Những quy định pháp luật về hạn chế quyền của cha mẹ, mẹ đối với con chưa thành niên và các kiến nghị hoàn thiện

Một số kiến nghị Để khắc phục các hạn chế của pháp luật về các trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, chúng tôi kiến nghị: Thứ nhất, Hội đồng Thẩm phán TAND 14 Điểm b khoản 1 Điều 47 BLDS năm 2015. 15 Điểm b khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định: “Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành nghị quyết hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật”. tối cao cần ban hành nghị quyết hướng dẫn rõ ràng về vấn đề hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Trên cơ sở đó, minh định một cách rõ ràng các căn cứ hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; ban hành nghị quyết giải thích cụ thể hành vi nào của cha, mẹ bị xem là có “lối sống đồi trụy” và “xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội”. Thứ hai, bổ sung quy định về thủ tục hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong trường hợp tòa án ra quyết định để có cơ sở pháp lý rõ ràng áp dụng vào thực tế15. Ngoài ra, cần nâng cao vai trò của tòa án trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Thứ ba, bổ sung quy định về hệ quả pháp lý khi áp dụng biện pháp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Thứ tư, bổ sung quy định cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em và Hội liên hiệp Phụ nữ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chịu trách nhiệm giám sát, theo dõi việc thực thi quyết định của tòa án về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phối hợp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc bảo đảm các điều kiện về vật chất để bảo đảm điều kiện ăn ở, sinh hoạt và học tập của con chưa thành niên trong thời gian cha, mẹ bị hạn chế quyền hoặc sau khi hết thời gian cha, mẹ bị hạn chế quyền để hạn chế tình trạng cha, mẹ tiếp tục thực hiện các hành vi vi phạm đối với con chưa thành niên

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 143 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những quy định pháp luật về hạn chế quyền của cha mẹ, mẹ đối với con chưa thành niên và các kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÖÕNG QUY ÑÒNH PHAÙP LUAÄT VEÀ HAÏN CHEÁ QUYEÀN CUÛA CHA, MEÏ ÑOÁI VÔÙI CON CHÖA THAØNH NIEÂN VAØ CAÙC KIEÁN NGHÒ HOAØN THIEÄN Nguyễn Nhật Khanh** Cao Vũ Minh* Tóm tắt: Cha, mẹ và con cái có mối quan hệ thiêng liêng. Cha, mẹ - với tư cách là bậc sinh thành - được pháp luật quy định nhiều quyền và nghĩa vụ nhằm thực hiện việc trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục con. Nhưng trên thực tế, có một số bậc cha mẹ lại có hành vi vi phạm đến quyền và lợi ích của con, đặc biệt là đối với con chưa thành niên. Để bảo vệ con chưa thành niên trước những hành vi vi phạm của cha mẹ, pháp luật quy định biện pháp “hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên”. Bài viết phân tích một số bất cập của pháp luật về biện pháp “hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên”, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện. Abstract: The relationship between parents and children is the spiritual one. Father and mother are stipulated the rights and obligations to exercise the care, nurture and education for children. However, some parents have violations to the rights and interests of their children, especially the minor children. To protect the minor children against the violation of the parents, the law stipulates measures to “limit the rights of parents to their minor children”. This article provides analysis of a number of shortcomings of the legislation on measures to “limit the rights of parents to minor children” and recommendations for improvements. Thông tin bài viết: Từ khóa: hạn chế quyền cha mẹ, con chưa thành niên, cha mẹ. Lịch sử bài viết: Nhận bài: 06/03/2017 Biên tập: 20/03/2017 Duyệt bài: 27/03/2017 Article Infomation: Keywords: limitation of the rights of parents, minor children, parents. Article History: Received: 06 Mar. 2017 Edited: 20 Mar. 2017 Appproved: 27 Mar. 2017 * TS, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. ** GV, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. 1. Các trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên Khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ năm 2014) quy định cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây: a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; b) Phá tán tài sản của con; c) Có lối sống đồi trụy; d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Quy định nêu THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 41Số 12(340) T6/2017 trên có một số điểm chưa rõ ràng sau đây: Một là, cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên khi có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Điều khoản này căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm để thực hiện hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật HNGĐ năm 2014 lại không xác định cụ thể thế nào là hành vi “vi phạm nghiêm trọng”. Do đó, khi giải quyết các vụ việc cụ thể, các tòa án phải căn cứ vào hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao để xác định hành vi nào là hành vi vi phạm nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Hai là, cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên khi có hành vi phá tán tài sản của con. Luật HNGĐ năm 2014 quy định, con chưa thành niên có quyền có tài sản riêng và Luật cũng xác định tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác1. Ngoài ra, Luật HNGĐ năm 2014 còn quy định giới hạn quyền quản lý, định đoạt của cha, mẹ đối với các tài sản riêng của con2. Khi cha, mẹ có hành vi phá tán tài sản của con, có thể bị tòa án tuyên bố hạn chế một số quyền đối với tài sản của con. Ở đây cần xác định cụ thể thế nào là hành vi “phá tán tài sản”. Có ý kiến cho rằng, “phá tán tài sản” của con chưa thành niên là hành vi sử dụng tài sản của con trái với nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của con, gây hậu quả nghiêm trọng đối 1 Khoản 1 Điều 75 Luật HNGĐ năm 2014. 2 Khoản 1, 2 Điều 76 và khoản 1, 2 Điều 77 Luật HNGĐ năm 2014. 3 Lê Vĩnh Tiến, Quyền định đoạt của cha mẹ đối với tài sản của con, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Những điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình 2014”, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, năm 2015, tr. 236. 4 Nguyễn Lân, Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2002, tr. 663. 5 Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, (Hoàng Phê chủ biên), Nxb. Từ điển Bách khoa, 2010, tr. 337. với tài sản riêng của con chưa thành niên3. Tuy nhiên, đây chỉ là cách giải thích mang tính học thuật, nghiên cứu chứ không phải giải thích chính thức nên không mang tính khuôn mẫu. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản giải thích quy định nêu trên của Luật. Ba là, cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên khi cha, mẹ có lối sống đồi trụy. Khoản 1 Điều 69 Luật HNGĐ năm 2014 quy định: cha, mẹ phải “thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội”. Theo đó, cha, mẹ có nghĩa vụ tạo ra một môi trường sống lành mạnh để con phát triển đúng chuẩn về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Nếu cha, mẹ có lối sống đồi trụy, tức là cha, mẹ đã tạo ra một môi trường sống không lành mạnh, do đó, sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển bình thường của con, nhất là về đạo đức và tinh thần. Vì vậy, khi cha, mẹ có lối sống đồi trụy thì pháp luật quy định phải hạn chế quyền của cha, mẹ nhất là quyền chăm sóc, giáo dục nhằm bảo vệ sự phát triển bình thường của con. Tuy nhiên, để xác định cha, mẹ có lối sống đồi trụy hay không là điều không hề đơn giản, bởi lẽ đây là một chuẩn mực về mặt đạo đức. Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, “đồi trụy” (đồi: đổ nát, trụy: rơi xuống) là “hư hỏng, thấp hèn”4. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học cũng giải thích tương tự “đồi trụy” là “trụy lạc và suy đồi”5. Do đó, có thể hiểu cha, mẹ có lối sống đồi trụy tức là cha, mẹ có lối sống lệch lạc, THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 42 Số 12(340) T6/2017 có những hành vi thiếu văn hóa, vi phạm đạo đức xã hội, vi phạm pháp luật. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lý, nhân cách của con. Nhưng, cũng giống như tiêu chí “phá tán tài sản”, cách giải thích “có lối sống đồi trụy” như đã nêu chỉ mang tính học thuật chứ không phải là giải thích chính thức. Ở đây cần có văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao làm căn cứ cho hoạt động xét xử của tòa án các cấp. Bốn là, cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên khi cha mẹ xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Cha, mẹ là người hướng dẫn để con thực hiện những việc làm đúng với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Do đó, nếu cha, mẹ có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì có thể bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. Đối chiếu với các quy định của khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7 Điều 7 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 20046 có thể xác định một số hành vi sau của cha, mẹ là “xúi giục, ép buộc con làm những điều trái pháp luật, trái đạo đức xã hội”: - Dụ dỗ, lôi kéo con đi lang thang; - Dụ dỗ, lừa dối, ép buộc con mua, bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy; - Lôi kéo con đánh bạc; - Dụ dỗ, lừa dối, dẫn dắt, chứa chấp, ép buộc con hoạt động mại dâm; - Lợi dụng, dụ dỗ, ép buộc con mua, bán, sử dụng văn hóa phẩm kích động bạo lực, đồi trụy; - Lợi dụng con vì mục đích trục lợi; 6 Luật này có hiệu lực đến ngày 31/5/2017 và sẽ được thay thế bởi Luật Trẻ em năm 2016 được Quốc hội thông qua ngày 05/4/2016, chính thức có hiệu lực vào ngày 01/6/2017. 7 Khoản 2, 3 Điều 36 BLTTDS năm 2015. 8 Điểm b khoản 2 Điều 38 BLTTDS năm 2015. - Xúi giục con thù ghét người giám hộ hoặc xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của người khác. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: ngoài những hành vi kể trên thì còn hành vi nào được xem là “xúi giục, ép buộc con làm những điều trái pháp luật, trái đạo đức xã hội”? Theo chúng tôi, bên cạnh các hành vi đã liệt kê còn có những hành vi khác cũng có thể được xem là xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội như: cưỡng ép con phải kết hôn khi chưa đủ tuổi; xúi giục con vi phạm luật giao thông; xúi giục con có hành vi hủy hoại tài sản của người khác, phá hoại của công; xúi giục con trộm cắp, lừa gạt, dối trá; xúi giục con tự sát, hủy hoại thân thể mình Vì vậy, cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể những trường hợp này để tạo cơ sở pháp lý rõ ràng khi áp dụng pháp luật trong thực tế. 2. Thẩm quyền và thủ tục hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên Điểm b khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 (Bộ luật TTDS năm 2015) quy định, Tòa án nhân dân (TAND) cấp huyện có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Theo đó, Tòa Gia đình và Người chưa thành niên TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện7. Tòa Gia đình và Người chưa thành niên TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm vụ việc về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị8. Theo khoản 2 Điều 85 Luật HNGĐ THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 43Số 12(340) T6/2017 năm 2014, việc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên được thực hiện bởi Tòa án thông qua hai phương thức sau đây: i) Tòa án tự mình ra quyết định tuyên bố hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; ii) căn cứ theo yêu cầu của những người có quyền yêu cầu, Tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật hiện hành chỉ quy định thủ tục tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên theo yêu cầu của những người có yêu cầu chứ không quy định thủ tục tòa án tự mình ra quyết định tuyên bố hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Trên thực tế, chỉ khi giải quyết vụ án hình sự thì tòa án mới ra quyết định tuyên bố hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên chứ chưa thấy có trường hợp nào tòa án ra quyết định tuyên bố nếu vụ việc không liên quan đến vụ án hình sự. Xin ví dụ: Bà Nguyễn Thị M. (huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước) đã dùng dao cắt gót chân phải của con gái Nguyễn Thị H. Theo kết quả giám định, H bị thương tật tổng cộng 40% (trên cơ thể bé còn rất nhiều vết thương cũ đã bị nhiễm trùng, mưng mủ, một ngón tay cái bị mất móng do bị cắt, vành tai 9 Xem bài viết: Anh Thoa - Thanh Liêm, Bà Nguyễn Thị M. bị phạt 24 tháng tù giam, tại website: phap-luat/20090117/ba-nguyen-thi-m-bi-phat-24-thang-tu-giam/298042.html, truy cập ngày 13/01/2017. 10 Chúng tôi xin đưa ra hai ví dụ điển hình sau đây để chứng minh cho phân tích nêu trên: Vụ việc thứ nhất xảy ra tại thôn Xuân Nẻo, xã Hưng Đạo, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương vào năm 2011. Người cha đẻ là Nguyễn Văn Ng. đã hành hạ dã man hai con của mình (con gái lớn Nguyễn Phạm N. Q sinh năm 1998 và con trai út Nguyễn Phạm H. K, sinh năm 2002) với những hành vi tàn độc: bắt con ăn phân người, phân gà, dùng tay chân đấm đá con, bắt con cởi quần áo đi từ nhà đến trường... Nguyễn Văn Ng. đã bị tuyên phạt 21 tháng tù giam về hành vi cố ý gây thương tích. Tuy nhiên, TAND huyện Tứ Kỳ chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn Ng. mà không tuyên hạn chế quyền của Nguyễn Văn Ng. đối với hai con là N. Q và H. K mặc dù hành vi vi phạm của Nguyễn Văn Ng. hoàn toàn có căn cứ để Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. Vụ việc thứ hai diễn ra ở thôn Điền Hòa, xã Nghĩa Điền, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi vào năm 2013. Ông Trần Th. (sinh năm 1972) đã có hành vi đánh đập dã man con trai ruột là Trần T. (sinh năm 2004). Cháu T. nhập viện trong tình trạng toàn thân tím tái, hốc mắt phải bị thâm do máu bầm tụ và tinh thần vô cùng hoảng loạn. Tại phiên tòa xét xử lưu động, bị cáo Trần Th. đã thừa nhận hành vi sai trái của mình. TAND huyện Tư Nghĩa tuyên phạt bị cáo Trần Th. 18 tháng tù và buộc bị cáo bồi thường các khoản chi phí thuốc men, tiền tổn thất về tinh thần và phục hồi sức khỏe cho cháu T. và mẹ cháu T. Tuy nhiên, TAND huyện Tư Nghĩa chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Trần Th. mà không tuyên hạn chế quyền của ông đối với cháu Trần T. nhằm bảo vệ cháu trước những hành vi vi phạm nghiêm trọng của người cha. trái bị cắt ngang, xương đòn bên trái bị gãy). Ngày 16/01/2009, TAND huyện Phước Long đã mở phiên Tòa sơ thẩm xét xử đối với Nguyễn Thị M. về tội cố ý gây thương tích. Ngày 06/5/2009, TAND tỉnh Bình Phước đã xử phúc thẩm đối với Nguyễn Thị M., bác đơn kháng cáo xin hưởng án treo của Nguyễn Thị M. và y án sơ thẩm 02 năm tù giam. Ngoài ra, Tòa còn hạn chế quyền nuôi dưỡng bé Nguyễn Thị H trong vòng 05 năm sau khi Nguyễn Thị M. ra tù9. Tuy nhiên, cũng có nhiều vụ tương tự (cha, mẹ vi có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý) nhưng Tòa án chỉ áp dụng các hình phạt chứ không hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên10. Do vậy, trong trường hợp không liên quan đến vụ án hình sự thì tòa án rất khó có cơ sở để tuyên hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên mặc dù cha, mẹ có những hành vi vi phạm khoản 1 Điều 85 Luật HNGĐ năm 2014. 3. Hậu quả pháp lý của hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên Theo quy định tại Điều 85 Luật HNGĐ năm 2014, tòa án có thể quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 44 Số 12(340) T6/2017 diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Theo quy định tại Điều 87 Luật HNGĐ năm 2014, khi cha, mẹ bị tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên có thể xảy ra các hệ quả pháp lý như sau11: “1. Trong trường hợp cha hoặc mẹ bị tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì người kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con. 2. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) và Luật này trong các trường hợp sau đây: a) Cha và mẹ đều bị tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên; b) Một bên cha, mẹ không bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên nhưng không đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con; c) Một bên cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên và chưa xác định được bên cha, mẹ còn lại của con chưa thành niên. 3. Cha, mẹ đã bị tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Quy định nêu trên có một số bất cập sau đây: Một là, quy định này chưa dự liệu được trường hợp khi một bên cha, mẹ bị tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên nhưng bên còn lại bị mất năng lực hành vi dân sự thì ai sẽ thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp 11 Điều 87 Luật HNGĐ năm 2014. 12 Khoản 2 Điều 136 BLDS năm 2015. 13 Điểm a khoản 1 Điều 47 BLDS năm 2015. luật cho con? Mặc dù Luật HNGĐ năm 2014 đã xác định cụ thể các trường hợp giao cho người giám hộ thực hiện việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên, tuy nhiên, giữa quy định của Điều này với quy định của BLDS năm 2015 về giám hộ không thống nhất, dẫn đến việc bỏ sót trường hợp nêu trên. Cụ thể là, khoản 2 Điều 87 Luật HNGĐ năm 2014 quy định: việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự và Luật này trong các trường hợp sau đây: a) Cha và mẹ đều bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên; b) Một bên cha, mẹ không bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên nhưng không đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con; c) Một bên cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên và chưa xác định được bên cha, mẹ còn lại của con chưa thành niên. Như vậy, khi một bên cha, mẹ bị tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên và bên còn lại bị mất năng lực hành vi dân sự thì có thể áp dụng theo trường hợp “một bên cha, mẹ không bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên nhưng không đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con” để cử người giám hộ. Trong khi đó, BLDS năm 2015 quy định, người giám hộ là người đại diện theo pháp luật đối với người được giám hộ12. Đối với người chưa thành niên, họ sẽ trở thành người được giám hộ khi rơi vào các trường hợp: i) không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ13; THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 45Số 12(340) T6/2017 ii) có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ14. Các điều khoản này không đề cập đến việc giám hộ đối với người chưa thành niên trong trường hợp một bên cha, mẹ bị tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên và bên còn lại bị mất năng lực hành vi dân sự (không đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con). Hai là, điểm b khoản 2 Điều 87 Luật HNGĐ năm 2014 quy định việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ trong trường hợp một bên cha, mẹ không bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên nhưng không đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con. Quy định này nhằm mục đích bảo đảm cho con chưa thành niên có đủ điều kiện để phát triển một cách bình thường. Tuy nhiên, căn cứ để kết luận bên cha, mẹ còn lại “không đủ điều kiện” để thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con chưa thành niên vẫn chưa được giải thích một cách rõ ràng. Chúng tôi cho rằng, để kết luận cha, mẹ có đủ điều kiện thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con hay không phải dựa vào rất nhiều yếu tố như: thu nhập hàng tháng của cha mẹ, mức sống trung bình tại địa phương, số lượng con cái 4. Một số kiến nghị Để khắc phục các hạn chế của pháp luật về các trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, chúng tôi kiến nghị: Thứ nhất, Hội đồng Thẩm phán TAND 14 Điểm b khoản 1 Điều 47 BLDS năm 2015. 15 Điểm b khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định: “Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành nghị quyết hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật”. tối cao cần ban hành nghị quyết hướng dẫn rõ ràng về vấn đề hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Trên cơ sở đó, minh định một cách rõ ràng các căn cứ hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; ban hành nghị quyết giải thích cụ thể hành vi nào của cha, mẹ bị xem là có “lối sống đồi trụy” và “xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội”. Thứ hai, bổ sung quy định về thủ tục hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong trường hợp tòa án ra quyết định để có cơ sở pháp lý rõ ràng áp dụng vào thực tế15. Ngoài ra, cần nâng cao vai trò của tòa án trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Thứ ba, bổ sung quy định về hệ quả pháp lý khi áp dụng biện pháp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Thứ tư, bổ sung quy định cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em và Hội liên hiệp Phụ nữ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chịu trách nhiệm giám sát, theo dõi việc thực thi quyết định của tòa án về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phối hợp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc bảo đảm các điều kiện về vật chất để bảo đảm điều kiện ăn ở, sinh hoạt và học tập của con chưa thành niên trong thời gian cha, mẹ bị hạn chế quyền hoặc sau khi hết thời gian cha, mẹ bị hạn chế quyền để hạn chế tình trạng cha, mẹ tiếp tục thực hiện các hành vi vi phạm đối với con chưa thành niên THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 46 Số 12(340) T6/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_quy_dinh_phap_luat_ve_han_che_quyen_cua_cha_me_me_doi.pdf