham gia. Cụ
thể, năm 2007, Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Nhóm Châu Á - Thái
Bình Dương về chống rửa tiền (APG), theo
đó, Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ thành viên của APG về thực hiện
40 Khuyến nghị về chống rửa tiền và 09
Khuyến nghị đặc biệt về chống tài trợ khủng
bố của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về
chống rửa tiền (FATF). Năm 2008, APG đã
tiến hành đánh giá cơ chế phòng, chống rửa
tiền và chống tài trợ cho khủng bố của Việt
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 23(375) T12/2018
Nam theo công thức 40+9 của FATF. Mặc
dù Việt Nam đã có những nỗ lực trong công
tác phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ
khủng bố, song mức độ tuân thủ và thực hiện
các khuyến nghị mà FATF đề ra còn nhiều
hạn chế. Trên cơ sở kết quả đánh giá trên,
APG đã đưa ra 138 kiến nghị mà Việt Nam
cần thực hiện để hoàn thiện hệ thống chống
rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, trong đó
có kiến nghị phải sửa đổi khung pháp lý của
Việt Nam trong lĩnh vực phòng, chống rửa
tiền và chống tài trợ khủng bố cho phù hợp
với các chuẩn mực quốc tế mà cụ thể là cần
nhanh chóng xây dựng Luật Phòng, chống
rửa tiền, Luật Chống tài trợ khủng bố.
- Luật năm 2012 đáp ứng các hành
động được nêu trong Kế hoạch hành động
mà FATF đưa ra cho Việt Nam. Kể từ năm
2010, Việt Nam đã và đang chịu sự rà soát
của Nhóm xem xét các vấn đề hợp tác quốc
tế (ICRG) thuộc FATF. Thông qua Báo cáo rà
soát sơ bộ và Báo cáo rà soát sâu gửi cho Việt
Nam, ICRG đều nhận định, Việt Nam phải
tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về chống
rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, trong đó
một nội dung quan trọng là xây dựng Luật
Phòng, chống rửa tiền, Luật Phòng, chống
khủng bố. Tại Hội nghị toàn thể của Lực
lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) diễn ra
tại Pháp từ ngày 17-22/10/2010, Chính phủ
Việt Nam đã cam kết ban hành Luật Phòng,
chống rửa tiền2.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu
trên, qua thực tiễn thi hành, Luật năm 2012
đã bộc lộ một số hạn chế sau đây:
Một là, hạn chế trong việc xác định
phạm vi điều chỉnh.
Luật năm 2012 tập trung chủ yếu vào
phòng, chống rửa tiền thực hiện thông qua
hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, rửa tiền
2 Nguyễn Hữu Nghĩa, Đào Quốc Tính, Nguyễn Thị Thúy Ngọc, Nguyễn Thị Minh Thơ, Trần Thị Hoài Thu (2014), Pháp
luật về phòng, chống rửa tiền, Đặc san tuyên truyền pháp luật, (01), tr. 24, 25.
được thực hiện thông qua rất nhiều kênh như
đầu tư vào nhà hàng, khách sạn, kinh doanh
bất động sản, chứng khoán và ngân hàng chỉ
là một kênh trong số những con đường mà
tội phạm lợi dụng để rửa tiền.
Mặc dù Luật năm 2012 đã thể hiện
được cam kết của Việt Nam đối với quốc tế
trong lĩnh vực chống tài trợ khủng bố, tuy
nhiên, việc đưa nội dung chống tài trợ khủng
bố vào trong Luật Phòng, chống rửa tiền là
chưa thực sự hợp lý. Bởi lẽ, nội dung chính
của Luật Phòng, chống rửa tiền cần tập
trung vào vấn đề chống rửa tiền; những vấn
đề cụ thể xử lý tài trợ khủng bố phải được
quy định trong Luật Phòng, chống khủng bố
năm 2013. Hơn nữa, hai đạo luật này có thời
gian ban hành khác nhau, do đó sẽ tạo nên
sự chênh nhau khi những vấn đề cần phải
xử lý.
Hai là, hạn chế trong việc quy định
một số khái niệm, thuật ngữ.
Khái niệm “rửa tiền” được quy định
tại khoản 1 Điều 4 Luật năm 2012 vừa bao
gồm những hành vi được nêu tại Bộ luật
Hình sự đồng thời cũng bao gồm các hành vi
“Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan
đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm
pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc
tài sản do phạm tội mà có” hay “Chiếm hữu
tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết
rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp
pháp hóa nguồn gốc tài sản”. Về bản chất,
những hành vi này là tội “đồng phạm” hoặc
tội “chiếm đoạt, sử dụng tiền, tài sản do
người khác phạm tội mà có” đã được quy
định trong Bộ luật Hình sự, điều này có thể
dẫn đến việc trùng lặp nội dung giữa các
điều khoản.
Mặt khác, Công ước của Liên hợp
quốc về Chống tội phạm có tổ chức xuyên
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 23(375) T12/2018
quốc gia (Công ước Palermo) chỉ yêu cầu
các quốc gia phải hình sự hóa các hành vi
liên quan chứ không xác định hành vi nào
là rửa tiền, hành vi nào là đồng phạm. Điểm
khác nhau của pháp luật hình sự Việt Nam
so với pháp luật hình sự quốc tế là: tội phạm
“rửa tiền” tại Việt Nam có tất cả các tội
phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự
là tội phạm nguồn, trong khi phần lớn các
nước và chuẩn mực quốc tế, cũng chỉ giới
hạn tội phạm nguồn của tội rửa tiền ở những
tội phạm nghiêm trọng, có tạo nên nguồn
tiền phạm tội mà thôi3.
Bên cạnh đó, các quy định về nhận
biết, cập nhật thông tin khách hàng; chủ sở
hữu hưởng lợi; đánh giá rủi ro khách hàng;
bảo đảm bí mật thông tin; người có ảnh
hưởng chính trị; giám sát đặc biệt giao dịch
chưa thật sự phù hợp, còn gây khó khăn cho
các tổ chức tín dụng trong quá trình thực
hiện.
Ba là, hạn chế trong quy định về cập
nhật thông tin nhận biết khách hàng
Điều 9 Luật năm 2012 quy định về
những thông tin chính về khách hàng mà đối
tượng báo cáo cần phải nhận biết, bao gồm
thông tin về chính khách hàng, thông tin về
chủ sở hữu hưởng lợi đứng đằng sau khách
hàng đó và mục đích của khách hàng trong
mối quan hệ với đối tượng báo cáo. Tuy
nhiên thực tế cho thấy, một số thông tin hiện
nay chưa được các đối tượng báo cáo quan
tâm và thực hiện đúng. Ví dụ, thông tin về
nghề nghiệp, chức vụ, số điện thoại, địa chỉ
nơi ở hiện tại của khách hàng là người Việt
Nam, địa chỉ nơi cư trú của khách hàng là
người nước ngoài thường được coi là những
thông tin nhạy cảm và ít khi được khách hàng
cung cấp vì sợ bị lạm dụng cho những hoạt
động phạm tội. Vì vậy, cần phải xây dựng
được một môi trường bình đẳng trước pháp
3 Nguyễn Hữu Nghĩa, Đào Quốc Tính, Nguyễn Thị Thúy Ngọc, Nguyễn Thị Minh Thơ, Trần Thị Hoài Thu (2014), Pháp
luật về phòng, chống rửa tiền, Đặc san tuyên truyền pháp luật, (01), tr. 35.
luật cho tất cả các đối tượng báo cáo và điều
quan trọng là gây dựng được lòng tin trong
xã hội về sự tôn trọng nguyên tắc bảo mật
thông tin cá nhân, chỉ sử dụng thông tin cho
những mục đích được pháp luật cho phép và
phải có những biện pháp xử lý nghiêm khắc
đối với tổ chức, cá nhân để lộ thông tin.
Bốn là, bất cập về phân loại khách
hàng theo mức độ rủi ro
Điều 12 Luật năm 2012 quy định về
việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi
ro, nhưng không xác định tiêu chí để xác
định khách hàng có mức độ rủi ro cao, khách
hàng có mức độ rủi ro thấp. Việc xếp mức
độ cao, thấp hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn
cảnh thực tế, đặc điểm tổ chức hệ thống và
khả năng của chính đối tượng báo cáo cũng
như yêu cầu của cơ quan chức năng theo
từng thời kỳ.
Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 12 Luật
năm 2012 quy định: “Đối với khách hàng có
mức độ rủi ro thấp, đối tượng báo cáo có thể
áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng
ở mức độ thấp hơn nhưng phải bảo đảm thu
thập được đầy đủ thông tin về khách hàng
quy định tại Điều 9 của Luật này”. Như vậy,
về bản chất, đối tượng báo cáo buộc phải
phân loại khách hàng của mình ở mức rủi
ro thấp. Bởi lẽ, nếu phân loại rủi ro cao hơn,
đối tượng báo cáo buộc phải áp dụng các
biện pháp nhận biết cao hơn (với mức rủi ro
trung bình) hoặc nhận biết tăng cường theo
hướng dẫn của NHNN Việt Nam, gây mất
nhiều thời gian và chi phí.
Ngoài ra, với khách hàng có mức rủi
ro cao, khoản 1 Điều 13 Luật năm 2012
quy định thêm trường hợp về khách hàng
cá nhân là người nước ngoài có ảnh hưởng
chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong
các cơ quan, tổ chức hữu quan của nước
ngoài (NHNN Việt Nam thông báo danh
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 23(375) T12/2018
sách khách hàng nước ngoài là cá nhân có
ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản này
trên cơ sở khuyến nghị của tổ chức quốc tế
về phòng, chống rửa tiền). Tuy nhiên, Luật
lại không xác định thế nào được coi là “quản
lý cấp cao”, cũng không xác định “cơ quan,
tổ chức nước ngoài” là cơ quan, tổ chức nào
(cơ quan chính phủ? cơ quan nhà nước?
chính phủ?...). Kinh nghiệm quốc tế cho
thấy, danh sách các cá nhân có ảnh hưởng
chính trị được chính phủ các nước quy định
theo chức danh trong một số loại hình cơ
quan, tổ chức.
Năm là, mặc dù Luật năm 2012 và
văn bản hướng dẫn đã quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn liên quan đến phòng, chống
rửa tiền thuộc thẩm quyền của NHNN và cơ
quan phòng, chống rửa tiền thuộc NHNN
nhưng vẫn chưa có quy định cụ thể về cơ
quan phòng, chống rửa tiền, dẫn đến trong
quá trình thực hiện còn có nhiều ý kiến khác
nhau, không thống nhất trong quy trình xử
lý các nội dung về phòng, chống rửa tiền
cũng như thẩm quyền ký kết các quy chế,
biên bản ghi nhớ trao đổi thông tin với các
cơ quan phòng, chống rửa tiền trong và
ngoài nước.
Sáu là, Luật năm 2012 quy định tổ
chức tín dụng có trách nhiệm xây dựng quy
trình kiểm soát, kiểm toán nội bộ bảo đảm
cho việc phòng, chống rửa tiền có hiệu quả
và đúng pháp luật; phân công cán bộ triển
khai thực hiện các chính sách, kế hoạch, quy
trình, biện pháp phòng, chống rửa tiền; xây
dựng quy trình tìm hiểu, cập nhật thông tin
và thủ tục nhận biết khách hàng; lưu giữ,
cập nhật số liệu và báo cáo các giao dịch
đáng ngờ v.v.. Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng
còn có nghĩa vụ không được tiết lộ thông
tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ
hoặc các thông tin có liên quan cho NHNN
Việt Nam4.
4 Khoản 2 Điều 29 Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012.
Tuy nhiên, tổ chức tín dụng thực hiện
trách nhiệm báo cáo hoặc cung cấp thông tin
có liên quan đến giao dịch lại không bị coi
là vi phạm các quy định của pháp luật về bảo
đảm bí mật tiền gửi và tài sản gửi của khách
hàng hay các quy định khác về bảo đảm bí
mật thông tin cho khách hàng. Như vậy việc
quy định trách nhiệm của tổ chức tài chính
trong luật phòng, chống rửa tiền là không
đồng nhất.
Bảy là, hạn chế trong các quy định
pháp luật về hợp tác quốc tế
Tại khoản 2 Điều 48 Luật năm 2012
quy định: “NHNN Việt Nam thực hiện trao
đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với cơ
quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài và
các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác theo
quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, cho đến
nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về
phạm vi nội dung thông tin được phép trao
đổi, trong khi đó việc tiết lộ các thông tin tài
chính của các tổ chức tín dụng có ảnh hưởng
rất lớn đến lợi ích của khách hàng, tổ chức
tín dụng thậm chí là cả lợi ích quốc gia. Hiện
nay, Việt Nam chủ yếu trao đổi thông tin dựa
trên cơ sở các Điều ước quốc tế Việt Nam đã
ký kết tham gia (bao gồm cả các Hiệp định
tương trợ tư pháp) và dựa trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia và các
lợi ích quan trọng khác của quốc gia.
2. Kiến nghị hoàn thiện Luật năm 2012
2.1 Hoàn thiện quy định về phạm vi áp
dụng
Trước hết, cần sửa đổi, bổ sung Luật
năm 2012 với tư cách là một đạo luật chung,
rửa tiền được tiến hành qua nhiều kênh,
nhiều lĩnh vực không chỉ đơn thuần trong
lĩnh vực ngân hàng, phải liệt kê cặn kẽ các
nội dung, bao quát hết được các lĩnh vực đời
sống xã hội mà có thể diễn ra hoạt động rửa
tiền như lĩnh vực ngân hàng, lĩnh vực bảo
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 23(375) T12/2018
hiểm, lĩnh vực chứng khoán, lĩnh vực trò
chơi có thưởng và casino, lĩnh vực bất động
sản, lĩnh vực luật sư, kế toán, công chứng...
Bên cạnh đó, do tại thời điểm xây
dựng Luật Phòng, chống rửa tiền, Việt Nam
vẫn chưa có quy định pháp luật về phòng,
chống khủng bố và tài trợ khủng bố nên để
đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về phòng,
chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, Luật năm
2012 đã quy định về hành vi rửa tiền nhằm
tài trợ khủng bố, do đó, điều khoản về phạm
vi điều chỉnh và báo cáo hành vi rửa tiền
nhằm tài trợ khủng bố tại Luật Phòng, chống
rửa tiền cần được hủy bỏ.
2.2 Hoàn thiện quy định về khái niệm
rửa tiền
Để bảo đảm phù hợp với chuẩn mực
quốc tế về khái niệm rửa tiền, cần sửa đổi,
bổ sung Luật năm 2012 theo hướng tiếp thu
quy định của Luật mẫu về phòng, chống
rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố năm
2005 của Liên hiệp quốc. Theo đó, rửa tiền
là hành vi:
- Chuyển đổi, chuyển nhượng tài sản
mà người đó biết, phải biết hoặc nghi ngờ là
tài sản do phạm tội mà có nhằm mục đích
giấu giếm hoặc che đậy nguồn gốc bất hợp
pháp của tài sản để giúp bất kỳ người nào
tham gia thực hiện tội phạm nguồn tránh
khỏi những hậu quả pháp lý do hành vi của
người đó gây ra;
- Giấu giếm hoặc che đậy bản chất
thực, nguồn gốc, đặc điểm, sự định đoạt,
sự dịch chuyển hoặc quyền sở hữu và các
quyền liên quan đến tài sản mà người đó
biết, buộc phải biết hoặc nghi ngờ là tài sản
do phạm tội mà có;
- Việc có được, chiếm hữu hoặc sử
dụng tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản
đó mà người đó biết, phải biết hoặc nghi ngờ
là tài sản do phạm tội mà có;
- Tham gia, liên kết hoặc âm mưu thực
hiện, cố gắng thực hiện, xúi giục, tạo điều
kiện và chỉ dẫn thực hiện bất kỳ hành vi
phạm tội nào được quy định theo điều này.
2.3 Hoàn thiện quy định về biện pháp
nhận biết khách hàng
Cần sửa đổi Luật năm 2012 về các biện
pháp nhận biết khách hàng theo một quy tắc
chung, đó là mức độ nhận biết khách hàng
cần phải tương ứng với nguy cơ rửa tiền có
thể tìm thấy trong tiểu sử sơ lược (nằm trong
tất cả các thông tin có được từ những nguồn
khác nhau) của khách hàng. Trong một số
trường hợp, cần quy định những mức độ
nhận biết khách hàng nghiêm ngặt hơn mức
quy định chung. Ví dụ, trường hợp: khách
hàng không trực diện, khách hàng tới từ
những quốc gia không áp dụng đầy đủ các
biện pháp phòng, chống rửa tiền hay những
quốc gia có tai tiếng về nạn rửa tiền Bên
cạnh đó, trong một số trường hợp, cho phép
các tổ chức tín dụng có quyền áp dụng thủ
tục nhận biết khách hàng đơn giản hơn
(trường hợp khách hàng mở tài khoản là một
doanh nghiệp nhà nước có uy tín).
Hiện nay, Luật năm 2012 chưa quy
định rõ ràng về việc ngăn chặn mở tài khoản
hoặc chấm dứt mối quan hệ nếu các yêu cầu
về cập nhật thông tin khách hàng (CDD) liên
quan không được đáp ứng; đồng thời, không
có yêu cầu rõ ràng đối với các ngân hàng
trong việc xác minh đối với khách hàng là
pháp nhân và các tổ chức có tư cách pháp
lý rằng bất kỳ người nào đại diện cho khách
hàng cũng cần xác minh hoặc xác minh nhận
dạng người đó. Mặc dù Luật năm 2012 đã
quy định về việc ủy quyền các cá nhân đại
diện cho khách hàng, điều này không tự
động được hiểu rằng các tổ chức tín dụng có
nghĩa vụ nhận dạng và xác minh việc tuân
thủ các nghĩa vụ pháp lý. Do đó, cần nghiên
cứu, bổ sung quy định nhận dạng thông tin
khách hàng, cập nhật thông tin khách hàng
để xác định chủ sở hữu thụ hưởng hoặc
người điều khiển hoạt động của một pháp
nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý nhằm
ngăn chặn việc mở các tài khoản nặc danh
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 23(375) T12/2018
hoặc tài khoản đứng tên giả mạo. Đồng thời,
cần có biện pháp yêu cầu các tổ chức tín
dụng thực hiện phân loại khách hàng trên
cơ sở rủi ro và áp dụng các biện pháp KYC/
CDD5 đối với nhóm khách hàng và giao dịch
có rủi ro cao như khách hàng là cá nhân có
ảnh hưởng chính trị (bao gồm cả cá nhân có
ảnh hưởng chính trị trong nước/nước ngoài),
quan hệ ngân hàng đại lý, các giao dịch lớn
bất thường và phức tạp, các giao dịch sử
dụng công nghệ mới và không gặp trực tiếp,
hoạt động kinh doanh qua giới thiệu.
2.4 Hoàn thiện quy định về phân loại
khách hàng theo mức độ rủi ro
Cần bổ sung quy định cụ thể cho đối
tượng báo cáo về việc phân loại khách hàng
theo mức độ rủi ro, các tiêu chuẩn mức độ
cụ thể để xác định khách hàng có điều kiện
gì sẽ được coi là khách hàng có mức độ
rủi ro cao, khách hàng có rủi ro thấp hơn,
tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng tuân thủ
quy định pháp luật về phân loại khách hàng
theo mức độ rủi ro, góp phần nâng cao công
tác phòng, chống rửa tiền qua các tổ chức
tín dụng.
5 KYC: nhận biết khách hàng; CDD: cập nhật thông tin khách hàng
2.5 Hoàn thiện quy định về thẩm quyền,
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan
phòng, chống rửa tiền
Để đảm bảo hiệu quả quản lý trong quá
trình thực hiện pháp luật về phòng, chống
rửa tiền cũng như việc thực hiện thẩm quyền
ký kết các quy chế, biên bản ghi nhớ trao đổi
thông tin với các cơ quan phòng, chống rửa
tiền trong và ngoài nước, cần sửa đổi Luật
năm 2012 theo hướng bổ sung mở rộng chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN và
cơ quan phòng, chống rửa tiền.
2.6 Hoàn thiện quy định trách nhiệm
của tổ chức tín dụng trong hoạt động
phòng, chống rửa tiền
Nhằm nâng cao trách nhiệm của các
tổ chức tín dụng trong hoạt động phòng,
chống rửa tiền, cần luật hóa trách nhiệm của
nhân viên các tổ chức tín dụng trong công
tác phòng, chống rửa tiền. Điều này đã được
thực hiện ở một số nước như Mỹ và cộng
đồng châu Âu. Ngoài những cá nhân, pháp
nhân có hành vi rửa tiền một cách trực tiếp,
nhân viên ngân hàng vô ý hay cố ý tiếp tay
cho hành vi rửa tiền qua tổ chức tín dụng
đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tuân, Infonet, Các ngân hàng đã thực sự quan tâm đến phòng, chống rửa tiền?, [
cac-ngan-hang-da-thuc-su-quan-tam-den-phong-chong-rua-tien-post169877.info]
2. Nguyễn Vũ, Nhiều ngân hàng xây dựng “phòng tuyến” chống rửa tiền, [
Nhieu-ngan-hang-xay-dung-phong-tuyen-chong-rua-tien-post150187.html]
3. Minh Nhật, “Ngân hàng cần chủ động bảo mật hệ thống thông tin”,
[
thong-tin.html]
4. Phạm Hồng Hải, “Tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền”,
[]
5. Nguyễn Đức Lam, “Chống rửa tiền – Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới”,
[]
6. Đoàn Hồng Lê, Vusta, “Kinh nghiệm của Hồng Kông vào việc chống tội phạm “rửa tiền” ở nước ta hiện nay”,
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 23(375) T12/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_luat_phong_chong_rua_tien_nam_2012.pdf