Vai trò của pháp luật trong việc thực hiện quyền tự do kinh doanh trên mạng Internet trong nền kinh tế thị trường hiện nay

Thứ nhất, trong việc thu thuế và quản lý thuế. Kinh doanh trên Internet là hoạt động thương mại điện tử được tiến hành trên mạng Internet. Về nguyên tắc, tổ chức, cá nhân khi tiến hành kinh doanh và có thu nhập đến một ngưỡng nhất định có nghĩa vụ phải nộp thuế và nhà nước có quyền được thu thuế. Yêu cầu đặt ra cần có phải có đội ngũ cán bộ thuế có trình độ cao về tin học, ngoại ngữ, hiểu biết ứng dụng phần mềm để kiểm soát được các giao địch kinh doanh trên Internet. Theo Điều 2 Luật Quản lý thuế năm 2006 và được sửa đổi bổ sung năm 2012, 2014, 2016 thì các tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại có nghĩa vụ nộp thuế không phân biệt giao dịch được thực hiện theo phương thức truyền thống hay thương mại điện tử. Quy định này phù hợp với chính sách thuế thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế đặt ra năm 1999: “Nguyên tắc đánh thuế đối với thương mại truyền thống phải được áp dụng ngang bằng với thương mại điện tử”. Để cụ thể hóa việc này nhà nước ban hành Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008, sửa đổi năm 2013, 2014,2016; Thông tư số 219/2013/TT-BTC và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP về Luật thuế giá trị gia tăng. Như vậy các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh trên Internet có trách nhiệm phải nộp thuế giá trị gia tăng, bên cạnh đó còn phải nộp thuế nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhà thầu. Mặt khác việc áp dụng trong pháp luật quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh này vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ. Hiện nay các hoạt động kinh doanh trên Internet diễn ra thường xuyên, phổ biến với hàng chục nghìn tài khoản kinh doanh qua mạng đã được cục thuế địa phương thông báo và đề nghị nộp thuế nhưng kết quả không như mong đợi. Việc thanh toán bằng tiền mặt thông qua người vận chuyển hay chuyển khoản giữa người mua và người bán qua ngân hàng cho đến nay chưa xác định được số tiền thuế phải chi trả. Bên cạnh đó cơ quan quản lý chưa đưa ra được những quy định phù hợp với hình thức kinh doanh này dẫn đến việc thu thuế qua mạng xã hội không được thuận lợi [7]. Vì vậy cần có những quy định bắt buộc các giao dịch kinh doanh trên Internet phải dùng hóa đơn điện tử, đồng thời dữ liệu hóa đơn điện tử phải được kết nối với dữ liệu bán hàng và dữ liệu kế toán có như vậy mới kiểm soát được thuế của các chủ thể khi tiến hành kinh doanh. Để kiểm soát được hoạt động này cần quy định theo hướng các hoạt động mua bán trực tuyến phải thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Quy định này giúp minh bạch hóa các giao dịch và giúp nhà nước kiểm soát được thuế. Và đây được coi là thông lệ quốc tế và tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi.

pdf12 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 147 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của pháp luật trong việc thực hiện quyền tự do kinh doanh trên mạng Internet trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 32/2019 139 VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ DO KINH DOANH TRÊN MẠNG INTERNET TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY Nguyễn Ngọc Lan Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt: Internet ngày nay trở thành một phần không thể thiếu trong xã hội hiện đại và trong đời sống của mỗi con người. Với nguồn dữ liệu thông tin khổng lồ, khả năng kết nối vạn vật và sự tiện dụng vốn có. Internet đã trở thành công cụ tuyệt vời cho mọi sự giao tiếp, kết nối, là phương tiện học tập, chia sẻ, khai thác thông tin, phát triển kinh tế của xã hội loài người. Ngày nay, chúng ta đang dịch chuyển sang cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và trong bối cảnh đó, Internet lại càng trở nên phổ biến, trở thành phương tiện, công cụ vô cùng quan trọng trong đời sống nhân loại. Việt Nam là một trong số các quốc gia có sự phát triển nhanh của Internet và là quốc gia đi đầu về số người dùng mạng xã hội. Những tiện ích mà Internet đem lại là không thể bàn cãi. Từ khóa: Internet, quyền tự do kinh doanh, pháp luật về quyền tự do kinh doanh, vai trò của pháp luật Nhận bài ngày 14.5.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 10.6.2019 Liên hệ tác giả: Nguyễn Ngọc Lan; Email: ntnlan@hnmu.edu.vn 1. MỞ ĐẦU Internet ngày nay có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và con người. Giống như nhiều nhân tố khác, Internet cũng có hai mặt, một mặt nó mang lại cho ta những lợi ích vô cùng to lớn, mặt khác nó lại làm cho xã hội hiện đại trở nên “xấu xa” và nhiều bất cập. Ngày nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành công tác đảm bảo quyền tự do Internet nói chung và đảm bảo quyền tự do kinh doanh trên Internet nói riêng. Những bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng nói chung và mạng xã hội nói riêng đang được nghiên cứu và ban hành, trở thành hành lang pháp lý quan trọng trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Pháp luật điều chỉnh việc thực hiện quyền tự do kinh doanh trên Internet có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 140 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Internet và quyền tự do kinh doanh trên Internet Kinh doanh là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục của các chủ thể kinh doanh ở một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ và phân phối sản phẩm nhằm mục đích sinh lợi nhuận. Kinh doanh là hoạt động kinh tế cơ bản của kinh doanh thương mại, là sự tổng hợp các hoạt động thuộc các quá trình mua, bán, trao đổi và dự trữ hàng hóa. Kinh doanh trên Internet là hoạt động kinh doanh của các chủ thể khi tiến hành trao đổi, mua bán hàng hóa trên mạng Internet. Trên thị trường Internet, người mua tự do tìm hiểu về giá cả, về chất lượng hàng hóa, tự do so sánh, và tự do lựa chọn dịch vụ, tự do tham gia đấu giá trên phạm vi toàn cầu. Ngược lại, người bán, tự do bán những mặt hàng được pháp luật cho phép, tự do quảng cáo, tự do tìm kiếm khách hàng, đồng thời, các doanh nghiệp có thể duy trì mối quan hệ một đến một với số lượng khách hàng rất lớn mà cần nhiều nhân lực và chi phí. Tự do kinh doanh trên Internet là hoạt động kinh doanh của các chủ thể khi tiến hành trao đổi, mua bán hàng hóa mà ở đó con người được tự do tiến hành các hoạt động trao đổi, thông thương với nhau các sản phẩm, hàng hóa đáp ứng nhu cầu của khách hàng, người tiêu dùng. Quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam trong những qua đã có sự phát triển đột phá. Các quy định pháp luật về kinh doanh, tự do kinh doanh, quyền tự do kinh doanh đã được chỉnh sửa cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong từng thời kì lịch sử. Đặc biệt quyền này được quy định cụ thể tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Quy định này hàm chứa hai nội dung quan trọng, đó là: 1/Mọi người có quyền tự do kinh doanh; 2/ Giới hạn của quyền tự do trong kinh doanh. Từ những quy định đó pháp luật về quyền tự do kinh doanh của các chủ thể được biểu hiện cụ thể hơn ở Luật doanh nghiệp 2014. Tại Điều 7 Luật này quy định doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà luật không cấm; có quyền tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh”. Với quy định này cho phép các chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh, phương thức kinh doanh, địa bàn kinh doanh tùy thuộc vào mong muốn của chính bản thân doanh nghiệp và do chủ thể kinh doanh toàn quyền quyết định. Quyền tự do kinh doanh trên Internet là quyền con người cơ bản khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh trên các Website mà ở đó giữa các chủ thể trao đổi, thỏa thuận với nhau bằng những giao dịch điện tử. Thông qua giao dịch đó các sản phẩm, hàng hóa được TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 32/2019 141 trao đổi thông thương trên thị trường. Để hoạt động này được thực thi có ý nghĩa cần phải có một hành lang pháp lý đủ mạnh nhằm giúp các doanh nghiệp có cơ sở và tin tưởng vào việc quản lý của nhà nước. Vậy nên việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về Internet đối với quyền tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là việc làm quan trọng nhằm đảm bảo cho các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh an tâm hơn trong các giao dịch. 2.2. Đảm bảo quyền tự do kinh doanh trên Internet Quyền tự do kinh doanh ở nước ta gắn liền với quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quản lý kinh tế. Để quyền tự do kinh doanh trên Internet được thực hiện một cách tự giác, đầy đủ và phát huy giá trị đích thực của nó, đòi hỏi phải có những tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế và pháp luật. Trong đó, pháp luật đóng vai trò chủ đạo hình thành và đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Vì thế hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng cao (về cơ cấu, nội dung và cơ chế điều chỉnh) nhằm thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và đồng bộ với những yêu cầu của quyền tự do kinh doanh và sẽ là sự đảm bảo pháp lý vững chắc cho quyền tự do kinh doanh trên Internet trở nên sống động và thiết thực đối với đời sống kinh tế của đất nước [1]. Để quyền tự do kinh doanh trên Internet được thực hiện chủ động cần đảm bảo các điều kiện sau đây: Thứ nhất, về vốn, tài sản. Đây là khoản thu nhập hợp pháp của các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp phải bảo đảm an toàn và vận hành hoạt động này một cách trôi chảy trong sự tồn tại lâu dài và phát triển. Vốn, đầu tư vốn là vấn đề quan trọng, vấn đề sống còn của các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Khi doanh nghiệp trường vốn tức là doanh nghiệp có đủ khả năng để mở rộng địa bàn kinh doanh, mở rộng các hàng hóa, sản phẩm, từ đó quyền kinh doanh của các chủ thể kinh doanh ngày càng được pháp luật đảm bảo. Thứ hai, về ngành nghề kinh doanh. Khi tiến hành hoạt động kinh doanh các nhà đầu tư phải được quyền tự do lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh theo khả năng và sở thích của mình. Các nhà kinh doanh phải là “những nhân vật trung tâm” trên thị trường và họ được tự do “biểu diễn” một cách sáng tạo để tự quyết định đối với những vấn đề phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh như: Tự do hợp đồng, tự do lựa chọn bạn hàng, tự do hợp tác kinh tế, tự do cạnh tranh theo pháp luật. Thứ ba, sự bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể kinh doanh. Việc đảm bảo sự bình đẳng cho các chủ thể khi tiến hành hoạt động kinh doanh góp phần làm cho các chủ thể yên tâm đầu tư vốn, cơ sở hạ tầng vào quá trình sản xuất, từ đó giúp hoạt động kinh doanh ngày một phát triển và việc tự do kinh doanh trên Internet được thực hiện đa dạng, phong phú trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề. 142 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Thứ tư, chế tài nghiêm ngặt đối với những hành vi vi phạm trong kinh doanh (chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài tài sản), từ đó đòi hỏi các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Thứ năm, phải có cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh có hiệu lực và hiệu quả. Quá trình kinh doanh không tránh khỏi những vướng mắc, sai lầm. Cần có những biện pháp, cơ chế giải quyết mang tính đồng bộ, phù hợp với pháp luật và môi trường kinh doanh để tránh bỏ lọt những hành vi vi phạm và xử lý oan sai những chủ thể kinh doanh. Các điều kiện kinh doanh trên phải được phản ánh và thể hiện một cách đầy đủ, đồng bộ, kịp thời, cụ thể và minh bạch trong hệ thống pháp luật kinh doanh, nhất là đối với hoạt động kinh doanh trên Internet. Việc đảm bảo được quyền tự do kinh doanh trên Internet một cách đồng bộ, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các chủ thể kinh doanh, tạo hành lang pháp lý quan trọng trong quá trình điều chỉnh các hành vi kinh doanh trên mạng Internet. 2.3. Internet với việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của chủ thể kinh doanh và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường hiện nay 2.3.1. Internet với việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của chủ thể Ngày nay, Internet là một phần không thể thiếu trong đời sống mỗi con người trong thời đại công nghệ thông tin ngày một phát triển. Ứng dụng công nghệ vào cuộc sống khiến đời sống của con người ngày một tiện dụng, phát triển thịnh vượng hơn. Theo thống kê, số lượng người dùng Internet đạt số lượng 1 tỷ vào 2005, tăng lên 2 tỷ người dùng internet vào năm 2010 và đạt được 3 tỷ người trong năm 2014. Đến quý II năm 2008 với 4.087 tỷ người dùng Internet, chiếm 54% so với tổng dân số toàn cầu là 7.615 tỷ người. Tại Việt Nam, sau 2 năm khởi đầu 1996 & 1997 với lượng ít ỏi người sử dụng, số lượng người dùng Internet tại Việt Nam không ngừng tăng trưởng qua các năm. Đặc biệt giai đoạn 2012-2013, số lượng người dùng tăng trưởng mạnh nhất, với 28% tăng trưởng năm 2013 nhiều hơn so với năm trước. Báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông trong năm 2011 chỉ ra rằng, với tỷ lệ 42%, Internet đã trở thành phương tiện thông tin được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam, vượt qua radio với 23% và báo giấy 40%. Đọc tin tức trên mạng là hoạt động trực tuyến phổ biến nhất chiếm 97%, tiếp sau là truy cập vào các cổng thông tin điện tử với tỷ lệ gần 96% người tham gia [2]. Tính đến 2018, số lượng người dùng ở Việt Nam là 64 triệu người theo báo cáo của We Are Social và 55 triệu người theo báo cáo của Stalista [3]. Ghi nhận việc sử dụng Internet, ngày 5/7/2017, Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết ghi nhận rằng tất cả mọi người, không phân biệt tầng lớp, tôn giáo, giới tính, độ tuổi, dân tộc đều có quyền được truy cập Internet và tự do thể hiện suy nghĩ, quan điểm, góc nhìn của bản thân họ trên mạng thông tin toàn cầu này. TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 32/2019 143 Với lượng người truy cập và sử dụng mạng Internet ngày một tăng như vậy, không chỉ cho chúng ta thấy sự phát triển của công nghệ, mà còn khẳng định đây là “mảnh đất” kinh doanh đầy tiềm năng cho các nhà kinh tế. Internet đã và đang đem lại rất nhiều lợi ích trong việc phát triển kinh tế. Cụ thể: Một là, Internet hỗ trợ kiếm tiền trực tuyến đăng bán sản phẩm trên Internet, chỉ cần thiết lập một tài khoản bán hàng online, nhà cung cấp có thể đăng tải, cung cấp hình ảnh sản phẩm của mình đến với khách hàng mà không phải trưng bày, tạo gian hàng, hay chi phí mặt bằng để mở gian hàng; tiết kiệm rất nhiều thời gian, chi phí cho các nhà cung cấp. Tương tự, việc mua hàng cũng trở nên đơn giản hơn đối với người tiêu dùng thông thái. Người tiêu dùng chỉ việc ngồi nhà, bật máy tính có kết nối internet là có thể tìm đến những trang web của nhà cung cấp, hay những trang web bán hàng online, người tiêu dùng cũng sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức của mình khi lựa chọn một món hàng phù hợp nhu cầu. chỉ cần cú “click” chuột là có thể mua được hàng và giao hàng đến tận nhà. Hay có thể đặt được một chuyến du lịch cho bản thân. Hai là, nhờ Internet, có thể liên kết với nhiều khách hàng từ những địa điểm khác nhau mà không cần điện thoại hay gặp trực tiếp nhờ các ứng dụng facebook, zalo, skype Việc giao dịch, mua bán hàng hóa trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết, nhờ internet mà người mua, người bán sẽ không phải gặp nhau trực tiếp để xác lập giao dịch, tiết kiệm được rất nhiều chi phí và thời gian đi lại cũng như chuẩn bị. Thanh toán trực tuyến và các giao dịch tài chính cũng được thực hiện bởi Internet. Việc thanh toán được đảm bảo an toàn trở nên dễ dàng, nhanh chóng và ít thủ thục rắc rối. Ba là, hoạt động Internet không chỉ phục vụ hoạt động mua bán, trao đổi trong kinh doanh, mà trong quá trình điều hành, vận hành doanh nghiệp cũng trở nên dễ dàng hơn. Việc quản lý có thể thông qua hệ thống thư điện tử (e-mail); các nhà tuyển dụng cũng có thể thông qua internet để tìm kiếm nhân sự cho công ty mình Theo đánh giá của các nhà kinh tế, nếu coi Inetrnet là một ngành thì có thể gọi Internet là một ngành “xương sống” của nền kinh tế thị trường hiện nay. Theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu McKinsey toàn cầu tại 13 quốc gia chiếm hơn 70% tổng GDP toàn cầu, bao gồm các nước G8, Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Thụy Điển và Hàn Quốc, cho thấy các hoạt động qua mạng Internet chiếm phần đáng kể và ngày càng tăng trong GDP. Trong giai đoạn từ 1995 đến 2009, Internet chiếm 10% tổng GDP trong 5 năm cuối cùng của giai đoạn trên, đóng góp vào tăng trưởng GDP của các nước này đã tăng gấp đôi, tới 21%. Trung Quốc và Ấn Độ là những nước tham gia tăng trưởng nhanh nhất trong chuỗi cung ứng toàn cầu trên Internet [4]. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển chung của thế giới. Theo nghiên cứu của Google và Temasek Holdings, Kinh tế Internet ở Việt Nam được dự đoán tăng 144 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI trưởng với tốc độ CAGR (Compounded Annual Growth rate - Tốc độ tăng trưởng hàng năm kép là một thuật ngữ kinh doanh và đầu tư cụ thể cho thu nhập đầu tư thường niên hóa trơn tru trong một thời kỳ nhất định) là 25% trong giai đoạn từ năm 2015 tới năm 2025, từ 3 tỷ USD năm 2015 lên 9 tỷ USD năm 2018 và tới 33 tỷ USD vào năm 2025. Tốc độ tăng trưởng này có được là nhờ số lượng người dùng Internet ngày càng tăng, nhiều lĩnh vực tăng mạnh như thương mại điện tử năm 2018 tăng gần gấp đôi so với năm trước, trong khi quảng cáo trực tuyến và trò chơi tăng 50% [5]. 2.3.2. Vai trò của pháp luật đối với quyền tự do kinh doanh trên Internet Trước sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Internet trong sự phát triển kinh tế, quyền tự do kinh doanh trên Internet là vấn đề được quan tâm và chú trọng. Một nền kinh tế có mở cửa hay không, có phát triển hay không một phần phụ thuộc vào hoạt động thực hiện tự do kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, cũng như chính sách của nhà nước và pháp luật trong việc mở cửa đảm bảo quyền tự do kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Quyền tự do kinh doanh của các chủ thể được quy định trên một số phương diện sau: - Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh Ngày nay, hầu hết tất cả các ngành nghề thương mại đều sử dụng internet là công cụ truyền thông và bán hàng hữu hiệu. Theo khảo sát mới đây của Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao, cách đây 1 năm mua sắm online mới chỉ chiếm 0,9%, thì chỉ sau một năm, kết quả khảo sát năm 2018 cho thấy số người tiêu dùng chọn mua online đã tăng gấp ba lần (2,7%) [6]. Với nhu cầu mua sắm online ngày càng gia tăng, các chủ thể kinh doanh không thể bỏ lỡ việc phục vụ nhu cầu thiết yếu này của người tiêu dùng. Mỗi chủ thể kinh doanh đều có hệ thống website - hệ thống các trang thông tin điện tử riêng của mình, thông qua các website, chủ thể kinh doanh có thể giới thiệu sản phẩm đa dạng của mình. Hệ thống internet không giới hạn việc chủ thể kinh doanh phải kinh doanh gì, hay điều kiện kinh doanh sản phẩm như thế nào. Hệ thống internet rất mở trong việc đăng tải thông tin về sản phẩm cũng như ngành nghề kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Hiện nay, trên hệ thống Internet có đa dạng các ngành nghề kinh doanh, như kinh doanh mặt hàng tiêu dùng của Lazada, Sendo, Shopee, Amazone; hay như trong lĩnh vực giao thông vận tải, đặt một chuyến xe taxi hay xe máy để di chuyển thì tiện ích hơn rất nhiều. Tuy nhiên, việc tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh vẫn phải theo khuôn khổ của pháp luật. Theo Luật an ninh mạng, tại khoản 1 Điều 19 quy định về hành vi vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là: “Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật”. Tại Điều 3, Thông tư số 47/2014/BCT ngày 05/12/2014 của Bộ Công thương quy định về quản lý website thương mại điện tử thì các mặt hàng sau đây thuộc danh mục cấm: i/ Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ; ii/ Thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác; TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 32/2019 145 iii/ Rượu các loại; iv/ Thực vật, động vật hoang dã quý hiếm, bao gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến; v/ Các hàng hóa hạn chế kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Có thể nói pháp luật là công cụ quan trọng trong việc điều tiết các hàng hóa kinh doanh, là cơ sở pháp lý vững chắc cho các chủ thể khi tiến hành hoạt động kinh doanh và là công cụ hỗ trợ trong việc xử lý các hành vi vi phạm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. - Quyền tự do lựa chọn mô hình kinh doanh, loại hình tổ chức kinh tế Theo Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về thương mại điện tử thì các chủ thể kinh doanh thương mại điện tử bao gồm: i/ Thương nhân, tổ chức, cá nhân Việt Nam; ii/ Cá nhân nước ngoài cư trú tại Việt Nam; iii/ Thương nhân, tổ chức nước ngoài có sự hiện diện tại Việt Nam thông qua hoạt động đầu tư, lập chi nhánh, văn phòng đại diện, hoặc thiết lập website dưới tên miền Việt Nam. Hiện nay, hoạt động thương mại điện tử không giới hạn mô hình hay loại hình tổ chức kinh doanh, chủ thể kinh doanh rất đa dạng. Khi đó, các chủ thể kinh doanh sẽ căn cứ vào nhu cầu, mục đích, vốn để lựa chọn loại hình hay mô hình kinh doanh phù hợp, từ đó thực hiện tổ chức hoạt động kinh doanh theo mô hình hay loại hình mà mình lựa chọn theo quy định của pháp luật. Sau khi đảm bảo điều kiện về đăng ký kinh doanh, chủ thể kinh doanh có thể tiến hành hoạt động kinh doanh online thông qua website bán hàng. Điều kiện để thiết lập website thương mại điện tử bán hàng là phải có website với tên miền hợp lệ và tuân thủ các quy định về quản lý thông tin trên Internet; phải thông báo với Bộ Công thương về việc thiết lập website thương mại điện tử bán hàng theo quy định. Đối với cá nhân thì cá nhân đã được cấp mã số thuế thu nhập cá nhân mới được thiết lập website thương mại điện tử bán hàng. Trong trường hợp sử dụng dịch vụ của sàn giao dịch thương mại điện tử, cần phải lưu ý rằng sàn giao dịch điện tử đó phải được đăng ký với Bộ Công thương. - Quyền tự do lựa chọn hình thức, cách thức huy động vốn Trong kinh doanh quyền tự do lựa chọn hình thức, cách thức huy động vốn là một trong quyền kinh doanh được pháp luật cho phép. Trong quá trình kinh doanh Inetrnet hỗ trợ đắc lực cho các chủ thể trong việc huy động vốn kinh doanh của mình. Thông qua các công ty tài chính, hay các dịch vụ của Ngân hàng, các chủ thể có thể dễ dàng tìm kiếm, cũng như lựa chọn cách thức huy động vốn phù hợp và đúng pháp luật. Việc thực hiện huy động vốn còn được thể thông qua việc phát hành cổ phiếu, cổ phần của mình trên hệ thống online một cách nhanh chóng và tiện lợi. Đặc biệt, hệ thống quản hành chính cũng đang dần tiến tới số hóa, do vậy hoạt động đăng ký kinh doanh, cũng như thay đổi thông tin của doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. 146 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI - Quyền tự do kí kết hợp đồng Trong thương mại điện tử, việc giao kết hợp đồng trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Nếu trước đây, khi giao kết hợp đồng, các bên phải tốn nhiều công sức, tiền bạc, thời gian để có được cuộc gặp với đối tác, thì nay, các bên chỉ cần trao đổi thỏa thuận qua email, qua fax hay phát triển hơn là chỉ cần qua một cú “click” chuột xác nhận mua bán là giao dịch đã được xác lập. Giao dịch thành công khi người mua hàng nhận được hàng, hóa đơn tiền hàng và thanh toán cho nhà cung cấp. về phía nhà cung cấp, sẽ xác minh giao dịch mua bán này thông qua phiếu xuất kho, vận đơn hoặc ghi nhận hệ thống về việc khách hàng đã nhận được sản phẩm tất cả những hóa đơn, vận đơn hay phiếu xuất kho được nêu trong ví dụ trên, trong thương mại điện tử được gọi là chứng từ điện tử, có giá trị như bản gốc, xác nhận hoạt động giao dịch điện tử. Hoạt động giao dịch được thể hiện đa dạng dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật, cụ thể việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử được quuy định tại chương II, Nghị định 52/2013. Khách hàng có thể lựa chọn hình thức văn bản hoặc hình thức xác nhận thông qua chứng từ; Hay phổ biến hơn là sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử - Quyền tự do lựa chọn hình thức, cách thức giải quyết tranh chấp Internet xuất hiện, thúc đẩy nền kinh tế, xã hội phát triển, tuy nhiên cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được tháo gỡ. Điển hình là vấn đề về giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh. Trong mối quan hệ nào cũng vậy, không thể tránh khỏi những xung đột, mâu thuẫn giữa các chủ thể trong quan hệ đó, và việc giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào, bằng cách nào cho thỏa đáng cũng là bài toán đặt ra đối với các bên tham gia, các nhà làm luật và các bên liên quan. Hiện nay có rất nhiều phương thức giải quyết tranh chấp đang được áp dụng để giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt động kinh doanh. Việc áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp nào không chỉ phụ thuộc vào thẩm quyền xử lý, mà còn phụ thuộc vào sự phù hợp của phương thức giải quyết tranh chấp mà các bên lựa chọn. Hoạt động thương mại nói chung, các bên chủ thể đã có quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, trước, hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Việc lựa chọn sẽ do ý chỉ chủ quan của các bên, sự thống nhất ý chí chủ quan và được các bên chủ thể cũng như các bên liên quan ghi nhận. các phương thức gaiir quyết tranh chấp rất đa dạng, bao gồm các phương thức thay thế (ADR - Alternative Dispute Resolution) như hòa giải, thương lượng; bên cạnh đó còn có các phương thức giải quyết như Trọng tài, Tòa án. - Quyền tự do cạnh tranh lành mạnh “Mảnh đất” Internet là mảnh đất màu mỡ đầy tiềm năng cho những chủ thể kinh doanh biết khai thác nó. Tuy nhiên, đó cũng là nơi các chủ thể kinh doanh phải cạnh tranh với nhau để có được thị phần ổn định, vị trí ổn định trong sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh và mạnh như ngày nay. Về mọi khía cạnh kinh doanh, các chủ thể đều được pháp luật bảo TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 32/2019 147 vệ nhằm hướng tới cạnh tranh lành mạnh. Trong Hiệp định GATS (hiệp định thương mại hàng hóa của WTO - tổ chức thương mại thế giới), Điều VIII buộc quốc gia thành viên không được để cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ độc quyền lạm dụng vị trí độc quyền, Điều IX yêu cầu quốc gia thành viên phải thừa nhận một số hành vi của doanh nghiệp là hạn chế cạnh tranh, cần có sự tham vấn, hợp tác giữa các quốc gia nhằm mục đích loại bỏ các hành vi đó. Hay như Theo quy định tại Điều 39 và Điều 44 Luật Cạnh tranh, cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp khác, đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Trong hoạt động kinh doanh thương mại điện tử cũng vậy, các chủ thể kinh doanh đều được đảm bảo quyền tự do cạnh tranh của mình, thông qua hoạt động đăng ký tên miền, cũng như hoạt động đăng ký nhãn hiệu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mỗi chủ thể kinh doanh. Việc quản lý tên miền của các chủ thể kinh doanh, không chỉ là hoạt động quản lý của nhà nước, mà đó còn là cách thức đảm bảo tự do cạnh tranh của các chủ thể, tránh trường hợp tên miền dễ gây nhầm lẫn, hoặc bị đánh cắp gây thiệt hại không nhỏ trong việc cạnh tranh thương hiệu. 2.4. Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự do kinh doanh trên Internet Thứ nhất, trong việc thu thuế và quản lý thuế. Kinh doanh trên Internet là hoạt động thương mại điện tử được tiến hành trên mạng Internet. Về nguyên tắc, tổ chức, cá nhân khi tiến hành kinh doanh và có thu nhập đến một ngưỡng nhất định có nghĩa vụ phải nộp thuế và nhà nước có quyền được thu thuế. Yêu cầu đặt ra cần có phải có đội ngũ cán bộ thuế có trình độ cao về tin học, ngoại ngữ, hiểu biết ứng dụng phần mềm để kiểm soát được các giao địch kinh doanh trên Internet. Theo Điều 2 Luật Quản lý thuế năm 2006 và được sửa đổi bổ sung năm 2012, 2014, 2016 thì các tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại có nghĩa vụ nộp thuế không phân biệt giao dịch được thực hiện theo phương thức truyền thống hay thương mại điện tử. Quy định này phù hợp với chính sách thuế thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế đặt ra năm 1999: “Nguyên tắc đánh thuế đối với thương mại truyền thống phải được áp dụng ngang bằng với thương mại điện tử”. Để cụ thể hóa việc này nhà nước ban hành Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008, sửa đổi năm 2013, 2014,2016; Thông tư số 219/2013/TT-BTC và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP về Luật thuế giá trị gia tăng. Như vậy các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh trên Internet có trách nhiệm phải nộp thuế giá trị gia tăng, bên cạnh đó còn phải nộp thuế nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhà thầu. Mặt khác việc áp dụng trong pháp luật quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh này vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ. Hiện nay các hoạt động kinh doanh trên Internet diễn ra thường xuyên, 148 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI phổ biến với hàng chục nghìn tài khoản kinh doanh qua mạng đã được cục thuế địa phương thông báo và đề nghị nộp thuế nhưng kết quả không như mong đợi. Việc thanh toán bằng tiền mặt thông qua người vận chuyển hay chuyển khoản giữa người mua và người bán qua ngân hàng cho đến nay chưa xác định được số tiền thuế phải chi trả. Bên cạnh đó cơ quan quản lý chưa đưa ra được những quy định phù hợp với hình thức kinh doanh này dẫn đến việc thu thuế qua mạng xã hội không được thuận lợi [7]. Vì vậy cần có những quy định bắt buộc các giao dịch kinh doanh trên Internet phải dùng hóa đơn điện tử, đồng thời dữ liệu hóa đơn điện tử phải được kết nối với dữ liệu bán hàng và dữ liệu kế toán có như vậy mới kiểm soát được thuế của các chủ thể khi tiến hành kinh doanh. Để kiểm soát được hoạt động này cần quy định theo hướng các hoạt động mua bán trực tuyến phải thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Quy định này giúp minh bạch hóa các giao dịch và giúp nhà nước kiểm soát được thuế. Và đây được coi là thông lệ quốc tế và tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi. Thứ hai, sự cạnh tranh không công bằng. Hiện nay việc kinh doanh trực tuyến có sức thu hút rất lớn đối với cả người mua và người bán dẫn đến sự cạnh tranh mạnh mẽ. Việc pháp luật cho phép các chủ thể có quyền được tự do kinh doanh dẫn đến thị trường kinh doanh trên Internet sôi động hẳn lên trong thời gian qua [8]. Các nhà đầu tư cung cấp các sản phẩm trên thị trường, tuy nhiên thực tế hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng xuất hiện nhiều dẫn đến không tạo được niềm tin cho khách hàng, từ đó dẫn đến việc các chủ thể rất khó đứng vững và phát triển trên thị trường. Vậy nên, cần có một hành lang pháp luật đủ mạnh để tạo sức răn đe đối với các chủ thể kinh doanh trên Internet khi không tuân thủ hoặc thực hiện những giao dịch vi phạm pháp luật trong kinh doanh. Quy định đó nhằm điều tiết hành vi của các chủ thể góp phần hạn chế các hành vi vi phạm. Để làm được điều đó nhà nước cần ban hành các chế tài xử phạt hành chính hoặc hình sự nhằm răn đe và ngăn chặn hành vi phạm tội khi kinh doanh sản phẩm kém chất lượng, không đúng mẫu mã, chủng loại Thứ ba, rủi ro về dữ liệu khi kinh doanh trên Internet. Theo con số thống kê, Việt Nam là quốc gia xếp thứ 101/193 quốc gia trên thế giới về việc bị lộ các thông tin trên Internet [9]. Điều đó cho thấy việc tiến hành kinh doanh và đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể chưa được đảm bảo. Cần thiết phải có chế tài để ngăn chặn các trường hợp lấy cắp thông tin trên Internet mà chưa được sự cho phép và đồng ý của các chủ thể kinh doanh. Mặt khác, cần có một công nghệ tiên tiến hơn để quản lý các thông tin đối với các chủ thể kinh doanh. Có như vậy, mới tạo niềm tin tuyệt đối cho các chủ thể kinh doanh. Hơn nữa, cần thiết lập một đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, thanh – kiểm tra đối với những hành vi, chủ thể có dấu hiệu xâm phạm đến các thông tin của các doanh nghiệp kinh doanh. TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 32/2019 149 Thứ tư, về tiêu chuẩn công nghiệp. Hiện nay việc kinh doanh trên Internet đang gặp một số cản trở về phát triển của mô hình kinh doanh thương mại điện tử hoặc chưa tạo điều kiện thuận lợi như đăng kí website thương mại điện tử, mua tên miền, thuê máy chủ hay như là sự chậm trễ về dịch vụ chứng thực điện tử, thanh toán điện tử. Sự thiếu đồng bộ về tiêu chuẩn công nghiệp trên sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc trao đổi thông tin đặc biệt là hoạt động chào hàng, đặt hàng cũng như thanh toán hàng hóa. Do đó cần ban hành các tiêu chuẩn về công nghiệp một cách cụ thể, rõ ràng và có hướng dẫn thực hiện giúp các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc thực hiện cũng như quản lý về kinh doanh trên mạng Internet. Có như vậy quyền đảm bảo về tự do kinh doanh của các chủ thể mới được phát huy, thị trường kinh doanh mới ngày càng được mở rộng. 3. KẾT LUẬN Internet đem đến nhiều lợi ích đối với hoạt động kinh doanh nói chung và quyền tự do kinh doanh nói riêng. Internet phần nào thúc đẩy sự phát triển quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trong xã hội kinh tế hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, để đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, cần có những biện pháp, những chế định cũng như xây dựng hệ thống pháp luật toàn diện hơn, tránh việc lạm dụng internet của những đối tượng xấu, gây ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tự do kinh doanh và sự phát triển kinh tế quốc gia và thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Ngọc Cương (2013), “Báo cáo Luật doanh nghiệp với việc bảo đảm tự do kinh doanh ở nước ta”, Tạp chí Luật học số 5/2013. 2. https://www.google.com. 3. Https://www.dammio.com/2018/05/22/bieu-do-nguoi-dung-internet-viet-nam 4. 29901.html?mobile=true, truy cập ngày 29/4/2019. 5. 2019031606500560p4c145.news, truy cập ngày 29/4/2019. 6. mot-nam-qua-5201830115852146.htm, truy cập ngày 29/4/2019. 7. Nguyễn Thị Lan Hương (2015), Pháp luật thuế - Lí luận, lịch sử, thực trạng và so sánh, - Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 8. Nguyễn Thị Quế Anh, Vũ Công Giao - Đại học Quốc gia Hà Nội (2019), Phạm vi và giới hạn của tự do Internet, - Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9. Kim, Byung-Keun (2005), Internationalising the Internet the Co-evolution of influence and Technology, - Edward Elgar, ISBN 1845426754, p.51-55. 150 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI THE ROLE OF LAWS IN THE IMPLEMENTATION OF THE RIGHT TO FREE BUSINESS IN THE INTERNET NETWORK IN THE CURRENT ECONOMIC MARKET BACKGROUND Abstract: Today's Internet has become an integral part of modern society and in every person's life. With huge data resources, the ability to connect everything and the inherent convenience. The Internet has become a great tool for all communication and connection, a means of learning, sharing, exploiting information and economic development of human society. Today, we are shifting to the 4.0 industrial revolution and in that context, the Internet has become more and more popular, an important means and tool in human life. Vietnam is one of the countries with the rapid development of the Internet and the leading country in terms of the number of people using social networks. The utilities that the Internet offers are indisputable. Keywords: Internet, freedom of business, law on freedom of business, role of law.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvai_tro_cua_phap_luat_trong_viec_thuc_hien_quyen_tu_do_kinh.pdf
Tài liệu liên quan