Vietnam is a country with great potentials for tourism development. Vietnam’s tourism
has made considerable progress, but it has also revealed a lot of inadequacies affecting the efficiency
of tourism activities and the sustainability of tourist destinations such as: the limited of tourism
products, the yet-to-be good tourism services, the unhealthy business competition, the customertroubling evils, the unplanned development, environmental pollution in these destinations, the rapid
degradation of tourism resources, the yet-to-be guaranteed security and safety for tourists and the
loose management of the State. There are many causes leading to the above-said shortcomings,
including those stemming from the disagreement in the relationship among the relevant parties in
tourism activities. This paper discusses the nature of the relationship among the relevant parties in
tourism activities; analyzes the real state of affairs of this relationship in Vietnam; comes up with
some lessons of international experience in building the good relationship among the relevant parties
in tourism activities and provides some recommendations to perfect these relations in order to develop
the tourism activities in a sustainable way in Vietnam.
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 808 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan nhằm phát triển hoạt động du lịch tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28
19
THÔNG TIN - BÌNH LUẬN
Hoàn thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan nhằm phát
triển hoạt động du lịch tại Việt Nam
Trần Thị Minh Hòa*
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội,
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 05 tháng 6 năm 2013
Chỉnh sửa ngày 30 tháng 7 năm 2013; Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 8 năm 2013
Tóm tắt: Việt Nam là một quốc gia có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Du lịch Việt Nam
đã có những bước tiến đáng kể, song cũng đã bộc lộ rất nhiều bất cập ảnh hưởng đến hiệu quả của
hoạt động du lịch, đến tính bền vững của điểm đến du lịch như: Sự nghèo nàn của sản phẩm du
lịch, chất lượng phục vụ du lịch chưa tốt, sự cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh, tệ nạn
chèo kéo khách, sự phát triển thiếu quy hoạch, sự ô nhiễm môi trường tại các điểm đến, sự xuống
cấp nhanh của nhiều tài nguyên du lịch, tình hình an toàn và an ninh cho du khách chưa được đảm
bảo, công tác quản lý nhà nước còn nhiều lỏng lẻo,... Có rất nhiều nguyên nhân gây ra những bất
cập nêu trên, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ sự bất đồng, không đồng thuận trong
mối quan hệ giữa các bên liên quan của hoạt động du lịch. Bài báo sẽ nêu lên bản chất của mối
quan hệ giữa các bên liên quan trong hoạt động du lịch; phân tích thực trạng của các mối quan hệ
này tại Việt Nam; đưa ra một số bài học kinh nghiệm quốc tế trong việc tạo ra các mối quan hệ tốt
giữa các bên liên quan trong hoạt động du lịch và đưa ra một số đề xuất để hoàn thiện các mối
quan hệ đó nhằm phát triển bền vững hoạt động du lịch tại Việt Nam.
Từ khóa: Du lịch, các bên liên quan, mối quan hệ, phát triển bền vững.
1. Bản chất mối quan hệ giữa các bên liên
quan trong hoạt động du lịch *
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn
có thể rút ra những điểm cơ bản về bản chất
của du lịch - một hiện tượng kinh tế - xã hội
ngày càng phổ biến như sau: Du lịch là ngành
_______
*
ĐT: 84-4-35588053
Email: hoatm225@vnu.edu.vn
kinh tế tổng hợp; khách du lịch của một điểm
đến là những người cư trú tại các địa phương
khác, quốc gia khác đến; về cơ bản, sản phẩm
du lịch mang tính dịch vụ; hoạt động kinh
doanh du lịch dựa trên tài nguyên du lịch, có
nhiều mối quan hệ trực tiếp với cộng đồng dân
cư sở tại. Từ đó có thể thấy có rất nhiều các cá
nhân, tập thể (gọi chung là các bên liên quan)
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28
20
du lịch. Theo ông Michael Coltman, nhà kinh
tế học người Mỹ nghiên cứu về du lịch, các
bên liên quan chính của hoạt động du lịch bao
gồm: Khách du lịch, nhà cung ứng sản phẩm
du lịch, dân cư tại điểm du lịch và các cơ quan
quản lý nhà nước về du lịch [1]. Hiệu quả của
hoạt động du lịch, cũng như khả năng phát
triển bền vững tại một điểm đến du lịch phụ
thuộc rất lớn vào mối quan hệ giữa các bên
liên quan của hoạt động du lịch. Trước khi tìm
hiểu mối quan hệ giữa các bên liên quan,
chúng ta cần thống nhất quan điểm về từng bên
liên quan đã nêu trên.
Khách du lịch
Tại Điểm 2, Điều 4 của Luật Du lịch Việt
Nam (2005) khách du lịch được định nghĩa “là
người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ
trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để
nhận thu nhập ở nơi đến”. Tại Điều 34, khách
du lịch được chia thành khách du lịch quốc tế
và khách du lịch nội địa [2].
Nhà cung ứng sản phẩm du lịch
Nhà cung ứng sản phẩm du lịch là các pháp
nhân cung ứng một hoặc nhiều dịch vụ/hàng hóa
cho du khách trong chuyến hành trình của họ.
Các nhà cung ứng sản phẩm du lịch có thể được
chia thành ba nhóm như sau: Các doanh nghiệp
kinh doanh du lịch; các doanh nghiệp kinh doanh
các ngành nghề khác, song có cung ứng sản
phẩm phục vụ khách du lịch; và các nhà cung
ứng dịch vụ công.
Nhóm thứ nhất bao gồm: Doanh nghiệp
kinh doanh lữ hành, doanh nghiệp kinh doanh
lưu trú du lịch, doanh nghiệp kinh doanh vận
chuyển khách du lịch, doanh nghiệp kinh
doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch,
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch khác
(Điều 38, Luật Du lịch Việt Nam 2005) [2].
Thuộc nhóm thứ hai có thể kể đến: Các
hãng vận chuyển hàng không, các công ty vận
chuyển đường sắt, các công ty vận chuyển
đường bộ; các doanh nghiệp thương mại; các
ngân hàng; công ty bưu chính - viễn thông;
Nhóm thứ ba bao gồm: Các cơ quan ngoại
giao, hải quan, công an,
Dân cư tại điểm du lịch
Dân cư tại điểm du lịch là tất cả những
người đang cư trú thường xuyên ngay tại
những nơi có tài nguyên du lịch (vùng lõi),
hoặc tại những nơi bên ngoài tài nguyên du
lịch nhưng là những địa bàn có các hoạt động
cung ứng sản phẩm phục vụ cho khách du lịch
(vùng đệm).
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
tại Việt Nam được chia thành ba nhóm: Các cơ
quan quản lý nhà nước địa bàn về du lịch, các
cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về du
lịch, và các cơ quan quản lý nhà nước hữu
quan về du lịch.
Thuộc nhóm thứ nhất có thể kể đến: Chính
phủ (ở cấp trung ương) và ủy ban nhân dân các
cấp (ở cấp địa phương). Các cơ quan này có chức
năng quản lý nhà nước một cách tổng thể về mọi
phương diện của đời sống kinh tế-xã hội, trong
đó có du lịch, trên một địa bàn cụ thể.
Nhóm thứ hai bao gồm: Bộ VH-TT-DL, mà
trực tiếp là Tổng cục Du lịch (ở cấp trung ương)
và Sở VH-TT-DL và sau đó là các Phòng DL (ở
cấp địa phương). Các cơ quan này có chức năng
quản lý nhà nước về các vấn đề thuộc chuyên
môn của ngành du lịch. Ví dụ, ở cấp trung ương,
các chức năng cụ thể bao gồm:
Xây dựng các đề án về chiến lược, về quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch của cả nước
và đệ trình lên Chính phủ phê duyệt;
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về du lịch, xây dựng và thực hiện hàng loạt các
chính sách kinh tế lớn để phát triển du lịch và
xây dựng một cơ chế có hiệu lực để đưa chính
sách và thể chế quản lý vào hoạt động kinh
doanh du lịch;
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28 21
Tổ chức hướng dẫn thực hiện và kiểm tra
việc thực hiện các văn bản luật, các qui chế,
các chế độ, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ
thuật, qui trình, qui phạm trong hoạt động du
lịch;
Tổ chức tuyên truyền, quảng bá du lịch;
nghiên cứu ứng dụng khoa học; đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; hợp tác quốc tế; bảo vệ môi
trường du lịch;
Giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý
các vi phạm luật trong hoạt động du lịch; thúc
đẩy du lịch phát triển theo định hướng chung
của đất nước; hạn chế, đi đến xóa bỏ các hiện
tượng không lành mạnh, các mặt trái của du
lịch như mại dâm, nghiện hút, phát tán và sử
dụng văn hóa phẩm đồi trụy,
Thuộc nhóm thứ ba có thể kể đến: Bộ
Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ GT-VT, Bộ Y tế,
Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT, Bộ Công
Thương,(cấp trung ương) và các Sở tương
ứng ở cấp địa phương. Các cơ quan này được
thành lập để quản lý các vấn đề thuộc ngành
tương ứng, song do trong các hoạt động của
ngành du lịch có những vấn đề thuộc sự quản
lý ngạch dọc của các cơ quan đó nên sẽ chịu sự
quản lý của các cơ quan này.
Có thể mô tả mối quan hệ giữa các bên liên
quan tham gia vào hoạt động du lịch bằng sơ đo sau
Như vậy, có thể thấy giữa các bên liên
quan tham gia vào hoạt động du lịch có 6 mối
quan hệ cơ bản, gồm:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa khách du lịch
với nhà cung ứng sản phẩm du lịch. Xét dưới
góc độ thị trường thì đây thực chất là mối quan
hệ giữa cung và cầu. Tuy nhiên, do bản chất
của quá trình mua và tiêu dùng sản phẩm du
lịch là quá trình phục vụ nên ngoài các mối
quan hệ mang tính chất kinh tế thì giữa khách
du lịch và nhà cung ứng sản phẩm du lịch còn
phát sinh các mối quan hệ mang tính chất tâm
lý, văn hóa, xã hội, tôn giáo,
Thứ hai, mối quan hệ giữa khách du lịch
với cộng đồng dân cư tại điểm du lịch. Về cơ
bản, mối quan hệ này chủ yếu mang tính văn
hóa, xã hội. Tuy nhiên, trong nhiều trường
hợp, người dân địa phương cũng tham gia vào
cung ứng một số hàng hóa (sản phẩm địa
phương, đồ lưu niệm), cung ứng dịch vụ cho
du khách (hướng dẫn tham quan, homestay,...).
Thứ ba, mối quan hệ giữa khách du lịch
với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch.
Trong mối quan hệ này, khách du lịch cần
quan tâm đến việc tuân thủ các quy định về
luật, lệ của điểm đến. Các cơ quan quản lý nhà
nước về du lịch, một mặt, cần phải đảm bảo
các điều kiện an toàn, an ninh cho du khách tại
điểm đến. Mặt khác, các cơ quan này cũng cần
có những biện pháp giám sát và xử lý các hành
vi vi phạm luật, lệ của du khách tại điểm đến.
Khách du lịch Nhà cung ứng
sản phẩm du
lịch
Dân cư tại điểm
du lịch
Cơ quan quản lý
nhà nước về du
lịch
1
2
3 4
5
6
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28
22
Thứ tư, mối quan hệ giữa nhà cung ứng sản
phẩm du lịch với cộng đồng dân cư tại điểm du
lịch. Đây là mối quan hệ có tính tương tác từ
hai phía. Nếu như cộng đồng dân cư tại điểm
du lịch là nguồn cung ứng nhân lực và một
phần các nguyên liệu đầu vào cho các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch. Xét từ phía ngược
lại thì các doanh nghiệp kinh doanh du lịch là
nơi tạo công ăn việc làm cho người dân tại
điểm du lịch, tiêu thụ một phần sản phẩm được
tạo ra bởi cộng đồng dân cư bản địa. Tại những
nơi mà cộng đồng dân cư sống đan xen với các
tài nguyên du lịch thì hoạt động của các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch sẽ có những tác
động trực tiếp đến cộng đồng dân cư sở tại.
Ngược lại, đời sống sinh hoạt hàng ngày của
người dân tại điểm du lịch cũng sẽ có những
tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
Thứ năm, mối quan hệ giữa nhà cung ứng
sản phẩm du lịch với các cơ quan quản lý nhà
nước về du lịch. Về cơ bản, đây là mối quan hệ
giữa cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô với các đơn
vị kinh doanh (trừ các cơ sở cung cấp các dịch
vụ công trong du lịch như đã nêu ở phần trên).
Các cơ quan quản lý nhà nước cần tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành
mạnh cho các doanh nghiệp. Ngược lại, các
doanh nghiệp kinh doanh cần đảm bảo tuân thủ
pháp luật và đạo đức kinh doanh.
Thứ sáu, mối quan hệ giữa cơ quan quản lý
nhà nước về du lịch và cộng đồng dân cư tại
điểm du lịch. Trong mối quan hệ này, một mặt,
các cơ quan quản lý nhà nước cần có những
biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, giải quyết
các hành vi tiêu cực của những người dân tại
điểm du lịch gây ra cho du khách, gây ảnh
hưởng đến môi trường du lịch, phá hủy tài
nguyên du lịch du lịch tự nhiên, thương mại
hóa tài nguyên du lịch nhân văn. Mặt khác, các
cơ quan này cần phải tuyên truyền nâng cao
nhận thức của người dân về ích lợi của việc
phát triển du lịch tại địa phương, tạo cơ chế để
chia sẻ lợi ích từ hoạt động du lịch cho người
dân bản địa.
2. Thực trạng mối quan hệ giữa các bên liên
quan trong hoạt động du lịch tại Việt Nam
Do khuôn khổ có hạn, bài báo tập trung
chủ yếu phân tích các vấn đề bất cập chính của
mối quan hệ giữa các bên liên quan trong hoạt
động du lịch của Việt Nam hiện nay, cụ thể
như sau:
Đối với mối quan hệ thứ nhất:
Các nhà kinh doanh du lịch Việt Nam
nhiều khi không đảm bảo mức chất lượng phục
vụ đã cam kết với khách. Đó có thể là mức
chất lượng của dịch vụ/hàng hóa không đáp
ứng với sự kỳ vọng của khách; có thể là thái độ
ứng xử, trình độ chuyên môn của nhân viên
phục vụ; và nhiều khi có thể là cả sự ăn bớt
dịch vụ/hàng hóa mà lẽ ra khách được hưởng
theo hợp đồng đã ký kết.
Do mối quan hệ giữa ngành du lịch và các
ngành kinh tế khác bổ trợ cho du lịch tại Việt
Nam chưa tốt nên tình trạng nhiều nhà cung
ứng sản phẩm cho khách du lịch không đáp
ứng về mặt chất lượng dịch vụ/hàng hóa,
không đảm bảo sự an toàn cho khách du lịch vẫn
thường xuyên xảy ra. Điển hình là các trường
hợp chậm chuyến, hủy chuyến của ngành hàng
không; dịch vụ vận chuyển đường bộ, đường
thủy thiếu an toàn gây rủi ro cho khách.
Mặc dù các dịch vụ công cung ứng cho khách
tại Việt Nam đã ngày một được cải thiện hơn.
Song, vẫn còn tình trạng giải quyết chậm các thủ
tục hành chính cho du khách tại các cửa khẩu.
Ngược lại, nhiều khi chính hành vi tiêu dùng
không tích cực của một số đối tượng khách du lịch
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28 23
(cả khách nội địa và khách quốc tế) đang gây ra
những bức xúc nhất định cho các nhà cung ứng
sản phẩm du lịch tại Việt Nam hiện nay.
Đối với mối quan hệ thứ hai:
Việt Nam được đánh giá là điểm đến thân
thiện và mến khách, do vậy về cơ bản mối quan
hệ giữa du khách và dân cư bản địa không phát
sinh những vấn đề lớn, ngoại trừ một số hiện
tượng tiêu cực mà người dân gây ra cho du
khách sẽ được nhắc đến trong khi phân tích mối
quan hệ thứ sáu ở phần dưới.
Đối với mối quan hệ thứ ba:
Khi lượng khách đến một điểm đến ngày càng
gia tăng thì ngoài những mặt tích cực mà họ đem
lại cho điểm đến, không ít người trong số họ gây
ra những vấn đề tiêu cực đòi hỏi các cơ quan quản
lý nhà nước về du lịch phải giải quyết. Hiện nay,
hiện tượng một số khách du lịch (cả khách quốc tế
và khách nội địa) có những hành vi ứng xử thiếu
văn minh nơi công cộng, thiếu ý thức bảo vệ tài
nguyên và môi trường du lịch thường xuyên diễn
ra tại các điểm đến du lịch. Đáng đề cập nhất là
hiện tượng một số đàn ông đến từ các nước châu
Phi, họ đến trên danh nghĩa là với mục đích du
lịch song thực tế lại đang hành nghề “giai gọi”,
hoặc tham gia cướp giật, vận chuyển chất gây
nghiện; một số phụ nữ đến từ các nước khác
nhau đang hành nghề mại dâm tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
Đối với mối quan hệ thứ tư:
Cho đến nay, cũng đã hình thành và phát
triển một số hình thức liên kết giữa các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch với cộng đồng dân
cư sở tại như: Các công ty du lịch khai thác và
quản lý đội văn nghệ Cát Cát (xã San Sả Hồ,
tỉnh Lào Cai); các công ty du lịch đưa khách
đến sử dụng dịch vụ homestay tại một số hộ
gia đình ở Làng cổ Đường Lâm; các công ty
du lịch đưa khách đến nhà dân tham gia gói,
luộc bánh chưng và đón Giao thừa tại Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh;
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch tại Việt Nam cũng chưa thực sự có
ý thức cao trong việc ưu tiên tạo công ăn việc
làm cho cộng đồng dân cư sở tại, trong việc tiêu
thụ các sản phẩm của người dân địa phương
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
Đối với mối quan hệ thứ năm:
Lượng khách du lịch của Việt Nam trong
những năm gần đây gia tăng với tốc độ khá
cao. Tính trung bình cho giai đoạn 2008-2012,
lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
tăng khoảng 14,22% %, lượng khách du lịch
nội địa của Việt Nam tăng khoảng 12,33 % [6].
Không chỉ gia tăng về lượng khách, nhu cầu của
khách cũng ngày một tăng lên. Để đáp ứng sự gia
tăng đó của cầu, cung du lịch cũng ngày một gia
tăng. Theo thống kê sơ bộ của Tổng Cục Du lịch
[5], tại Việt Nam hiện nay có khoảng 1.000
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế. Số
doanh nghiệp có đăng ký chức năng kinh doanh
lữ hành (do sở Kế hoạch và Đầu tư của các tỉnh
cấp phép) có đến vài chục ngàn, trong đó có
thông báo thời gian hoạt động lữ hành nội địa và
báo cáo đến các sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
là vài ngàn. Tính đến cuối năm 2012, cả nước có
khoảng 13.500 cơ sở kinh doanh lưu trú, với
285.000 buồng [6].
Có một thực tế là do quá trình chuyển đổi
từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế kinh tế thị trường, nên hiện nay
mặc dù đã được cổ phần hóa, song về thực chất
thì nhiều doanh nghiệp du lịch tại Việt Nam
vẫn thuộc các đơn vị chủ quản là các bộ/ban
ngành khác, hoặc là ủy ban nhân dân cấp
tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương.
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
chuyên ngành đối với hệ thống các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch tại Việt Nam có quy
mô ngày càng lớn và có những nét đặc trưng
của giai đoạn quá độ của nền kinh tế, ở cấp
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28
24
trung ương trực tiếp là Tổng cục Du lịch Việt
Nam (trực thuộc Bộ VH-TT-DL) và ở cấp địa
phương là các Sở VH-TT-DL.
Thời gian qua, đã có những biểu hiện của
thực tế cho thấy quản lý nhà nước về du lịch đã
không bắt kịp sự phát triển của thị trường du lịch
tại Việt Nam. Đó là hiện tượng nhiều doanh
nghiệp kinh doanh các dịch vụ không được đăng
ký kinh doanh (doanh nghiệp lữ hành nội địa
kinh doanh cả lữ hành quốc tế, cơ sở kinh doanh
lưu trú kinh doanh mại dâm,.); núp bóng kinh
doanh; bán khách; kinh doanh không đảm bảo
yêu cầu về vệ sinh dịch tễ, an toàn lương thực,
thực phẩm; không đảm bảo an toàn tính mạng
cho du khách (tàu chở khách du lịch trên sông,
trên biển không có áo phao; tại các bãi biển
không có đủ lực lượng và phương tiện cứu hộ
chuyên nghiệp.)
Đối với mối quan hệ thứ sáu:
Thời gian qua, chính quyền địa phương tại
nhiều điểm đến du lịch tại Việt Nam đã có
những cố gắng trong việc quan tâm đến sự
phát triển du lịch gắn với lợi ích của cộng
đồng. Ví dụ, tại Lào Cai đã tiến hành xây dựng
các đội văn nghệ thôn, bản hoạt động dưới sự
quản lý của Ban quản lý du lịch cộng đồng để
phục vụ cho hoạt động du lịch (tại Xã Bản Hồ,
xã Tả Van,). Các đội văn nghệ được duy trì
và biểu diễn thường xuyên tại các điểm du lịch
cộng đồng, tạo thu nhập bình quân mỗi tháng
từ 1 đến 1,2 triệu đồng cho một thành viên.
Tuy nhiên, tại nhiều điểm đến du lịch còn
tình trạng một số người dân gây phiền nhiễu
đối với khách du lịch (tệ nạn đeo bám khách,
ăn xin, cò mồi, cướp giật,); xâm hại đến tài
nguyên du lịch;Các hiện tượng này đã và
đang diễn ra tại các điểm du lịch như: Khu vực
Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội; Chùa Hương, Hạ
Long, Tam Cốc-Bích Động, Tràng An-Bái
Đính,Mặc dù thời gian qua các cơ quan quản
lý nhà nước về du lịch tại các địa bàn tương
ứng đã có nhiều giải pháp để giải quyết các
hiện tượng đó, song trên thực tế hiệu quả đạt
được của các giải pháp còn chưa cao.
Nguyên nhân của những hiện tượng đó một
phần là do ý thức của một bộ phận dân cư còn
kém, nhận thức của họ về những đóng góp của
du lịch cho điểm đến còn chưa đúng. Song,
cũng có những nguyên nhân xuất phát từ việc
các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch không
quan tâm đầy đủ đến việc chia sẻ lợi ích từ
hoạt động du lịch cho người dân sở tại. Nhiều
khi, người dân không thấy nhận được những
lợi ích trực tiếp từ du lịch như có được công
ăn, việc làm, bán được hàng hóa cho du khách,
được tham gia hỏi ý kiến trong việc quy hoạch
phát triển du lịch tại địa phương,Họ lại chỉ
nhận thấy những tác động tiêu cực mà hoạt
động du lịch gây ra trực tiếp cho đời sống của
họ như giá cả các hàng hóa thiết yếu hàng
ngày tăng cao hơn, môi trường tự nhiên ô
nhiễm hơn, một số giá trị văn hóa bị xuống
cấp, giao thông đi lại khó khăn hơn, Trường
hợp hàng loạt hộ dân tại Làng cổ Đường Lâm
đề nghị xin bỏ danh hiệu công nhận Di sản văn
hóa do những qui định về đảm bảo không gian
văn hóa nên họ không được xây nhà cao tầng
trên khuôn viên đất của họ là một vấn đề đặt ra
mà các cơ quan quản lý nhà nước cần có
những giải pháp thấu đáo.
3. Một số bài học kinh nghiệm quốc tế trong
việc tạo ra các mối quan hệ tốt giữa các bên
liên quan trong hoạt động du lịch [3]
3.1. Tạo ra mối quan hệ tốt giữa các cơ quan
quản lý nhà nước về du lịch với cộng đồng dân
cư sở tại
Ưu tiên, khuyến khích cộng đồng sở tại và
người dân bản địa tham gia trong việc lên kế
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28 25
hoạch phát triển du lịch di sản nhằm tránh
xung đột về quyền lợi. Tại Khu Di sản thế giới
vùng Hồ Wilandra hay tại khu Di sản thế giới
Vịnh Cá mập ở Australia, các kế hoạch phát
triển du lịch hay quản lý để bảo toàn các các
vùng thuộc khu di sản được đưa ra lấy ý kiến
công chúng ít nhất là hai tháng (theo luật của
bang Tây Autralia). Tại đây, Ủy ban tư vấn địa
phương đóng vai trò chính trong việc hoạch
định các chiến lược thích hợp và khả thi cho
việc phát triển các sản phẩm du lịch tại di sản.
Nâng cao nhận thức của người dân về giá
trị của tài nguyên du lịch và trách nhiệm bảo
vệ môi trường du lịch. Tại Patan (Nepan), cộng
đồng dân cư sở tại và du khách được khuyến
khích quan tâm tới tài nguyên và môi trường
du lịch bằng các hoạt động cụ thể như phát
hành tài liệu quảng bá văn hóa và di sản địa
phương, sử dụng sách hướng dẫn du lịch cho
khách du lịch và người dân địa phương; tổ
chức các chuyến tham quan cộng đồng và các
dự án phục chế nhà cửa ở địa phương,
Tạo và duy trì việc làm, tăng thu nhập cho
người dân địa phương từ hoạt động du lịch.
Tại Khu Di sản thế giới Vườn Quốc gia
Keoladeo (Ấn Độ) người dân địa phương được
ưu tiên đặc biệt trong việc tuyển dụng thành
hướng dẫn viên với mục đích rõ ràng là hỗ trợ
cho người nghèo ở địa phương. Tại Vườn
Quốc gia Komodo (Indonesia), một nguyên tắc
chủ đạo được quy định là các cộng đồng địa
phương được ưu tiên trong việc thụ hưởng lợi
ích do Vườn Quốc gia mang lại. Cộng đồng địa
phương được ưu tiên tham gia vào các hoạt động
du lịch (chuyên chở khách, hướng dẫn tham quan
cho khách, cung cấp nơi ăn nghỉ tại nhà theo
hình thức homestay, làm việc trong các cơ sở
kinh doanh du lịch, làm đồ thủ công mỹ nghệ và
đồ lưu niệm để bán cho du khách tại Vườn Quốc
gia,); hoặc tham gia vào quản lý các nguồn lực
tại khu vực Vườn Quốc gia.
3.2. Tạo ra mối quan hệ tốt giữa cơ quan quản
lý nhà nước về du lịch với các nhà kinh doanh
du lịch
Thường xuyên đánh giá những tác động của
hoạt động du lịch đối với môi trường và có những
biện pháp để giảm thiểu những tác động đó. Tại
khu Thác Iguacu của Brazil, ở quần đảo Galapagos
của Ecuador, ở Vườn Quốc gia Morne Trois Piton
của Dominica, tác động của các chuyến bay trực
thăng, sự xâm nhập của du khách ảnh hưởng đến
đến động vật hoang dã thường xuyên được đánh
giá để có những điều chỉnh kịp thời cho hoạt động
du lịch tại những nơi này. Tại các khu di chỉ
Alhamra, Generalife và Albayzin ở Granada của
Tây Ban Nha khi có sự quá tải của du khách thì
hoạt động du lịch sẽ được điều chỉnh để giảm thiểu
lượng du khách đến những nơi này trong một thời
gian.
Bảo đảm tất cả các hoạt động du lịch phải
phù hợp với bối cảnh tự nhiên và nhân văn tại
khu vực. Ban quản lý tại khu Đền-Mộ Tạ
Mahal ở Ấn Độ đã gạt bỏ việc chiếu sáng khu
Đền-Mộ với lý do đền chiếu sáng có thể giúp
du khách dễ quan sát hơn vào buổi tối, nhưng
lại làm mất đi cơ hội ngắm khu đền dưới ánh
trăng.
3.3. Tạo ra mối quan hệ tốt giữa nhà kinh
doanh du lịch với khách du lịch, với chính
quyền tại điểm đến
Bảo đảm lợi ích cao nhất cho khách hàng.
Tập đoàn lữ hành TUI của CHLB Đức thu thập
và cung cấp thông tin cho du khách về chất
lượng môi trường của hơn 100 điểm đến mà du
khách của họ thường đến gồm: Thông tin về
chất lượng của bãi tắm, thông tin về những quy
định về tiết kiệm năng lượng, kiểm soát giao
thông,TUI cũng xây dựng lên các tiêu chuẩn
về môi trường, chính sách quản lý môi trường
và thường xuyên hợp tác với các cơ sở lưu trú,
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28
26
với chính quyền của điểm đến để nâng cao
nhận thức cho khách du lịch về bảo vệ môi
trường, cũng như tạo môi trường du lịch tốt
nhất cho du khách của họ [4, p 91].
Phối kết hợp tích cực với chính quyền tại
điểm đến. Ngành du lịch tại tỉnh Yogyakarta,
Indonesia giữ một vai trò hết sức quan trọng
trong việc tạo công ăn việc làm và thu nhập
cho người dân bản địa.Trận động đất tháng 5
năm 2006 đã phá hủy rất nhiều nhà cửa, làng
mạc, cơ sở hạ tầng, làm ảnh hưởng nặng nề
đến ngành du lịch của Tỉnh. Sau thảm họa
động đất, các nhà kinh doanh du lịch tại đây đã
phối hợp rất chặt chẽ với Bộ Văn hóa và Du
lịch, với chính quyền địa phương trong việc
truyền thông ra thế giới về công tác phục hồi
điểm đến, về điểm đến với nhiều giá trị văn
hóa quan trọng của nền văn hóa Java. [4, p 84].
4. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện mối
quan hệ giữa các bên liên quan nhằm phát
triển hoạt động du lịch tại Việt Nam
Để du lịch Việt Nam ngày càng phát triển
tương xứng với tiềm năng sẵn có, dưới góc độ
hoàn thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan,
cần có những giải pháp ở tầm vĩ mô và vi mô.
4.1. Các giải pháp vĩ mô
Thành lập ban quản lý điểm đến có sự tham
gia của các bên liên quan, của các chuyên gia về
du lịch. Hoạt động của tổ chức này phải hướng
tới việc thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của tất
cả các bên liên quan và đạt được hàng loạt các
mục tiêu chiến lược. Tổ chức này cần giữ vai trò
quan trọng trong việc quản lý các nguồn lực về
kinh tế, xã hội và môi trường của điểm đến. Nói
một cách khác, tổ chức này có trách nhiệm kết
nối và thực hiện những chiến lược phát triển bền
vững của điểm đến. Những chiến lược phát triển
bền vững được xây dựng và thực hiện không chỉ
về du lịch mà còn về chất lượng cuộc sống của
dân cư bản địa [4].
Khi xây dựng các đề án về chiến lược, quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch hay xây dựng
dự thảo của các văn bản quy phạm pháp luật,
của các chính sách kinh tế vĩ mô về du lịch,
các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cần có
sự tham vấn ý kiến của các bên liên quan còn
lại (khách du lịch, nhà cung ứng sản phẩm du
lịch và cộng đồng dân cư sở tại).
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
cần có những định hướng về mô hình phát
triển du lịch, về loại hình, sản phẩm du lịch để
các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, những
người dân sở tại tham gia vào hoạt động du
lịch có phương hướng phát triển du lịch đúng
đắn, để hoạt động du lịch tại điểm đến phát
triển có tính đồng bộ và bền vững. Những đề
xuất này có tính rất cấp thiết đối với các địa
bàn vùng sâu, vùng xa, nơi có những tiềm
năng phát triển du lịch nổi trội song lại không
có lợi thế so sánh để phát triển các ngành kinh
tế khác, nền kinh tế tại những khu vực này
đang rất kém phát triển, người dân có trình độ
dân trí thấp, có thu nhập rất thấp như các địa
bàn thuộc khu vực “3 Tây”; những địa bàn có
các di sản văn hóa có giá trị nổi trội (mới được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới
như Hát Xoan Phú Thọ, mới được phát hiện
như Mộc bản Triều Nguyễn tại chùa Vĩnh
Nghiêm, Bắc Giang,)
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
thuộc các bộ/ban ngành khác nhau, ở các cấp
quản lý khác nhau cần có sự phối kết hợp chặt
chẽ trong việc quản lý đối với hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp kinh doanh du
lịch, đối với các hành vi của khách du lịch, đối
với hành vi và nhận thức của cộng đồng dân cư
sở tại liên quan đến hoạt động du lịch. Cụ thể,
trong thời gian tới, cần nâng cao hiệu quả hoạt
động của Ủy ban Quốc gia về du lịch. Tại các
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28 27
địa phương phát triển du lịch cần nhân rộng
mô hình Nâng cao hiệu quả hoạt động của
các ban quản lý du lịch (Ban Quản lý Vịnh Hạ
Long, Ban Quản lý Khu Danh thắng Tam Cốc-
Bích Động,.) hiện tại. Các điểm đến du lịch
cần hình thành lực lượng an ninh du lịch.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp
hội về du lịch (Hiệp hội du lịch, Hiệp hội lữ
hành, Hiệp hội khách sạn); các câu lạc bộ về
du lịch (Câu lạc bộ đón khách du lịch tàu biển,
Câu lạc bộ đón khách đường bộ,).
Bộ VH-TT-DL sớm chỉ đạo các cơ quan
chức năng nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chuẩn,
tiêu chí đánh giá chất lượng phục vụ du lịch, trong
đó đặc biệt quan tâm đến các điều kiện đảm bảo
an toàn, an ninh cho du khách; xây dựng bộ máy
quản lý chất lượng phục vụ du lịch để phục vụ cho
công tác đánh giá, xếp hạng cơ sở du lịch, phục vụ
cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử
phạt những cơ sở không đảm bảo chất lượng phục
vụ du khách. Có như vậy mới có chế tài khiến các
cơ sở kinh doanh du lịch phải quan tâm đảm bảo
chất lượng phục vụ du lịch.
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, đặc
biệt là ở cấp địa phương, một mặt, cần đẩy mạnh
các hoạt động tuyên truyền nâng cao dân trí về ích
lợi của việc phát triển du lịch tại địa phương. Mặt
khác, cần quan tâm sâu sát đến việc tạo lợi ích cho
người dân bản địa từ hoạt động du lịch, cụ thể
theo các hướng:
Đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ du lịch; về
giao tiếp, ứng xử; về ngoại ngữ để họ có đủ năng
lực hoặc được tuyển vào làm tại các cơ sở du lịch,
hoặc tham gia dưới hình thức lao động hợp đồng
hay lao động mùa vụ cho các cơ sở du lịch;
Định hướng, hướng dẫn cho họ trong việc tạo
ra các sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách du
lịch để bán cho khách du lịch, cho cơ sở kinh
doanh du lịch đạt hiệu quả cao hơn. Đó có thể là
các đồ lưu niệm, lương thực, thực phẩm.
Chính phủ cần tạo cơ chế, chính sách đặc thù
cho việc phát triển du lịch gắn với xóa đói, giảm
nghèo cho các địa bàn vùng sâu, vùng xa, đặc biệt
là tại các khu vực biên giới của đất nước mà hiện
nay Hà Giang là một ví dụ điển hình).
4.2. Các giải pháp vi mô
Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch của Việt
Nam cần nâng cao tính chuyên nghiệp, quan tâm
hơn nữa đến đạo đức kinh doanh, quan tâm hơn
nữa đến công tác nghiên cứu đặc điểm tiêu dùng
của khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc
tế, để ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ đối
với du khách, ngày càng hoàn thiện hơn mối quan
hệ giữa các nhà cung ứng sản phẩm du lịch với
khách du lịch.
Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch cần tích
cực tham gia và phát huy tiếng nói trong các hiệp hội
du lịch, các câu lạc bộ du lịch để tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh.
Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch cần có
sự phối kết hợp chặt chẽ hơn nữa với cộng đồng
dân cư sở tại để khai thác các giá trị bản địa tạo
sản phẩm đặc thù của điểm đến, tạo lợi ích cho
cộng đồng, tạo sự gắn kết giữa cộng đồng và
doanh nghiệp.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa; Giáo
trình ”Kinh tế Du lịch”; NXB Đại học Kinh tế
Quốc dân; 2008.
[2] Quốc hội, Luật số 44/2005/QH11 của Quốc hội -
Luật Du lịch, 2005.
[3] Vũ Anh Tú; “Phát triển du lịch di sản trên thế
giới và bài học cho Việt Nam”; Tọa đàm khoa
học “Phát triển du lịch trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế-những vấn đề đặt ra”; Trường
ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội; ngày 06 tháng
4 năm 2012.
[4] Metin Kozak and Seyhmus Baloglu; “Managing
and Marketing Tourist Destinations: Strategies to
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28
28
Gain a Competitive Edge - Routledge Advances
in Tourism”; Taylor & Francis, 2010.
[5]
lich/594616/lon-xon-kinh-doanh-lu-hanh-quoc-
te-co-quan-quan-ly-bat-
luc;
VN/kinhte/2013/6/202000.cand.
[6] Theo số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch Việt
Nam cho các năm và theo tính toán của tác giả.
Perfecting the Relationship Among Relevant Parties
to Develop Tourism Activities in Vietnam
Trần Thị Minh Hòa
VNU University of Social Sciences and Humanities,
336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam
Abstract: Vietnam is a country with great potentials for tourism development. Vietnam’s tourism
has made considerable progress, but it has also revealed a lot of inadequacies affecting the efficiency
of tourism activities and the sustainability of tourist destinations such as: the limited of tourism
products, the yet-to-be good tourism services, the unhealthy business competition, the customer-
troubling evils, the unplanned development, environmental pollution in these destinations, the rapid
degradation of tourism resources, the yet-to-be guaranteed security and safety for tourists and the
loose management of the State. There are many causes leading to the above-said shortcomings,
including those stemming from the disagreement in the relationship among the relevant parties in
tourism activities. This paper discusses the nature of the relationship among the relevant parties in
tourism activities; analyzes the real state of affairs of this relationship in Vietnam; comes up with
some lessons of international experience in building the good relationship among the relevant parties
in tourism activities and provides some recommendations to perfect these relations in order to develop
the tourism activities in a sustainable way in Vietnam.
Keywords: Tourism, the relevant parties, relationship, sustainable development.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3_5_2086.pdf